MỤC LỤC
Trang
Phần 1: Phần mở đầu.1
1. Lí do chọn đề tài.1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.2
3. Mục đích nghiên cứu.3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.3
5. Phương pháp nghiên cứu.3
6. Giả thuyết khoa học.4
7. Lịch sử vấn đề.4
8. Cấu trúc luận văn.7
Phần 2: Nội dung.8
Chương 1: Khảo sát hệ thống CHHDHB (phần thơ hiện đại) trong hai bộ
SGK Ngữ văn chuẩn và nâng cao lớp 11 (NXB giáo dục, 2007).8
1. Mục đích khảo sát.8
2. Thống kê, phân loại.8
2.1 Thống kê số lượng câu hỏi.8
2.2 Phân loại câu hỏi.9
3. Những ưu điểm và hạn chế của hệ thống câu hỏi (Phần thơ hiện đại).13
3.1 Ưu điểm.14
3.1.1 Số lượng câu hỏi.14
3.1.2 Câu hỏi sáng tạo.14
3.1.3 Câu hỏi mang tính hệ thống .17
3.1.4 Câu hỏi có tính then chốt.19
3.1.5 Câu hỏi vừa sức.21
3.1.6 Câu hỏi khó.21
3.2 Nhược điểm.22
3.2.1 Câu hỏi còn chưa chú ý đến việc đọc diễn cảm cho học sinh.22
3.2.2 Câu hỏi có dung lượng kiến thức lớn và khó, chưa phù hợp với thời
gian và khả năng nhận thức của học sinh.23
3.2.3 Cách đặt câu hỏi.23
3.3 Kết luận.25
Chương 2: Tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB tác phẩm văn chương
trong SGK Ngữ văn.28
1. Cơ sở lí luận cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi.28
1.1 CHHDHB thể hiện tư tưởng đổi mới phương pháp dạy học.28
1.2 Thể hiện rõ chức năng định hướng của CHHDHB.33
1.3 Vận dụng những thành tựu của thi pháp học hiện đại vào hệ thống CHHDHB.36
1.4 Vận dụng thành tựu của ngành ngôn ngữ học hiện đại vào CHHDHB. 39
1.5 Vận dụng những ưu điểm của dạy học nêu vấn đề.42
2. Những tiêu chí xây dựng hệ thống CHHDHB trong SGK Ngữ văn.46
2.1 Câu hỏi phải định hướng cho học sinh khám phá giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.47
2.2 Câu hỏi thể hiện được đặc trưng thi pháp của tác phẩm.48
2.3 Câu hỏi có tính hệ thống.50
2.4 Câu hỏi khơi gợi tình cảm, cảm xúc, tâm hồn của học sinh.53
2.5 Câu hỏi phải chuẩn bị tâm thế cho học sinh học trên lớp.55
2.6 Câu hỏi cần phù hợp với trình độ và thời gian thực tế của học sinh.56
Chương 3: Thể nghiệm – xây dựng câu hỏi hướng vào một số bài học cụ thể.58
1. Giới thuyết chung.58
2. Xây dựng câu hỏi cho bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.58
2.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn.58
2.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn.60
3. Xây dựng câu hỏi cho bài “Tôi yêu em” của Puskin.62
3.1 Bảng đối chiếu hệ thống câu hỏi sách Ngữ văn chuẩn và nâng cao với câu hỏi luận văn.62
3.2 Thuyết minh cho câu hỏi luận văn.64
4. Kết luận rút ra từ câu hỏi thể nghiệm.65
Phần 3: Kết luận chung.67
Phụ lục.70
Tài liệu tham khảo.80
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3070 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài văn bản văn học lớp 11 qua hai bộ sách ngữ văn chuẩn và nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át hiện để khi đứng trước quen thuộc hay hoàn
toàn mới, học sinh vẫn đủ khả năng giải quyết một cỏch tốt nhất và hiệu quả
nhất. Chỉ có bằng con đường tự mình “hành động” như thế mọi tri thức mới
được hình thành một cách nhanh chóng và khắc sâu trong mỗi học sinh.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi khi dạy bài “Vội vàng” của Xuân Diệu như
sau:
(1) Bốn câu thơ đầu của bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu muốn tắt
nắng, buộc gió, đó là điều không thể, là điều rất vô lí nhưng điều này cũng
hết sức có lí. Theo em tại sao?
(2) Đoạn đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu xưng “tôi” nhưng đến
cuối bài thơ lại thay bằng đại từ “ta”. Theo em tác giả có dụng ý gì không?
Cách đặt câu hỏi như vậy khơi dậy hoạt động bên trong của học sinh,
tạo cho các em có nhu cầu nhận xét, đánh giá, tranh luận và phát triển tư duy,
phải tự mình suy nghĩ, đưa ra những ý kiến của riêng mình để giải quyết vấn
đề đặt ra của câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất buộc học sinh nhận thức vấn đề từ ý
nghĩa sâu sắc của bài thơ. Điều Xuân Diệu muốn là vô lí bởi nó tráii với quy
luật tự nhiên nhưng điều aos trở thành rất có lí vì nó phù hợp với lòng người.
Câu hỏi thứ hai yêu cầu học sinh lí giải sự thay đổi trong cách sử dụng
đại từ của tác giả, đó là sự khát khao giao cảm với đời, muốn hòa vào cái rung
cảm và nhịp đập với mọi người để đồng cảm, sẻ chia.
Quá trình học sinh lí giải, đưa ra ý kiến riêng để trả lời các câu hỏi cũng
là quá trình hình thành tư duy sáng tạo. Tự các em khám phá, phát hiện ra chứ
không phải thầy tìm tri thức hộ. Lúc này câu hỏi thực sự là người dẫn đường
trên hành trình tìm hiểu tác phẩm, hướng học sinh không chỉ dừng ở bề ngoài
mà còn khám phá cả những tầng ẩn sâu.
Trong hệ thống câu hỏi, mỗi thao tác là một khâu dẫn dắt học sinh đi từ
khám phá này sang khám phá khác để tìm hiểu, phân tích cái mà học sinh cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
tìm, đó là điều tác phẩm “chưa nói”. Quá trình các em tham gia khám phá tác
phẩm theo từng cấp độ thể hiện trong hệ thống câu hỏi cũng chính là quá trình
đào tạo cho các em khát vọng và mong muốn được tìm điều thú vị nhất diễn
ra trong tác phẩm, để từ đó các em biết đánh giá, biết nhận thức bằng quan
niệm riêng. Và như vậy học sinh sẽ được phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm
hồn, nhân cách và năng lực.
1.2 Thể hiện rõ chức năng định hƣớng của CHHDHB:
1.2.1 CHHDHB giúp học sinh sơ bộ chiếm lĩnh tác phẩm:
Sư phạm hiện đại chú trọng tới việc tổ chức các hoạt động học tập cho
học sinh vì sự hình thành kiến thức bằng con đường tự khám phá là có hiệu
quả nhất. Với việc chuẩn bị bài ở nhà, học sinh bước đầu xây dựng sự hiểu
biết, khám phá tác phẩm theo từng cấp độ mà câu hỏi đề ra. Quá trình làm
việc ở nhà của học sinh là dữ kiện, là tiền đề cho hoạt động trên lớp. Chiếm
lĩnh tác phẩm bao giờ cũng trải qua các giai đoạn tổng - phân - hợp, cho nên
chuẩn bị bài ở nhà nằm trong giai đoạn đầu. CHHDHB là người dẫn dắt các
em tự chiếm lĩnh tác phẩm, giúp các em bước đầu đi vào thế giới của tác
phẩm, định hướng cho học sinh tìm ra các nút then chốt trong tác phẩm. Từ sự
cảm thụ của bản thân, học sinh là người tự tìm hiểu tác phẩm một cách sáng
tạo. Bởi vậy, CHHDHB như những công cụ và những định hướng ban đầu
giúp học sinh tiếp cận tác phẩm một cách đúng hướng.
''Việc chuẩn bị một bài văn chu đáo trước khi đến lớp đối với học
sinh có ý nghiã quan trọng trong việc lĩnh hội trên lớp. Quá trình chuẩn bị
bài văn vừa là quá trình gạn lọc những ấn tượng ban đầu để tiếp cận hình
tượng, tính cách, để lĩnh hội chủ đề tác phẩm, vừa là chuẩn bị cơ sở cho sự
tiếp thu lời giảng của thầy giáo'' [19]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
1.2.2 CHHDHB định hƣớng cho học sinh vào những vấn đề
trung tâm cốt lõi của tác phẩm:
Dạy học văn là phải tìm ra được mức độ cần đi đến chứ không phải dạy
tất cả những gì có. Điều đặt ra với CHHDHB trong SGK Ngữ văn là theo
hướng nào để giúp học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp, đi vào những vấn đề trung
tâm cốt lõi của tác phẩm nghệ thuật. Điều đó đồng nghĩa với việc định hướng
cho học sinh nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm.
Theo G.S - T.S Nguyễn Thanh Hùng, trong tài liệu “Định hướng học
tập cho học sinh vào chiều sâu tacc phẩm trong qúa trình dạy học” đã nhận
định: ''Chiều sâu của tác phẩm văn chương là giá trị độc đáo của tư tưởng
nghệ thuật (tư tưởng chủ đề) biểu hiện nội dung chân-thiện-mĩ rõ ràng trong
một hình thức nghệ thuật sáng tác tương ứng.''
Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu:
''Chiều sâu tác phẩm là chiều sâu cụ thể nhưng đã hoà quyện vào
đấy những khái quát triết học và đời sống. Chiều sâu biểu hiện trong cái cụ
thể đời thường cái hiện thực tầng đáy của cuộc sống và ở đấy cái lí tưởng, cái
vĩnh cửu thoát thai từ sự nhào nặn của cái mới và lương tri đạo đức và lẽ
sống ngàn đời'' (Văn nghệ số 32, 12/08/1989)
Như vậy ta có thể hiểu chiều sâu tác phẩm là cái vừa trừu tượng vừa cụ
thể. Cụ thể ở tính hấp dẫn bắt nguồn từ ngôn ngữ với vẻ đẹp tự thân của nó, từ
nhân vật, bố cục, và chính vẻ đẹp toát ra từ từng chi tiết. Trừu tượng là ở sự
khái quát cao hơn của cái cụ thể. Hai vấn đề này kết hợp, đan xen nhau một
cách chặt chẽ. Chiều sâu là sự phản ánh cuộc sống một cách sinh động chứ
không phải là cái gì bất biến, cúng đờ trong tác phẩm. Nó phải xuất phát từ
tác phẩm, từ tư tưởng tình cảm, cảm nhận về đời sống của tác giả thông qua
phương thức trình bày nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Do vậy, định hướng vào chiều sâu là con đường ngắn nhất giúp học
sinh thâm nhập tác phẩm văn học. Muốn đi sâu phải đi từng bước, từ cụ thể
đến khái quát, từ trực quan đến trừu tượng. Các bước đó theo G.S Phan Trọng
Luận gồm ba bước:
Bước một: Tri giác hình tượng ngôn ngữ, đây là quá trình đọc tái
hiện tác phẩm qua những chi tiết nổi bật.
Bước hai: Đọc với sức mạnh hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng, bằng
vốn kinh nghiệm bản thân để hoàn chỉnh bức tranh tác phẩm.
Bước ba: Phân tích, so sánh tổng hợp khái quát để xác định chủ đề tác
phẩm, buớc này cũng soi sáng cho việc chọn lựa hình ảnh, sự việc, biện pháp
nghệ thuật mà tác giả sử dụng. [15]
Ý kiến trên của G.S Phan trọng Luận cho thấy con đường đi vào tác
phẩm văn chương là con đường trải qua nhiều chặng, nhiều giai đoạn để đi từ
bề ngoài đến bề trong tác phẩm.
Câu hỏi phải từng bước, từ tái hiện đến liên tưởng, tưởng tượng, từ gần đến
xa, từ cụ thể đến khái quát, từ dễ đến khó, tập trung vào định hướng hoạt động
phân tích, cắt nghĩa để khám phá các lớp nghĩa tiềm ẩn trong tác phẩm. Và
như vậy, kiến thức không tĩnh tại, siêu hình, tách rời đối tượng tiếp nhận mà
nó được chuyển hoá vào bên trong bằng chính những hoạt động nhận thức
của bản thân thể tiếp nhận thông qua con đường vật chất hoá bằng hệ thống
câu hỏi.
Tiếp cận một tác phẩm văn chương thường từ những cảm nhận
chung ban đầu đến việc đi sâu tìm hiểu những vấn đề, chi tiết cụ thể, để cuối
cùng có thể tổng hợp khái quát lại thành những giá trị của tác phẩm. Do đó
cần sử dụng phương pháp tổng - phân - hợp là phương pháp tư duy khoa học
vừa chặt chẽ, vừa rõ ràng, trong đó đặc biệt chú ý thao tác phân tích và thao
tác tổng hợp, cuối cùng, lấy việc khái quát tổng hợp này mà kiểm tra lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
những cảm nhận chung ban đầu xem đã đúng, đã khớp với nhau chưa. Điều
này hệ thống câu hỏi trong phần đọc - hiểu văn bản của SGK có thể giúp
chúng ta.” [10]
Chính câu hỏi là những định hướng hết sức quan trọng để giúp học sinh
thưởng thức, đánh giá tác phẩm văn học đúng các nguyên tắc tiếp nhận nghệ
thuật. Cũng chỉ có thế mới giúp các em “Từ đặc điểm tiếp nhận thô sơ, tự
phát, thụ động, học sinh phải đạt tới việc tiếp thu có ý thức, tự giác và lĩnh
hội văn học có phê phán” [26]
1.3 Vận dụng những thành tựu của thi pháp học hiện đại vào hệ
thống CHHDHB:
Trong lời nói đầu của giáo trình ''Dẫn luận thi pháp học'' G.S Trần Đình
Sử viết: ''Kinh nghiệm tìm hiểu và thưởng thức nghệ thuật cho thấy: chỉ khi
nào tiếp xúc được với hình thức nghệ thuật của văn học, cảm thấy sự hiện
diện của nó, nhận ra cái nội dung được thể hiện từ đó, thì mới có thể nói là
tiếp xúc với bản thân nghệ thuật, cảm nhận nghệ thuật''
Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu tất cả mọi phương diện của hình
thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương tiện tạo thành nghệ thuật cũng như
sự vận động phát triển lịch sử của chúng. Nghiên cứu thi pháp học có thể nói
là một hướng nghiên cứu hết sức cần thiết để nâng cao năng lực cảm thụ và
phân tích nghệ thuật, nâng cao chất lượng dạy học văn. Vận dụng những
thành tựu đã đạt được về lĩnh vực thi pháp học hiện đại để biên soạn hệ thống
câu hỏi cho SGK là một hướng đi hợp lí và mang tính khoa học.
Rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân tích, bình giá tác phẩm văn học
trước hết phải xuất phát từ những đặc điểm của thế giới nghệ thuật và những
đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học. Phân tích, cảm thụ và tiếp nhận tác
phẩm văn học thực chất là thấy được những nét nổi bật, riêng biệt và thống
nhất của nhà văn và tác phẩm văn học cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Nội dung là những yếu tố, quá trình làm nên sự vật hiện tượng. Hình thức là
sự biểu hiện, sự tổ chức trật tự phương thức tồn tại của nội dung. Hình thức
và nội dung có mối quan hệ mật thiết, song song tồn tại, tạo nên giá trị lâu bền
của tác phẩm. Tuy nhiên mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ
thuật có tính chất đặc thù
Sự thống nhất hình thức và nội dung phải được hiểu là nội dung hoá
thân vào hình thức. Hình thức biểu đạt nội dung, mang tính nội dung. Hình
thức là phương thức tồn tại và biểu hiện của nội dung. Chính vì vậy hình thức
hàm chứa mọi quy tắc biểu đạt và biểu hiện tất cả sự phong phú của nội
dung. Muốn hiểu được nội dung chỉ có một con đường là đi sâu khám phá về
hình thức. Chính tính đặc thù của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
trong nghệ thuật đã quy định cách tiếp cận của thi pháp học- khám phá hình
thức nghệ thuật để nắm bắt nội dung mà hình thức đó biểu hiện. [25]
Phải phân tích tác phẩm trong sự thống nhất giữa hình thức và nội
dung của nó. Từ hình thức nghệ thuật làm sáng tỏ nội dung của hình tượng
văn học là một nguyên tắc cơ bản, bắt buộc. Đây là, một trong những cơ sở
quan trọng để xác lập hệ thống CHHDHB, hướng học sinh vào việc tìm hiểu
các hình thức nghệ thuật trong việc biểu hiện nội dung. Cũng theo G.S Trần
Đình Sử ''Hình thức nghệ thuật thật sự không chỉ là cấu tạo vật chất bên
ngoài mà còn là các hình thức tinh thần của hình tượng nghệ thuật, như là cái
nhìn nghệ thuật, giọng điệu, không khí tác phẩm, không gian, thời gian, nhịp
điệu...'' [27]
Như vậy, câu hỏi phải đi đúng con đường nghệ thuật. Bản thân học sinh
phải được tắm mình trong thế giới nghệ thuật để suy nghĩ, loại bỏ, lựa chọn
hay khẳng định. Xu hướng phát triển cơ bản của thi pháp học là từ phương
diện sáng tác đến phương diện cảm nhận. Trước đây người ta nghiên cứu thi
pháp học là để phục vụ cho hoạt động của người sáng tác. Ngày nay, thi pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
chuyển dần sang nghiên cứu cách đọc, cách hiểu, cách khám phá tác phẩm
nhằm phục vụ người đọc chiếm lĩnh các giá trị nghệ thuật một cách khoa học.
Thi pháp học hiện đại là thi pháp học cảm nhận, nghiêng về phía người tiếp
nhận. Trong nhà trường, nhu cầu văn học của học sinh về cơ bản là nhu cầu
tiếp nhận các sáng tác văn chương. Khi xây dựng câu hỏi nhằm rèn luyện cho
học sinh những kĩ năng phân tích, bình giá, tiếp nhận tác phẩm văn học một
cách toàn diện; cần chú ý bám sát vào đặc trưng của hình tượng văn học và
các yếu tố tạo nên hình tượng ấy dưới ánh sáng của thi pháp học hiện đại.
CHHDHB phần thơ hiện đại cần lưu ý đến tứ thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật
trữ tình, giọng điệu, mạch cảm xúc, kết cấu, ngôn từ... Việc trả lời tốt các
CHHDHB sẽ giúp học sinh phát huy được tính sáng tạo, tự mình bước vào
thế giới nghệ thuật đầy sức sống huyền diệu, chứa đựng bao điều lí thú cần
khám phá.
1.4 Vận dụng thành tựu của ngành ngôn ngữ học hiện đại vào
CHHDHB:
Tác phẩm văn học là nơi mà ngôn ngữ được thể hiện phong phú, đa
dạng và được trau dồi tinh tế nhất. Mỗi tác phẩm đều có sự phản ánh khác biệt
về hiện thực cuộc sống. Cái phân biệt giữa tác giả này với tác giả kia là ở cách
đánh giá nhìn nhận cuộc sống khác nhau, từ đó tạo nên cái không giống nhau
về phong cách nhà văn. Mỗi nhà văn dù muốn hay không đều có cách miêu tả
khác nhau về cuộc sống. Sự khác biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác là
tài năng vận dụng chất liệu ngôn từ làm phương tiện biểu đạt, điều này tạo
nên sự độc đáo ở mỗi nhà văn trong việc sử dụng khối quặng ngôn từ. Sức
sống của tác phẩm, hơi thở của tác phẩm không bày ra ngay trên con chữ mà
ẩn giấu đằng sau ngôn từ. Quá trình tiếp cận tác phẩm văn học, học sinh sẽ
học tập và rèn luyện cho mình cách diễn đạt chính xác, trong sáng và sinh
động. Giáo viên khi dạy tác phẩm văn chương cần định hướng cho học sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
khai thác các giá trị của tác phẩm dưới góc độ ngôn ngữ. Bởi vì thế giới nghệ
thuật tiềm ẩn trong mỗi văn bản văn chương vốn được kiến tạo từ loại vật liệu
đặc biệt vốn mang đặc trưng đa nghĩa, phi vật thể: Vật liệu ngôn từ.
Không có ngôn từ sẽ không có hình thức nghệ thuật, không có hình
thức nghệ thật sẽ không có hình tượng nghệ thuật, không có hình tượng nghệ
thuật sẽ không có bất kì một tư tưởng nghệ thuật nào hết. Và người giải mã hệ
thống kí hiệu đặc biệt đó không ai khác chính là bạn đọc học sinh.
Trong một tác phẩm văn chương nội dung và hình thức nghệ thuật có
liên quan chặt chẽ, thống nhất làm một. Nội dung là linh hồn của nghệ thuật.
Nghệ thuật là biểu hiện của nội dung. Phân tích, cảm thụ và tiếp nhận tác
phẩm văn học thực chất là thấy được những nét nổi bật, riêng biệt và thống
nhất của nhà văn và tác phẩm văn học, cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật,
hay nói đúng hơn là chỉ ra được cái lí của hình thức nghệ thuật, một thứ “hình
thức mang nghĩa.” Từ hình thức nghệ thuật làm sáng tỏ nội dung của hình
tượng văn học là một nguyên tắc cơ bản, bắt buộc. Hình thức nghệ thuật của
một tác phẩm rất đa dạng và phong phú. Vấn đề là ở chỗ chúng ta nên định
hướng cho học sinh lựa chọn những yếu tố nào để chiếm lĩnh tác phẩm một
cách có hiệu quả nhất.
Thách thức đối với học sinh đó là văn bản tồn tại qua ngôn từ, nhưng
ngôn từ lại chuyển qua hình ảnh, từ hình ảnh vươn tới biểu tượng để rồi lớn
lên thành những hình tượng nghệ thuật mang sức khái quát và khả năng
thuyết phục nghệ thuật sâu sắc về những vấn đề của đời sống. Vượt qua từng
nấc rào cản đó không phải là công việc dễ dàng.
Theo chúng tôi, CHHDHB trước hết cần định hướng cho học sinh nắm
bắt những tín hiệu ngôn ngữ mang tính then chốt của bài học, Những yếu tố
mang tính then chốt là những yếu tố có vai trò chủ đạo chi phối các yếu tố
ngôn ngữ khác. Chẳng hạn thơ trữ tình là thứ ngôn ngữ đậm suy tư, liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
tưởng, tưởng tượng. Là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức
cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm. Thế giới trong thơ trữ tình là thế giới
ước lệ cao độ, thế giới của những biểu tượng. Vì vậy khi cảm thụ thơ đòi hỏi
phải khám phá thế giới nội cảm ẩn dưới sự tổ chức ngôn từ thơ, độ đằm sâu
của cảm xúc tâm linh. Chỉ có thể bám lấy dòng ngôn từ trong tất cả khả năng
gợi hình, biểu cảm và sự tổ chức giàu nhịp điệu của nó.
Ví dụ khi định hướng cho học sinh khám phá, chiếm lĩnh bài thơ “Từ
ấy” của Tố Hữu, cần định hướng cho các em khai thác những tín hiệu ngôn
ngữ như: “Bừng nắng hạ”, “chói qua tim”, “đậm hương”, “rộn tiếng chim”.
Cấu trúc ngữ pháp trùng điệp: “để tình”, “để hồn”, “là con”, “là em”, “là
anh”…Từ những tín hiệu ngôn ngữ đó mà các em cảm nhận được tâm trạng
sung sướng, hạnh phúc của một người thanh niên trẻ tuổi lần đầu tiên đến với
lí tưởng cộng sản và tác dụng kì diệu của lí tưởng với cuộc đời nhà thơ.
Trong bài “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Chõu, giỏo viờn hướng
cho học sinh khai thỏc những tớn hiệu ngụn ngữ như “Đông hải” (Biển
Đông), “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn đợt sóng bạc), “Trường phong” (ngọn
gió dài, ngọn gió lớn), “Nhất tề phi” (cùng bay lên,bay theo). Những tín hiệu
ngôn ngữ này thể hiện được cái hăm hở dấn thân, khát vọng lớn lao, hoài bão
cao cả, khí lực dồi dào, bầu máu nóng sục sôi của cái tôi trũ tình đó cuộn lên
những lớp sóng bạc, gió lớn, khuấy động lên những đợt ssng lòng dào dạt, sục
sôi cho một thế hệ thanh niên ưu tú nặng lòng với non sông, đất nước, gạt bỏ
tất cả để “xuất dương” cầu học tập, tiến bộ.
Tìm hiểu tác phẩm văn chương dưới góc độ ngôn ngữ cũng cần chú ý
đến những yếu tố ngôn ngữ hình thành ra thế đối lập. Khi định hướng cho học
sinh khám phá các giá trị của bài thơ, nên có câu hỏi cho các em tìm hiểu và lí
giải những thế đối lập ngôn ngữ mà dụng ý của tác giả đưa ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Ví dụ trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận có yếu tố ngôn ngữ đối
lập trong cõu:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Không gian trong hai câu đột ngột thay đổi. Hai động từ ngược hướng
mang lại cảm xúc chuyển động rõ rệt. Câu thơ trên là sự vô biên được mở về
chiều cao. Câu thơ dưới là sự vô biên mở cả về chiều rộng lẫn chiều dài. Tác
giả không đứng ở mặt đất để ngước lên trời xanh mà như đang đứng bơ vơ để
nhìn vào vũ trụ thăm thẳm. Huy Cận nhìn vào tận cùng, tận đáy để cảm nhận
độ sâu của nó. Và dường như không gian ấy càng làm cho dòng sông dài hơn,
rộng hơn, bến bờ lẻ loi, cô liêu hơn, khiến cho nỗi buồn của nhà thơ thấm
đẫm vào không gian.
Ở bài thơ “Vội vàng”- Xuân Diệu có những yếu tố ngôn ngữ đối lập
mạnh mẽ như: non - già, rộng - chật, còn - chẳng còn, tuần hoàn - chẳng hai
lần thắm lại...không chỉ thể hiện được những cảm thức về thời gian hết sức
nhạy cảm của Xuân Diệu mà còn nói lên được tâm trạng thổn thức băn khuăn
trước cuộc đời. Một sự đối lập gay gắt giữa thời gian của vũ trụ và cuộc đời
hữu hạn của mỗi con người. Mùa xuân của đất trời thì mãi mãi tuần hoàn con
mựa xuân của con người thì chỉ có một lần rồi trôi đi vĩnh viễn không bao giờ
trở lại. Những câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và lí giải thế đối lập ngôn
ngữ mà dụng ý tác giả đưa ra sẽ giúp các em hiểu được vì sao cái tôi Xuân
Diệu nhiều lúc “đang vui bỗng buồn ngay” (Thế Lữ)
Tóm lại ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ mang tính chất hàm ẩn, đa
nghĩa, khi đứng trước văn bản ngôn từ của những bài thơ hay, tiêu biểu được
lựa chọn trong SGK cần có những câu hỏi dựa vào những cứ liệu nghệ thuật
để học sinh từng bước khám phá vẻ đẹp và tiếp cận những giá trị nhân văn,
thẩm mĩ đích thực của tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
1.5 Vận dụng những ƣu điểm của dạy học nêu vấn đề:
Thuật ngữ “Dạy học nêu vấn đề” đã có từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Lúc đó. Dạy học nêu vấn đề mới chỉ được coi là một phương pháp
nghiên cứu. Đến giữa thế kỷ XX. Dạy học nêu vấn đề đã trở thành một hệ
thống lí luận. Đó là kết quả của sự tìm kiếm thực tiễn sư phạm ở nhà trường
phổ thông của các nước Liên Xô (cũ), Ba Lan và một số nước khác.
Trong những năm gần đây đã xuất hiện một đội ngũ đông đảo những
nhà nghiên cứu dạy học nêu vấn đề. Có thể kể đến những tên tuổi nổi tiếng
như: V.Ôkôn, I.Ia.Lecne, I.F.Kharlamôp, TV.Cuđriasep... Ở Việt Nam có G.S
Phan Trọng Luận, G.S-T.S Nguyễn Thanh Hùng đã tập trung nghiên cứu khả
năng chiều hướng vận dụng dạy học nêu vấn đề vào dạy học tác phẩm văn
chương. Các tác giả đều nhận thấy vai trò to lớn và ý nghĩa quan trọng của
dạy học nêu vấn đề đối với quá trình nhận thức và phát triển của học sinh.
Trong cuốn “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”, G.S Phan Trọng
Luận đã khẳng định: Dạy học nêu vấn đề hơn hẳn dạy học truyền thống. Cũng
trong công trình này G.S đã đưa ra quan niệm dạy học nêu vấn đề, tình huống
có vấn đề và đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề. G.S cho rằng:
Dạy học nêu vấn đề là dạy học sáng tạo. Nó khác hẳn về bản chất
với dạy học truyền thống về mục đích cũng như phương hướng thực hiện. Một
nguyên tắc cơ bản của nó là song song với việc lĩnh hội tích cực về kiến thức
là sự phát triển những năng lực sáng tạo ở học sinh. Kiến thức vừa là sản
phẩm vừa là phương pháp, con đường hình thành nhân cách và lĩnh hội kiến
thức phải thông qua sự vận động bên trong của chủ thể học sinh. [17]
Có thể nói ý nghĩa quan trọng nhất của dạy học nêu vấn đề là đổi mới
vai trò của người dạy và người học. Trong dạy học nêu vấn đề, học sinh được
bộc lộ vai trò chủ thể của mình trong suốt giờ học. Do được phát huy tính chủ
động, tích cực sáng tạo mà các em luôn tìm thấy niềm say mê, hứng thú, lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
nhiệt tình trong học tập. Từ đó có tác dụng biến đổi học sinh từ vai trì thụ
động sang vai trò chủ động, tích cực tiếp thu nguồn kiến thức. Sự chuyển đổi
này được V.Ôkôn, nhà giáo dục nổi tiếng của Cộng hòa nhân dân Ba lan đánh
giá: “ý nghĩa quan trọng nhất của sự tác động đến nhân cách học sinh là sự
biến đổi học sinh từ chỗ là đối tượng của sự tác động học tập, giáo dục trở
thành chủ thể của sự giáo dục”.
Dạy học nêu vấn đề không chỉ tác động tích cực đến người học mà còn
tác động tích cực đến cả người dạy. Người thầy từ vai trò truyền thụ cách
hiểu, cách cảm của mình về tác phẩm văn chương đến học sinh chuyển sang
vai trò tổ chức, định hướng quá trình học tập chứ không làm hộ cho học sinh
như trước đây nữa. Từ đó cơ chế dạy học văn, quan điểm dạy học bộ môn
cũng thay đổi. Những sự thay đổi đó đưa đến một hệ quả tất yếu: Phương
pháp dạy văn cũng được đổi mới. Và như vậy “Dạy học nêu vấn đề được xem
là một trong những con đường quan trọng để đạt mục đích của nhà trường”
(Lecne)
Dạy học nêu vấn đề dựa trên những quy luật tư duy, nhất là tư duy sáng
tạo. Linh hồn của dạy học nêu vấn đề là tạo được tình huống có vấn đề. Tình
huống có vấn đề là một trạng thái tâm lí nảy sinh ở một người trước một khó
khăn được chủ thể ý thức và muốn khắc phục thì phải vận dụng những hiểu
biết mới và phương thức hành động mới. Trong giảng văn tạo được tình
huống có vấn đề là tạo được một trạng thái tâm lí văn học cần thiết. Đây là
một hoạt động sư phạm phù hợp với mục đích dạy học mới hiện nay, vừa
thích ứng với quy luật của cảm thụ văn học và đặc trưng của văn học. Muốn
xây dựng được tình huống có vấn đề trước hết phải xây dựng được một hệ
thống câu hỏi nêu vấn đề. Nói cách khác nhân tố thúc đẩy tạo ra tình huống có
vấn đề là câu hỏi nêu vấn đề.
Theo PGS-TS Nguyễn Thanh Hương:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi sáng tạo tình huống thức đẩy tư duy,
buộc các em suy nghĩ, đào sâu, khám phá và so sánh, từ đó có khả năng tạo
nên sự thăng hoa trong nhận thức của các em. Câu hỏi nêu vấn đề luôn chứa
đựng mâu thuẫn và xâu chuỗi các vấn đề, chi tiết, sự kiện trong tác phẩm.[ 9 ]
Trong các công trình nghiên cứu của mình các tác giả Phan Trọng Luận
và Nguyễn Thanh Hùng cũng đã đưa ra những đặc điểm của loại câu hỏi nêu
vấn đề để phân biệt với loại câu hỏi tái hiện như sau:
Thứ nhất: Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một dung lượng lớn, mang
tính chất tổng hợp, khác với loại câu hỏi tái hiện vụn vặt, rời rạc xa lạ với
quan điểm hệ thống vốn là đăc trưng của khoa học hiện đại.
Thứ hai: Câu hỏi nêu vấn đề thường mang tính phức tạp về nội dung.
Thứ 3: Câu hỏi nói chung nhất thiết phải vạch ra được mối liên hệ hữu
cơ giữa những vấn đề cụ thể với những vấn đề tổng hợp của tác phẩm.
Thứ tư: Câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục, mỗi câu hỏi là một
cái mốc trong quá trình khám phá tác phẩm. Câu sau bổ sung cho câu trước,
câu trước chuẩn bị cho câu sau.
Thứ năm: Câu hỏi phải sát hợp với tác phẩm và khêu gợi hứng thú của
bản thân học sinh.
Thứ sáu: Trong thực tế khi xây dựng một hệ thống câu hỏi nêu vấn đề,
vẫn ít nhiều dựa vào một số câu hỏi tái hiện làm dữ kiện cho hoạt động sáng
tạo của học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề không nhằm mục đích yêu cầu học sinh tái hiện tri
thức đã có mà yêu cầu học sinh biết sử dụng cái đã biết, cái đã cho làm
phương thức tìm tòi, nghiên cứu để phát hiện ra những tri thức mới. Loại câu
hỏi này luôn luôn đặt học sinh trước vấn đề cần giải quyết. Các vấn đề, chi
tiết, sự kiện trong tác phẩm khiến học sinh phải đào sâu, khám phá, so sánh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
do đó kích thích nhu cầu khám phá, tìm hiểu của các em, gây được không khí
sôi nổi, hào hứng trong giờ học.
Vớ dụ khi định hướng cho học sinh phân tích tác phẩm “Hầu Trời” của
Tản Đà, có thể đưa ra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_DTH.pdf