Luận văn Nghiên cứu đề xuất các phương án nhập khẩu than cho các nhà máy điện dùng than nhập khẩu của PVN

MỤC LỤC . 3

DANH MỤC HÌNH VỄ. 7

DANH MỤC BẢNG BIỂU. 9

CÁC THUẬT NGỮ VÀ TỪ VIẾT TẮT. 10

PHẦN MỞ ĐẦU. 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA. 15

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của nhập khẩu trong nền kinh tế. 15

1.1.1. Khái niệm nhập khẩu . 15

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu. 15

1.1.3. Vai trò của nhập khẩu . 16

1.2. Các hình thức nhập khẩu hàng hoá. 20

1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp. 20

1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác . 21

1.2.3. Hình thức nhập khẩu liên doanh. 22

1.2.4. Hình thức nhập khẩu đổi hàng. 23

1.2.5. Hình thức nhập khẩu tái xuất . 24

1.2.6. Hình thức nhập khẩu theo đơn đặt hàng . 25

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu hàng hoá. 25

1.3.1. Các nhân tố vĩ mô. 25

1.3.1.1. Nhân tố chính trị pháp luật. 25

1.3.1.2. Các nhân tố kinh tế xã hội. 26

1.3.2. Các nhân tố vi mô. 26

1.3.2.1. Cơ chế tổ chức bộ máy của doanh nghiệp . 26

1.3.2.2. Nhân tố về con người. 26

1.3.2.3. Nhân tố về vốn và trang thiết bị vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. 27

1.4. Nội dung của hoạt động nhập khẩu . 27

1.4.1. Nghiên cứu thị trường. 27

1.4.1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước và xác định hàng hoá nhập khẩu. 27

1.4.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. 29

1.4.1.3. Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. 30

1.4.1.4. Lựa chọn đối tác kinh doanh . 32

1.4.2. Xây dựng phương án kinh doanh. . 34

1.4.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu. 35

1.4.3.1. Giao dịch . 35

1.4.3.2. Đàm phán . 36

1.4.3.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu . 38

1.4.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. 39

1.4.4.1. Xin giấy phép nhập khẩu. 39

pdf151 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đề xuất các phương án nhập khẩu than cho các nhà máy điện dùng than nhập khẩu của PVN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước có vai trò nổi bật trong thị trường nhập khẩu than. Và cả 2 nước này đều có điểm chung là khối lượng nhập khẩu từ Úc và Indonesia chiếm tới hơn 75% khối lượng than nhập: tỷ trọng than nhập từ Úc của Ấn Độ và Đài Loan lần lượt là 47,6% và 46,8%; tỷ trọng than nhập từ Indonesia lần lượt là 31,6% và 30,9%. 2.3.1.2. Giải pháp đảm bảo nguồn cung Mục tiêu lớn nhất của các nhà nhập khẩu than cho sản xuất nhiệt điện là đảm bảo được nguồn cung ổn định trong dài hạn (theo vòng đời nhà máy điện) với giá cạnh tranh nhất, vì vậy, các nhà nhập khẩu của các nước nhập than lớn trên thế giới 59 thường triển khai nhiều giải pháp song song như sau: - Đa dạng hoá nguồn cung: Ngoài việc duy trì nhập khẩu từ Úc và Indonesia, các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Đài Loan thường xuyên tìm kiếm các hợp đồng nhập khẩu từ những nước xuất khẩu khác như Nga, Trung Quốc hay xa hơn là Nam Phi. Không dừng lại ở đó, giải pháp đa dạng hoá nguồn cung của các nước nhập khẩu ngày càng được áp dụng triệt để để tìm kiếm các nguồn than mới được thăm dò như các mỏ than tại Mông Cổ, Zimbabwe hay Mozambique. Tập đoàn KOCOAL (Hàn Quốc) là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc mở rộng đầu tư sang các mỏ than ở các nước xuất khẩu than mới nổi. Tập đoàn đã đầu tư khoảng 20 tỉ won (khoảng 18,1 triệu USD) vào mỏ than ở phía Tây bắc Mông Cổ và tiến hành sản xuất than vào đầu năm 2011. Theo đó, công ty sẽ nắm giữ 50% cổ phần của mỏ than với trữ lượng than lên tới 79 triệu tấn. Dưới hợp đồng này, KOCOAL sẽ được sản xuất với sản lượng 1 triệu tấn/năm trong vòng 79 năm nếu như không có biến động quá lớn từ thị trường. (Online Information, 2013) - Đầu tư chiếm lĩnh thị trường: Nhật Bản là nước có nhiều nhà đầu tư nhất tại Australia với đóng góp 7 trong số 17 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất (Idemitsu Kosan, Itochu, Marubeni, Mitsubishi, Mitsui & Co., Sojitz, Sumitomo) đồng thời là nước nhập khẩu than nhiều nhất từ Australia. Các nhà nhập khẩu của nước này đều tiếp cận theo hình thức hỗ trợ nước sở tại về chuyển giao công nghệ, đầu tư phát triển nguồn nhân lực ngành than, đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng khai thác, hệ thống vận chuyển than băng chuyền hay hệ thống vận chuyển đường ray v.v để gây dựng mối quan hệ hợp tác. Giải pháp này đã cho thấy hiệu quả rõ rệt, và trong giai đoạn gần đây Nhật Bản tiếp tục áp dụng đối với Indonesia để phát triển nguồn cung của mình một cách tối đa. - Tận dụng hỗ trợ của Chính phủ: Với những nước như Đài Loan, Ấn Độ, các doanh nghiệp không có được lợi thế như các doanh nghiệp đến từ Nhật Bản 60 hay Hàn Quốc, Trung Quốc trên thị trường nhập khẩu than. Vì vậy, Chính phủ các nước này đã có những giải pháp hỗ trợ để khuyến khích các doanh nghiệp năng động hơn trong việc nhập khẩu than. Cụ thể, Đài Loan thực hiện giảm trừ tối đa thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các nhà nhập khẩu than trong khi Ấn Độ không giới hạn hạn ngạch nhập khẩu than, thực hiện chế độ tự do hóa thương mại – cho phép các doanh nghiệp nước này chủ động thực hiện các hợp đồng mua mỏ hoặc nhập khẩu và kết hợp với giảm trừ thuế thương mại đối với các doanh nghiệp kinh doanh than nhập khẩu. 2.3.1.3. Hợp đồng nhập khẩu than và cách thức thực hiện hợp đồng a. Xu thế sử dụng loại hợp đồng Ngoài 3 loại hợp đồng nhập khẩu than phổ biến (hợp đồng dài hạn hay hợp đồng khung; hợp đồng theo năm; hợp đồng theo chuyến hay hợp đồng giao ngay- tham khảo them ở Phụ lục 2), các nhà nhập khẩu than thế giới ngày càng quan tâm tới hợp đồng đầu tư mỏ than tại các nước xuất khẩu. Trong đó, các nhà nhập khẩu than không sử dụng đơn thuần một loại hợp đồng mà đều kết hợp linh hoạt giữa các loại hợp đồng nhằm tận dụng tối đa các ưu điểm của các loại hợp đồng đó: - Giữa các loại hợp đồng dài hạn/hợp đồng khung - hợp đồng năm - hợp đồng theo chuyến/hợp đồng giao ngay có tỷ lệ giảm dần tại các nước nghèo tài nguyên than như Nhật Bản do mục tiêu chính của họ là đảm bảo nguồn nguyên liệu để đáp ứng sản xuất. Theo một số chuyên gia, tỷ lệ tiêu biểu nhất của các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp Nhật Bản áp dụng là 60-65% hợp đồng dài hạn, 30% hợp đồng năm và 5-10% hợp đồng theo chuyến. - Giữa các loại hợp đồng dài hạn/hợp đồng khung - hợp đồng năm - hợp đồng theo chuyến/hợp đồng giao ngay có tỷ lệ tăng dần tại các nước như Trung Quốc, Ấn Độ. Những quốc gia này họ có tài nguyên than nhưng vì mục tiêu an ninh năng lượng và/hoặc lợi nhuận họ vẫn nhập khẩu than. Bên cạnh đó, xu hướng hiện tại của các nhà tiêu thụ than lớn đó là tham gia đầu tư vào các công ty khai thác mỏ để đảm bảo được tỷ lệ mua than thành phẩm, tiêu biểu như các nhà tiêu thụ đến từ Nhật Bản: J-Power, TEPSCO Theo Công 61 văn số 1223/VINACOMIN-XNK (2013), xu thế mới của các nước trong khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, sử dụng tỷ lệ than từ mỏ đầu tư/than mua qua hợp đồng thương mại là 50/50. Thông tin về việc đầu tư mỏ của các nhà tiêu thụ này không được công bố rộng rãi, qua quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả thu thập được thông tin đầu tư mỏ của J-Power (Online Information, 2013) như sau: - J-Power là một trong những nhà nhập khẩu than lớn nhất của Australia, ngoài khối lượng xấp xỉ 12 triệu tấn nhập khẩu hàng năm quan các hợp đồng thương mại cho các nhà máy nhiệt điện, J-Power còn trực tiếp đầu tư 3 mỏ than là Blair Athol, Clermont và Narrabi thông qua công ty con J-Power Australia Pty Ltd đặt tại Australia. - J-Power đầu tư 10% vào mỏ than ở Blair Athol – là mỏ lộ thiên năm ở lưu vực sông Bowen tại Central Queensland – từ năm 1982. Mỏ than bắt đầu sản xuất năm 1984, có công suất khai thác lớn nhất gần 12 triệu tấn mỗi năm. Tuy nhiên mỏ này sẽ ngừng sản xuất trong 1 vài năm tới. - Mỏ than Clermont – một mỏ lộ thiên lân cận mỏ Blair Athol tại lưu vực sông Bowen – được J-Power đầu tư 15% từ năm 2003. Mẻ than thương phẩm đầu tiên được khai thác từ mỏ Clermont từ tháng 5 năm 2010 và dự kiến sau 2013 mỏ này mới đạt được công suất tối đa khoảng 12 triệu tấn mỗi năm. - J-power thực hiện đầu tư 7,5% trong mỏ than Narrabi từ năm 2008, đây là một mỏ than hầm lò tại lưu vực sông Gunnedah của tiểu bang New South Wales. Mỏ Narrabi sản xuất mẻ than đầu tiên từ tháng 6 năm 2010 và từ cuối năm 2012 mỏ sẽ vận hành với công suất cực đại khoảng 6 triệu tấn than thương phẩm mỗi năm. Có thể nhận thấy các mỏ than đã được J-Power đầu tư ngay từ lúc mỏ mới nằm trong giai đoạn thăm dò và có thời gian phát triển mỏ khá dài. Ngoài ra, việc thỏa thuận đầu tư đã được thực hiện cách đây khá lâu, tỷ trọng mà J-Power đầu tư vào tương đối nhỏ và càng về sau thì con số đó lại càng nhỏ, điều đó phản ảnh tính chất khó khăn trong việc trực tiếp đầu tư mỏ của các nhà sản xuất điện. Theo những 62 thông tin ở trên, có thể tạm tính khối lượng than từ các mỏ J-Power trực tiếp đầu tư chỉ chiếm khoảng 7-10% tổng khối lượng J-Power than nhập khẩu về. b. Cách thức thực hiện hợp đồng nhập khẩu than Than được giao dịch từ người bán đến người mua theo các hình thức như sau: Hình thức thực hiện hợp đồng trực tiếp: Các nhà nhập khẩu than ký kết hợp đồng trực tiếp với các nhà sản xuất/xuất khẩu than. Với hình thức nhập khẩu trực tiếp này, các nhà máy tiêu thụ than sẽ không bị mất thêm chi phí trung gian trong chuỗi giao dịch. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi các nhà tiêu thụ cần có năng lực về vốn lớn (do không thể chiếm dụng vốn hoặc hưởng những hỗ trợ tài chính từ các trung gian) cũng như sẽ phải chịu rủi ro lớn trong quá trình giao dịch. Hình thức thực hiện hợp đồng có sự tham gia của nhà thương mại trung gian: Với hình thức này các nhà tiêu thụ than sẽ giảm được rủi ro nhờ chia sẻ với trung gian. Và, cùng với sự tham gia của các công ty thương mại cũng xuất hiện hai cơ chế thực hiện khác nhau: Thứ nhất là: các nhà tiêu thụ than ký kết hợp đồng mua than với các công ty thương mại. Theo hình thức này, tất cả các công việc đàm phán với nhà cung cấp do trung gian thương mại thực hiện mà không cần sự có mặt của nhà tiêu thụ, các công ty thương mại hưởng chênh lệch trên cơ sở giá mua và giá bán, đồng thời các nhà máy tiêu thụ than phụ thuộc vào giá cung cấp của các công ty thương mại. Thứ hai là: các nhà tiêu thụ than cùng tham gia hoặc ủy quyền cho các công ty thương mại để đàm phán hợp đồng mua than hoặc thông qua các công ty thương mại trong nước mở thầu cạnh tranh. Trong trường hợp này các công ty thương mại hưởng phí hoa hồng giao dịch giao dịch trên số lượng thực hiện và giá hợp đồng là do nhà sử dụng cuối cùng quyết định. Nhà sản xuất/xuất khẩu Nhà tiêu thụ Các công ty thương mại Nhà sản xuất/xuất khẩu Nhà tiêu thụ 63 Trong tập quán thương mại của Nhật Bản, các nhà sử dụng than như các nhà máy điện, thép, xi măng đều không trực tiếp thực hiện giao dịch với các nhà cung cấp mà thông qua các công ty thương mại. Tuy nhiên, các công ty thương mại chỉ hưởng phí hoa hồng giao dịch trên số lượng thực hiện và thu xếp lịch lấy hàng theo yêu cầu của hộ sử dụng, giá cả hợp đồng là do nhà sử dụng cuối cùng quyết định. Họ thường cùng với các công ty thương mại của mình đàm phán với các nhà cung cấp hoặc ủy quyền cho các công ty thương mại đi đàm phán. Đối với Hàn Quốc, Trung Quốc, các nhà sử dụng than cũng ký kết hợp đồng qua các công ty thương mại hoặc mở đấu thầu mua than cạnh tranh thông qua các công ty thương mại trong nước. Các công ty thương mại hưởng phí hoa hồng giao dịch trên số lượng thực hiện hoặc hưởng chênh lệch trên cơ sở giá mua và giá bán. Thông thường, các nhà máy sẽ thanh toán tiền than sau từ 1-2 tháng kể từ khi nhận hàng. Trong trường hợp này, các công ty thương mại phải hỗ trợ tài chính trong phương thức thanh toán. 2.3.1.4. Phương án vận chuyển và hợp đồng thuê tàu vận chuyển Các nhà nhập khẩu than đều ưu tiên sử dụng phương thức vận chuyển bằng các tàu có trọng tải rất lớn: Post Panamax (100.000 tấn); Panamax (72.000 tấn). Đối với một số nước có năng lực vận tải than yếu hơn các nước có thể sử dụng các tàu có trọng tải dưới cỡ Handysize (30.000 tấn). Với nhu cầu than tiêu thụ rất lớn, các nhà tiêu thụ than thường đứng trước 2 lựa chọn về vấn đề vận chuyển: tự đầu tư đội tàu vận chuyển hay sử dụng dịch vụ thuê tàu. Thực tế, không nhiều các chủ hàng trực tiếp đầu tư tàu bởi các lý do sau: - Chi phí đầu tư rất lớn, giá cả tàu biến động có biên độ lớn nên thường phát sinh nhiều yếu tố rủi ro về đầu tư. Nhà sản xuất/xuất khẩu Các công ty thương mại Nhà tiêu thụ 64 - Khó có thể tối đa hóa khả năng chuyên chở của đội tàu do chỉ có một số tuyến cố định, tàu chở than là tàu chuyên dụng khó có thể sử dụng để chuyên chở các mặt hàng khác. - Chỉ nên đầu tư đội tàu khi chỉ tiêu tài chính của việc mua tàu cao hơn lợi ích tài chính của việc thuê tàu.  Do vậy phần lớn các chủ hàng lớn thường chọn hình thức thuê tàu hơn là đầu tư đội tàu. Mục tiêu cuối cùng của chủ hàng là thuê được tàu có mức cước thấp và đảm bảo chuyên chở hàng ổn định chứ không phải là tạo ra lợi nhuận từ việc đầu tư đội tàu chuyên chở. Có rất nhiều dạng hợp đồng thuê tàu vận tải biển quốc tế được các nhà nhập khẩu than sử dụng như: Hợp đồng thuê tàu chuyên dụng (Contract of dedicated vessel); Hợp đồng thuê chuyến dài hạn (Contract of Affreightment COA); Thuê tàu định hạn chuyến (Time Charter Trip); Thuê định hạn (Time charter); Hợp đồng thuê tàu trần (Bare ship or bare boat); Hợp đồng thuê tàu chuyến (Voyage Charter). Mỗi dạng hợp đồng đều có các ưu nhược điểm riêng (được trình bày trong 0) và trong các dạng hợp đồng đó thì dạng Hợp đồng thuê chuyến dài hạn (Contract of Affreightment COA) đang là dạng phổ biến cho việc nhập khẩu than số lượng lớn và dài hạn do tính ổn định cao, bên cạnh đó cũng rất linh hoạt về việc chỉ định tàu tuỳ theo nhu cầu. 2.3.1.5. Một số bài học kinh nghiệm khác Lựa chọn nhà cung cấp: Các nhà nhập khẩu lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc thường ký kết các hợp đồng với các công ty sản xuất than lớn với những hợp đồng có giá trị cao: khi mua than ở Indonesia hay Australia, họ thường làm việc với các tập đoàn lớn như Bumi Resource, Adaro, Bukit Asam (Indonesia) hay Xstrata, Anglo, BHB Billition (Australia). Tuy nhiên các doanh nghiệp này đã có thời gian dài cộng tác với các nhà cung cấp, có tiềm lực tài chính mạnh nên họ ưu tiên lựa chọn các nguồn đảm bảo tin cậy cao và thực tế họ cũng nhận được nhiều ưu đãi từ các nhà cung cấp lớn đó. Đối với một số nhà nhập khẩu của Trung Quốc, Đài Loan mà không có các ưu thế nói trên, nếu làm việc với các nhà cung cấp lớn họ sẽ phải 65 chịu giá cao và có thể không thực hiện được hợp đồng vì các nhà nhập khẩu lớn đã chiếm hết thị trường. Do đó các doanh nghiệp “đến sau” này thường chấp nhận rủi ro làm việc với các nhà cung cấp nhỏ hơn để có được nguồn than và với giá cạnh tranh hơn. Hệ thống phân phối & vận tải nội địa: Cảng nhập khẩu than của tất cả các nước đều là các cảng nước sâu có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn hơn 100.000 tấn. Để có thể chuyển than từ tàu hoặc kho than đến cho các tổ hợp nhà máy điện, các nhà nhập khẩu lớn thường có các phương án vận chuyển đồng bộ. Phương án tối ưu mà một số doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng tàu nhập khẩu cập cảng sau đó bốc xếp lên kho bãi, tiếp theo là sử dụng băng tải kín để chuyển tải tới các nhà máy. Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp vị trí đặt của các nhà máy thuận tiện và gần các kho cảng chung, đối với các nhà máy phân bố rải rác hoặc không tập trung, phương án vận tải được lựa chọn có thể là vận chuyển đường thuỷ, hoặc đường bộ tới kho của nhà máy. 2.4. Nhu cầu than cho các nhà máy điện nhập khẩu của PVN đến 2020 2.4.1. Tiến độ của các nhà máy điện than Trong giai đoạn đến 2020, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng 03 nhà máy nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu với tổng công suất 3600 MW, bao gồm: NM nhiệt điện Long Phú 1, NM nhiệt điện Quảng Trạch 1 và NM nhiệt điện Sông Hậu 1. Theo Báo cáo đầu tư dự án (FS), 03 nhà máy điện than nói trên sẽ đi vào hoạt động trong giai đoạn đến 2015. Tuy nhiên, do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế, dự kiến các NMNĐ này sẽ đi vào hoạt động trong giai đoạn đến 2020 theo tiến độ đề ra trong Báo cáo “Cập nhật cân bằng cung cầu và giải pháp đảm bảo hệ thống điện quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến 2030” của Bộ Công Thương ngày 24/08/2013 (Bộ Công Thương, 2013). Cụ thể: Dự án Nhiệt điện Quảng Trạch 1 (2x600 MW): Đã hoàn thành giải phóng mặt bằng Trung tâm Điện lực Quảng Trạch 132/195 ha, và thực hiện san lấp đạt khoảng 1,4/1,79 triệu m3; Đang tập trung hoàn thành các hạng mục phụ trợ (điện, nước) phục vụ thi công nhà máy chính và xây dựng nhà làm việc của Chủ đầu tư 66 và Tổng thầu trên công trường; Tuyến kênh dẫn nước hoàn trả; Khảo sát địa chất Cảng nhập Than - Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 4534/VPCP-KTN ngày 22/6/2012 về phương án thực hiện gói thầu EPC Dự án NMNĐ Quảng Trạch 1, PVN đang hoàn thiện Hồ sơ yêu cầu EPC để phù hợp với chủ trương của Chính phủ về Nội địa hoá, chuẩn bị các thủ tục cần thiết để chuyển đổi hình thức Tổng thầu EPC; Chỉ đạo liên danh PVC-LILAMA hoàn thiện phương án triển khai đảm bảo chất lượng, tiến độ và hiệu quả dự án. - Theo tiến độ điều chỉnh mới được Chính phủ đề ra trong Bộ Công Thương (2013), 2 tổ máy của Nhiệt điện Quảng Trạch 1 sẽ được đưa vào vận hành vào tháng 6/2020 và tháng 12/2020. Dự án Nhiệt điện Long Phú 1 (2x600 MW): Đã ký Hợp đồng Tổng thầu EPC Dự án Nhiệt điện Long Phú 1 giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tổng Công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí. Tình hình thực hiện đến nay như sau: - Đã cơ bản hoàn thành công tác xử lý nền của Nhà máy và đang tiến hành xây dựng các hạng mục phụ trợ phục vụ thi công nhà máy chính; Đang đàm phán với nhà thầu cung cấp thiết bị chính (Lò hơi, Tua bin, Máy phát và thiết bị phụ trợ) kèm điều kiện thu xếp vốn cho dự án. - Theo tiến độ điều chỉnh mới được Chính phủ đề ra trong Bộ Công Thương (2013), 2 tổ máy của Nhiệt điện Long Phú 1 sẽ được đưa vào vận hành vào tháng 12/2017 và tháng 6/2018. Dự án Nhiệt điện Sông Hậu 1 (2x600MW): - Đã khởi công xây dựng Cơ sở hạ tầng Trung tâm Điện lực Sông Hậu ngày 27/8/2010; Cơ bản hoàn thành toàn bộ công tác giải phóng mặt bằng, khối lượng san lấp mặt bằng đạt khoảng 1,82 triệu/1,85 triệu m3; Đang triển khai xây dựng các công trình phụ trợ điện thi công, nước thi công, nhà điều hành Ban QLDA, kè gia cố bờ sông Đang tổ chức thẩm định TKKT Dự án NMNĐ Sông Hậu 1 theo phương án đấu nối lên lưới điện Quốc gia ở cấp điện áp 500 kV đã được Bộ Công Thương chấp thuận. 67 - Theo tiến độ điều chỉnh mới được Chính phủ đề ra trong Bộ Công Thương (2013), 2 tổ máy của Nhiệt điện Sông Hậu 1 sẽ được đưa vào vận hành vào tháng 3/2019 và tháng 9/2019. Thông tin chi tiết các NMNĐ than của PVN trong giai đoạn đến 2020 thể hiện trong Bảng 2.7. 2.4.2. Công nghệ và đặc tính kỹ thuật về than của các NMNĐ than Đặc thù của các nhà máy điện than là đặc tính kỹ thuật của than có ảnh hưởng đến thiết kế của nhà máy, đặc biệt là lò hơi và các thiết bị phụ trợ. Do vậy, thông thường ban đầu một nhà máy sẽ được thiết kế theo một chủng loại than được chọn có những đặc tính cơ bản được xác định. Nếu đặc tính than quá khác biệt sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận hành và bảo dưỡng nhà máy. Những đặc tính căn bản của than có ảnh hưởng đến thiết kế của nhà máy điện than đặc biệt là lò hơi và hệ thống phụ trợ được thể hiện trong 0. Bảng 2.7. Thông tin chung của các NMĐ than PVN TT Tên NMNĐ Công suất (MW) Địa điểm Thời gian khởi công Thời gian vận hành Theo Dự án đầu tư Theo Tổng sơ đồ điện VII Theo Bộ Công Thương 1 Quảng Trạch 1 xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình 7/2011 Tổ máy 1 600 T6/2015 2018 T6/2020 Tổ máy 2 600 T12/2015 2019 T12/2020 2 Long Phú 1 Xã Long Đức, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng 01/2011 Tổ máy 1 600 Q2/2014 2015 T12/2017 Tổ máy 2 600 Q4/2014 2016 T6/2018 3 Sông Hậu 1 Xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, Tỉnh Hậu Giang 8/2010 Tổ máy 1 600 T4/2015 2017 T3/2019 Tổ máy 2 600 T10/2015 2018 T9/2019 Nguồn:PVN, 2009a ; PVN, 2009b ; PVN, 2010; Quyết định số 60/1208/QĐ-TTg, 2011; Bộ Công Thương, 2013 68 Bảng 2.8. Các đặc tính cơ bản của than ảnh hưởng trên thiết kế lò hơi STT Đặc tính kỹ thuật Ảnh hưởng trên thiết kế 1 Nhiệt trị Ảnh hưởng thiết kế toàn bộ lò và thiết bị hỗ trợ 2 Độ ẩm Bộ sấy gió lò, HT gió sơ cấp và thứ cấp. Bộ dỡ vận chuyển, hiệu suất lò 3 Độ tro Ảnh hưởng đến tính dễ cháy của than, tính đóng xỉ của lò. Ảnh hưởng đến thiết kế: hệ thống vòi đốt, buồng đốt, bộ trao đổi nhiệt, hệ thống thải tro xỉ, bộ lọc bụi ESP, hệ thống bốc dỡ, vận chuyển 4 Chất bốc và tỷ lệ nhiên liệu Ảnh hưởng trực tiếp đến tính dễ cháy của than. Do đó ảnh hưởng đến thiết kế vòi đốt, buồng đốt, hệ thống khử NOx 5 Hàm lượng lưu huỳnh Bộ khử lưu huỳnh 6 Độ dễ nghiền Hệ thống nghiền than Nguồn: PVN, 2009a ; PVN, 2009b ; PVN, 2010; Quyết định số 60/1208/QĐ-TTg, 2011 Các NM nhiệt điện than của PVN đều bao gồm 02 tổ máy với công suất mỗi tổ máy là 600 MW, đều sử dụng công nghệ nhiệt điện ngưng hơi với lò than phun trực lưu, có tái sấy, thông số hơi siêu tới hạn, áp dụng công nghệ đốt tiên tiến (đốt NOx thấp, lắp đặt các thiết bị xử lý khói thải đảm bảo môi trường). Công nghệ lò than phun công nghệ siêu tới hạn của các nhà máy Long Phú 1, Sông Hậu 1, Quảng Trạch 1 có thể sử dụng nhiều loại than: Anthracite; Bituminous và Sub-bituminous và Lignite. Tuy nhiên trên thực tế than nhiệt phổ biến trên thị trường chỉ bao gồm các loại than bituminous và sub-bituminous. Để phù hợp với loại hình công nghệ các nhà máy nêu trên, đặc tính kỹ thuật và chất lượng than dự kiến sử dụng có các tính chất theo các Bảng 2.9. Bảng 2.9. Các đặc tính cơ bản của than nhập khẩu cung cấp cho các NMĐ than Long Phú 1, Sông Hậu 1 và Quảng Trạch 1 TT Đặc tính Đơn vị Mẫu 1 Nhiệt trị thô Kcal/kg 4963 2 Độ ẩm % 26 3 Độ tro % 4,06 4 Chất bốc % 34,29 5 Lưu huỳnh % 0,89 6 Độ dễ nghiền HGI 47 Nguồn: Báo cáo số 818/BC-LPSH, 2011 69 2.4.3. Nhu cầu nhập khẩu than của các nhà máy nhiệt điện than của PVN Nguyên tắc tính toán nhu cầu than của các NM nhiệt điện than của PVN: - Nhu cầu sử dụng than hàng năm được lấy Báo cáo nghiên cứu khả thi của các nhà máy điện và theo số liệu được cung cấp trong Công văn số 4180/DKVN- B.Điện ngày 19/06/2013 về việc Mở rộng Cảng than của Trung tâm điện lực Duyên Hải và Trung tâm điện lực Vĩnh Tân - Tiến độ xây dựng và vận hành của các nhà máy được lấy theo Báo cáo “Cập nhật cân bằng cung cầu và giải pháp đảm bảo hệ thống điện quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến 2030” của Bộ Công Thương ngày 24/08/2013. Với các đặc tính và chất lượng than của từng NM nhiệt điện của PVN được phân tích trên, dự kiến nhu cầu nhập khẩu than hàng năm của PVN được trình bày trong Hình 2.14 dưới đây. Theo đó, từ năm 2015, PVN sẽ phải nhập khẩu than và từ năm 2020 tổng nhu cầu than nhập là 9,17 triệu tấn/năm. Như vậy, khối lượng than của PVN cần nhập khẩu cho 3 nhà máy điện Quảng Trạch 1, Long Phú 1 và Sông Hậu 1 chiếm 40% nhu cầu nhập khẩu than cho điện của cả nước trong năm 2015, sau đó giảm xuống mức 15,6% trong năm 2020 và tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo khi mà ngày càng nhiều các nhà máy nhiệt điện dùng than nhập khẩu đi vào hoạt động. So sánh với tổng nhu cầu than nhập khẩu của cả nước trong các năm 2015 và 2020, khổi lượng than nhập khẩu của PVN chiếm tương ứng 20% và 16,6%. Với nhu cầu than nhập rất lớn, trong khi Vinacomin – đơn vị được Chính phủ giao nhiệm vụ tìm kiếm nguồn than nhập khẩu – vẫn chưa đưa ra được giải pháp, PVN quyết định nghiên cứu để tự tìm kiếm nguồn cung và có thể chủ động nhập khẩu phục vụ nhu cầu của Tập đoàn. 70 Nguồn: Công văn số 4180/DKVN-B.Điện, 2013 ; Bộ Công Thương, 2013 Hình 2.14. Nhu cầu than cho các NM nhiệt điện của PVN đến 2020 2.4.4. Những trở ngại khi tham gia nhập khẩu than của PVN Qua phần tổng hợp kinh nghiệm nhập khẩu của các đơn vị trong và ngoài nước, có thể rút ra một số vấn đề gây trở ngại tới khả năng tham gia xuất nhập khẩu đối với một nhà tiêu thụ than nhiệt nói chung và của PVN nói riêng như sau: 2.4.4.1. Trở ngại về mặt thị trường: - Đối với thị trường trong nước: Mặc dù Chính phủ đã cho phép thị trường hoá giá than từ cuối năm 2009 với mức giá thấp hơn giá xuất khẩu tối đa 10%, đến nay thực tế giá than cho các nhà máy sản xuất điện vẫn chưa được thị trường hoá đúng nghĩa. Việc giá than bán cho hộ sản xuất điện vẫn được “bao cấp” và chỉ chiếm 60 - 70% giá thành sản xuất than đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất được cấp than nội địa, nhưng ngược lại lại tạo ra sức ép cho các nhà sản xuất điện dùng than nhập khẩu. Bên cạnh đó, lộ trình tăng giá điện cũng chưa được xây dựng một cách rõ ràng nên các doanh nghiệp dùng than nhập khó có thể lập kế hoạch dài hạn và đàm phán để nhập khẩu than cho 1 chiến lược dài hơi. (Tham khảo thêm Phụ lục 4) - Đối với thị trường quốc tế: Theo WoodmacKenize (2013), chỉ tính riêng đến năm 2015, nhu cầu than trên thế giới đã tăng xấp xỉ 40% so với năm 2010, trong đó chủ yếu tập trung ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Kể từ sau thảm họa động đất sóng thần tại Nhật Bản, 0 2 4 6 8 10 2015 2016 2017 2018 2019 2020 sau 2020 Triệu tấn Quảng Trạch 1 Long Phú 1 Sông Hậu 1 Tổng nhu cầu than 71 nhiều quốc gia có xu thế thay thế điện hạt nhân ngày bằng nhiệt điện than, và đặc biệt khi mà giá khí thiên nhiên được dự báo ở mức cao trong tương lai, nhu cầu của than cho điện dự kiến sẽ còn tăng mạnh. Nhu cầu than nhiệt tăng cao đồng thời với việc cạnh tranh giữa những nước nhập khẩu than cũng dữ dội hơn. Hiện nay hầu hết các quốc gia tại Châu Á đều đề ra những kế hoạch đầy tham vọng trong phát triển các nhà máy điện đốt than đặc biệt là Trung Quốc (tăng 249 ngàn MW từ 2008 - 2020), Việt Nam (tăng 116 ngàn MW đến 2025), Ấn Độ (tăng 77 ngàn MW từ 2008 - 2017), Indonesia (tăng 50 ngàn MW từ 2007-2026). (WoodmacKenize, 2013) Chính vì than nhiệt trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã được phân chia cho các nước nhập khẩu truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước nhập khẩu mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc, trong khi Việt Nam mới gia nhập thị trường nhập khẩu này nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó, khi nguồn cung khan hiếm, thị phần nhập khẩu hạn chế nên sẽ thiếu tính cạnh tranh trên thị trường, giá cung cấp than cho Việt Nam sẽ tăng cao dẫn đến khó có thể ký được những hợp đồng cung cấp than với khối lượng lớn, trong dài hạn và giá cả hợp lý. 2.4.4.2. Trở ngại về cơ sở hạ tầng nhập khẩu than Việt Nam từ trước đến nay luôn là nước xuất khẩu than, các hoạt động nhập khẩu than chủ yếu là nhỏ lẻ và do các doanh nghiệp tự thực hiện. Vì v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000000273343_5518_1951386.pdf
Tài liệu liên quan