Luận văn Nghiên cứu hiện tượng đa hành văn tự ở các bản in phật giáo trong phong trào chấn hưng phật giáo miền Bắc Việt Nam (1924-1954)

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .3

PHẦN MỞ ĐẦU.4

Chương 1: LƯỢC SỬ ĐA HÀNH VĂN TỰ Ở VIỆT NAM VÀ BỐI CẢNH NGỮ

VĂN PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỈ 20.8

1.1. Hiện tượng đa hành văn tự trong văn bản ngữ văn cổ điển Việt Nam .8

1.1.1. Bối cảnh ngữ văn ở Việt Nam trước 1945 .8

1.1.2. Song hành văn tự Hán - Nôm.9

1.1.3. Đa hành văn tự có xuất hiện chữ Quốc ngữ .13

1.2. Hiện tượng đa hành văn tự Hán – Nôm trong văn bản in Phật giáo nói chung

.16

1.3 Những yếu tố tác động tới ngữ văn Phật giáo đầu thế kỉ 20.19

1.3.1. Những thay đổi về giáo dục, thi cử và sự phổ biến chữ Quốc ngữ.19

1.3.1.1. Những thay đổi về giáo dục, thi cử.19

1.3.1.2. Sự phổ biến chữ Quốc ngữ.24

1.3.2. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc nửa đầu thế kỉ 20.31

1.3.2.1. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ 20.31

1.3.2.2. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc nửa đầu thế kỉ 20 .34

Chương 2: ĐA HÀNH VĂN TỰ TRONG VĂN BẢN IN PHẬT GIÁO Ở MIỀN

BẮC GIAI ĐOẠN 1924 - 1954 .41

2.1 Khái niệm “đa hành văn tự” và mô hình phân loại hiện tượng đa hành văn tự

.41

2.2. Song hành văn tự Hán – Quốc ngữ.48

2.2.1. Song hành đối phiên.48

2.2.1.1. Nguồn tư liệu.48

2.2.1.2. Phân tích tương quan giữa chữ Hán và chữ Quốc ngữ trong nhóm tư

liệu đối phiên.53

2.2.1.3. Lý giải sự ra đời của các tư liệu Phật giáo đối phiên Hán – Quốc ngữ

.65

2.2.2. Song hành phiên – dịch .67

pdf100 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hiện tượng đa hành văn tự ở các bản in phật giáo trong phong trào chấn hưng phật giáo miền Bắc Việt Nam (1924-1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chữ Nôm trong một văn bản, bất kể là hai loại văn tự đó có quan hệ với nhau về nghĩa hay không. Trong hiện tượng song tồn văn tự, dựa theo mối quan hệ về ý nghĩa mà các văn tự biểu đạt trong văn bản, có thể chia thành 3 loại nhỏ như sau: Song hành văn tự Hán – Nôm (漢喃文字的雙行) được tôi quan niệm là hiện tượng hai loại văn tự Hán và Nôm cùng tồn tại trong một văn bản và cùng thể hiện một nội dung ý nghĩa, tương tự như các sách truyện song ngữ Trung - Việt khá phổ biến ngày nay. Song tiếp văn tự Hán – Nôm (漢喃文字的雙接) được quan niệm là hiện tượng kết hợp hai loại văn tự Hán và Nôm sử dụng xen kẽ để tham gia tạo nên một văn bản với nội dung ngôn từ hoàn chỉnh; ví dụ như trong văn bản tiếng Nhật có sự tồn tại chung của ba loại văn tự là Kanji, Hiragana, và Katakana để tạo nên một văn bản tiếng Nhật (khi đó có thể gọi là tam tiếp văn tự 文字的三接). Song nhập văn tự Hán – Nôm (漢喃文字的雙入): là hiện tượng trong một văn bản tồn tại cả chữ Hán và chữ Nôm, nhưng phần chữ Hán và chữ Nôm ghi lại những nội dung ngôn từ (hoặc tác phẩm) không trùng nhau (tức không phải là phiên dịch), mà cũng không phải kết hợp với nhau một cách tiếp nối để tạo thành một nội dung ngôn từ hoàn chỉnh. Các nội dung ngôn từ (hoặc tác phẩm) ấy có thể độc lập với nhau, hoặc là chỉ liên hệ với nhau về lĩnh vực nội dung (cùng thuộc lĩnh vực triết học, giáo dục, Nho gia).” Các trường hợp của hiện tượng song tồn văn tự Hán Nôm được tác giả phân loại và lấy ví dụ minh họa như sau: Bảng 2.1: Ví dụ minh họa cho các hiện tượng song tồn văn tự Hán Nôm Phân loại hiện tượng song tồn văn tự Hán Nôm Ví dụ dẫn chứng Song tồn Song hành văn Dịch văn bản Hán thành Nôm Văn xuôi Phật thuyết Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh 佛 說大報父母恩重經 Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập 45 văn tự Hán - Nôm tự Hán - Nôm chú 新編傳奇漫錄增補解音集注 (R.109)46 Văn vần Tam tự kinh lục bát diễn âm 三字經六八演音 (R.129) Nôm thành Hán Nam phong giải trào南風解嘲 (R.1674, chép tay) Nam thi tân tuyển 南詩新選 (R.1857, chép tay) Dịch từ, dịch tự Dịch đối chiếu từ vựng trong từ thư cổ Tam thiên tự giải âm 三千字解音 (R.468, AB.19, A.52, A.54) Dịch đối chiếu từ vựng trong các tác phẩm không phải là từ thư Tam tự kinh thích nghĩa三字經釋義 47 Song tiếp văn tự Hán - Nôm - Bản chỉ đời Lê năm 1700 trong Quốc triều điều lệ điền chế國朝條例田制 (A.258) - Bản chiếu của vua Quang Trung viết năm 1788 bằng mực son đỏ gửi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp 羅山夫子阮浹 (1723-1804) để hỏi và giục về việc chọn đất lập đô ở Nghệ An.48 Song nhập văn tự Hán - Nôm Ghép nhiều tác phẩm - Kí hiệu sách VHv.2971 có sự đóng ghép cơ giới giữa bốn tác phẩm gồm có hai nhóm: nhóm (1) là tác phẩm Ấu học khải mông thức 幼學啟蒙式 (chữ Hán, chép tay) với nhóm (2) là ba tác phẩm song hành văn tự Hán – Nôm khắc in là Sơ học vấn tân 初學問津 (khắc năm 1933), Thiên Nam tứ tự kinh 天南四字經 (1874), và Trạng nguyên ngũ ngôn thi 狀元五 言詩 (1933) Ghép nhiều tác phẩm Tam tự thư tân vựng 三字書新彙 (AB.279) Ở cả hai bài viết, hiện tượng tồn tại nhiều loại văn tự trong một văn bản Hán - Nôm đều là vấn đề chính được nghiên cứu. Trong bài viết Đa hành văn tự trong văn bản ngữ văn cổ điển Việt Nam, hiện tượng tồn tại nhiều loại văn tự dạng cùng tồn tại song song được đề cập tới với 3 loại văn tự (Hán, Nôm, Quốc ngữ), tuy nhiên các dạng tồn tại nhiều loại văn tự khác như song nhập, song tiếp lại chưa được đề 46 Ở VNCHN còn nhiều bản của tác phẩm này: VHv. 1491/1-4, A.1021, VHv.1641, A.176/1-2, A. 320/1-4, A.3165 (Nguyễn Tuấn Cường). 47 Hiện còn lưu hai bản, một bản do nhà in Hiệu Văn đường 校文堂 khắc năm 1873 (Quý Dậu); bản còn lại hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hoá (言語文化研究所) thuộc Đại học Keio (慶應義塾大学, Keio Gijuku Daigaku) ở Tokyo, do nhà in Phúc Văn đường 福文堂 khắc in năm 1937 (Bảo Đại Đinh Sửu). (Nguyễn Tuấn Cường). 48 Nguồn: Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu tử, in trong: La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội: NXB Giáo dục, 1998, ảnh chụp tờ chiếu ở trang 940-941, phần phiên âm và khảo cứu của Hoàng Xuân Hãn ở tr. 1042-1044 (Nguyễn Tuấn Cường). 46 cập tới. Ở bài viết Hiện tượng song tồn văn tự Hán - Nôm trong văn bản ngữ văn cổ điển Việt Nam, tuy chỉ khảo sát các dạng tồn tại hai loại văn tự (Hán và Nôm) ở trong một văn bản, nhưng các khái niệm mới tác giả đặt ra (song tồn, song hành, song tiếp, song nhập) đã đủ khả năng bao quát các dạng tồn tại của hai loại văn tự này trong văn bản, và có thể mở rộng để bao quát các dạng tồn tại nhiều loại văn tự hơn trong một văn bản ngữ văn cổ điển Việt Nam. Phát triển từ những khái niệm và cách phân loại của tác giả Nguyễn Tuấn Cường, tác giả luận văn cũng đặt ra những khái niệm và sơ đồ phân loại mới cho hiện tượng tồn tại nhiều loại văn tự trong một văn bản ngữ văn cổ điển Việt Nam có chữ Hán hoặc chữ Nôm là loại văn tự chính. Qua việc hình thành sơ đồ phân loại này, chúng tôi muốn định vị được vị trí của hiện tượng đa hành văn tự trong các bản in Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1924 – 1954 trong cái nhìn khái quát về hiện tượng tồn tại đồng thời nhiều loại văn tự trong một văn bản ngữ văn Việt Nam. Trong sơ đồ, trên, có 3 khái niệm mới được đề cập tới: “Đa tồn văn tự được hiểu là hiện tượng cùng xuất hiện nhiều loại văn tự trong một văn bản, bất kể là hai loại văn tự đó có quan hệ với nhau về nghĩa hay không. Đa tồn văn tự Đa hành văn tự Song hành văn tự Hán - Nôm Dịch Hán sang Nôm Dịch ra văn xuôi Dịch ra văn vần Dịch Nôm sang Hán Hán - Quốc ngữ Đối phiên Dịch Phiên - Dịch Nôm - Quốc ngữ Tam hành văn tự Hán - Nôm - Quốc ngữ Hán - Pháp - Quốc ngữ Đa tiếp văn tự Đa nhập văn tự 47 Đa tiếp văn tự được hiểu là hiện tượng kết hợp nhiều loại văn tự sử dụng xen kẽ để tham gia tạo nên một văn bản với nội dung ngôn từ hoàn chỉnh. Đa nhập văn tự: là hiện tượng trong một văn bản tồn tại nhiều loại văn tự, nhưng từng loại văn tự ghi lại những nội dung ngôn từ (hoặc tác phẩm) không trùng nhau (tức không phải là phiên dịch), mà cũng không phải kết hợp với nhau một cách tiếp nối để tạo thành một nội dung ngôn từ hoàn chỉnh. Các nội dung ngôn từ (hoặc tác phẩm) ấy có thể độc lập với nhau, hoặc là chỉ liên hệ với nhau về lĩnh vực nội dung. Trong sơ đồ phân loại trên, việc phân chia hai nhóm “Đa tiếp văn tự” và “Đa nhập văn tự” hiện tại thực chất chỉ là một sự phân chia mang tính hình thức, các dẫn chứng tới thời điểm hiện tại chúng tôi ghi nhận được chỉ nằm trong phạm vi khái niệm “Song nhập văn tự Hán - Nôm” và “Song tiếp văn tự Hán – Nôm” mà tác giả Nguyễn Tuấn Cường đã đề cập tới. Trong quá trình tìm tư liệu thực hiện luận văn này, chúng tôi đã thống kê được nguồn tư liệu bản in Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1924 – 1954 có hiện tượng đa hành văn tự như sau: - 35 đầu sách (sách hiện còn trong các thư viện, tủ sách nhà chùa và từ thông tin giới thiệu sách trên tạp chí) - 1 tờ bướm - 4 bộ ván in sách ở chùa Quán Sứ - 55 số báo Đuốc Tuệ Trong số tư liệu trên, 4 bộ ván chùa Quán Sứ tuy chỉ là khuôn in chứ không phải là văn bản in. Tuy nhiên những văn bản được in từ các khuôn trên hiện không tìm thấy, và các bộ ván vẫn cung cấp được thông tin về nội dung và hình thức của văn bản in, nên chúng tôi vẫn đưa nhóm tư liệu này vào tiến hành thống kê và nghiên cứu. Hiện tượng đa hành văn tự trong số tư liệu trên có thể chia làm 4 loại: Bảng 2.2: Phân loại hiện tượng đa hành văn tự Phật giáo miền Bắc Việt Nam 1924 – 1954 Stt Loại Số tư liệu 1 Hán – Quốc ngữ Đối phiên - 23 đầu sách - 4 bộ ván in - 1 tờ bướm 48 - 1 số báo Đuốc Tuệ 2 Dịch - 3 số báo Đuốc Tuệ 3 Phiên – Dịch - 11 đầu sách - 51 số báo Đuốc Tuệ 4 Nôm – Quốc ngữ - 1 đầu sách Số tư liệu thống kê trong bảng trên được chúng tôi tập hợp từ nhiều nguồn: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện chùa Quán Sứ - Hà Nội, Tủ sách chùa Phú Cốc – Hà Nội, Tủ sách chùa Phổ Tế - Tp. Huế 2.2. Song hành văn tự Hán – Quốc ngữ 2.2.1. Song hành đối phiên 2.2.1.1. Nguồn tư liệu Song hành văn tự Hán – Quốc ngữ đối phiên là hiện tượng trong một văn bản có chữ Hán và chữ Quốc ngữ tồn tại song song với nhau, trong đó phần chữ Quốc ngữ là phiên âm của phần chữ Hán. Phiên âm của chữ Hán được sử dụng chủ yếu là âm Hán Việt, ngoài ra có một số trường hợp phiên âm phi Hán Việt.49 Thuật ngữ đối phiên xuất hiện trong tiêu đề bài tựa một văn bản có tồn tại hiện tượng này là “Phật thuyết Phạm võng kinh bồ tát tâm địa phẩm đối phiên Hoa Việt” 佛說梵網經菩薩心地品對翻華越.50 Trong tên bài tựa trên, chữ Hán được gọi là “Hoa”, còn chữ Quốc ngữ được gọi là “Việt”. Thuật ngữ “đối phiên” được sử dụng để chỉ phương pháp biên soạn sách mà theo đó mỗi chữ Hán sẽ tương ứng phiên âm Hán Việt bằng chữ Quốc ngữ ở bên cạnh. Trong một số văn bản khác, hiện tượng này được gọi bằng một số thuật ngữ khác như: “phiên dịch”,51 “đối chiếu”.52 Tuy nhiên, chúng tôi chọn thuật ngữ “đối phiên” 49 Vấn đề này sẽ được làm rõ ở mục 2.2.1.3. 50 Văn bản Phật thuyết Phạm võng kinh bồ tát tâm địa phẩm 佛說梵網經菩薩心地品 hiện lưu giữ tại thư viện chùa Quán Sứ. 51 Thuật ngữ này xuất hiện trong dòng: “Phương danh các vị phát tâm san ấn, phiên dịch, hội họa, thư tả, hiệu chính bộ kinh TỪ-BI ĐẠO-TRÀNG SÁM-PHÁP này” (Từ bi đạo tràng xám pháp, Nhà in Thái Bình Dương – Hà Nội, 1949, tờ bìa lót 2; sách lưu tại chùa Phổ Tế - Tp. Huế). 52 Thuật ngữ này xuất hiện trong dòng “PHƯƠNG DANH CÁC ĐẠO – HỮU tùy hỷ vào việc khắc bản KINH ĐỊA – TẠNG ĐỐI CHIẾU” (Kinh Địa tạng, nhà in Đuốc Tuệ, 1951, tr. 87; sách lưu tại thư viện chùa Quán Sứ). 49 để chỉ hiện tượng song hành này vì nó thể hiện được đặc trưng là phiên âm của chữ Quốc ngữ trong văn bản. Ở hiện tượng này, chúng tôi tìm được 23 đầu sách , 4 bộ ván in, 1 tờ bướm 1 số báo Đuốc Tuệ như đã thống kê ở trên. Dù cùng là các tư liệu có hiện tượng đối phiên Hán – Quốc ngữ, nhưng kĩ thuật in ấn, hình thức trình bày của các tư liệu trên lại có nhiều điểm khác biệt: kĩ thuật in truyền thống bằng ván hoặc kĩ thuật in hiện đại, tư liệu có thể được dàn trang dọc như sách cổ hoặc dàn trang ngang, chữ Quốc ngữ có thể được viết in hoa hoặc viết thường Những tư liệu thuộc nhóm này được chúng tôi thống kê lại như sau: Bảng 2.3: Thống kê tư liệu song hành đối phiên Hán – Quốc ngữ STT Tên văn bản Năm xuất bản Loại hình tư liệu Nơi xuất bản Dàn trang Công nghệ in Nguồn của tư liệu Ghi chú 1 Kinh Dược sư 1936 Sách Dọc Mới Thư viện chùa Quán Sứ Sách không ghi năm xuất bản. Niên đại tính theo lời giới thiệu kinh mới xuất bản trên báo Đuốc Tuệ. 2 Ngũ bách danh 1937 Sách Đuốc Tuệ Dọc ? S87.2358, Thư viện Quốc gia Việt Nam Hình thức khác với bộ ván ở Thư viện chùa Quán Sứ. 3 Từ bi tam muội thủy sám - Thượng 1939 Sách Đuốc Tuệ Dọc Mới Thư viện chùa Quán Sứ Sách không ghi năm xuất bản. Niên đại tính theo lời giới thiệu kinh mới xuất bản trên báo Đuốc Tuệ. 4 Khóa lễ xám nguyện tịnh độ 1939 Sách Đuốc Tuệ Dọc In ván trên giấy mới Thư viện chùa Quán Sứ Sách không ghi năm xuất bản. Niên đại tính theo lời giới thiệu kinh mới xuất bản trên báo Đuốc Tuệ. 5 Diệu pháp liên hoa kinh Quan thế âm Bồ tát Phổ môn phẩm 1939 Sách Đuốc Tuệ Dọc In ván trên giấy mới Thư viện chùa Quán Sứ Sách không ghi năm xuất bản. Niên đại tính theo lời giới thiệu kinh mới xuất bản trên báo Đuốc Tuệ. 6 Bát nhã ba la mật đa tâm kinh 1939 Bài báo Đuốc Tuệ Ngang Mới Báo Đuốc Tuệ số 117, trang 17 - 19 (xuất bản ngày 1/10/1939) 7 Kinh Hiếu tử 1940 Sách Đuốc tuệ ? ? Thông tin giới thiệu trên Đuốc Tuệ (số 119, trang 39) “Các kinh này đều có chữ nho và quốc ngữ đối 8 Kinh Thất hiền nữ 1940 Sách Đuốc tuệ ? ? 50 chiếu.” 9 Từ bi tam muội thủy sám - Trung 1940 Sách Đuốc Tuệ Dọc Mới Thư viện chùa Quán Sứ Sách không ghi năm xuất bản. Niên đại tính theo lời giới thiệu kinh mới xuất bản trên báo Đuốc Tuệ. 10 - Thập thiện giảng nghĩa - Phật thuyết tử sinh 1940 Sách Đuốc tuệ ? ? Thông tin giới thiệu trên Đuốc Tuệ (số 141, trang 2) "Hai quyển đóng chung làm một, có chữ Nho quốc ngữ đối chiếu. Bộ trên Phật dạy dỗ phép làm người tu học theo đó tức là người hoàn toàn nhân cách, lên bậc thánh hiền. Bộ dưới Phật dạy cho biết cái cảnh thế gian là vô thường để đưa vào đường đạo. " 11 Diệu pháp liên hoa kinh - Thượng 1945 - 1946 Sách Hội Phật tử Việt Nam Ngang Mới Chùa Phú Cốc Văn bản không ghi niên đại. Ở phần phương danh cúng tiền in sách có ghi tên Dương Quảng Hàm (1898 - 1946). Hội Phật tử Việt Nam ra đời năm 1945. Kết hợp hai thông tin trên, chúng tôi đoán định năm xuất bản quyển sách này là 1945 - 1956 12 Thủ lăng nghiêm kinh - 1 1949 Sách Hội phật tử Việt Nam. Hà Nội Thái Bình Dương ấn vụ cục Ngang Mới Thư viện chùa Quán Sứ 13 Thủ lăng nghiêm kinh - 2 1949 Sách Hội phật tử Việt Nam. Hà Nội Thái Bình Dương ấn vụ cục Ngang Mới Thư viện chùa Quán Sứ 14 Thủ lăng nghiêm kinh - Thần chú ? Sách Ngang Mới Thư viện chùa Quán Sứ Trang lót ghi thông tin tác giả, nơi xuất bản bị mất; nhưng trang trí bìa, quy cách làm sách giống với hai bản kinh Thủ lăng nghiêm. Có thể văn bản này cũng được in năm 1949. 15 Lương Hoàng xám(Từ 1949 Sách Nhà in Thái Bình Ngang Mới Thư viện chùa Quán Sứ 51 bi đạo tràng sám pháp)- Thượng Dương 16 Phạm võng kinh bồ tát tâm địa phẩm 1951 (Phật lịch 2514) Sách Chùa Quán Sứ Dọc Dó Thư viện chùa Quán Sứ Chỉ có phần nghi thức và quyển Thượng. 17 Kinh Địa tạng - Tập Thượng 1951 (Phật lịch 2514) Sách Đuốc Tuệ Dọc Mới Thư viện chùa Quán Sứ 18 Kinh Địa tạng - Tập Trung 1951 (Phật lịch 2514) Sách Đuốc Tuệ Dọc Mới Thư viện chùa Quán Sứ 19 Viên Giác kinh 1953 Sách Dọc In ván trên giấy dó Thư viện chùa Quán Sứ 20 Diên mệnh kinh ? Ván in Chùa Quán Sứ Dọc Thư viện chùa Quán Sứ 21 Ngũ bách danh ? Ván in Chùa Quán Sứ Dọc Thư viện chùa Quán Sứ Ván khác với bản TVQG 22 Duy thức tam thập luận tụng ? Ván in Chùa Quán Sứ Dọc Thư viện chùa Quán Sứ 23 Phạm võng kinh Bồ tát tâm địa phẩm 1951 Ván in Chùa Quán Sứ Dọc Thư viện chùa Quán Sứ Nội dung giống với văn bản Phạm võng kinh bồ tát tâm địa phẩm, nhưng được bổ sung thêm quyển Thượng. 24 Chú Đại bi ? Tờ bướm Dọc Mới Mua được Trong số các tư liệu trên, loại hình tư liệu xuất hiện nhiều nhất là sách từ hai nguồn xuất bản là nhà in Đuốc Tuệ của Hội Phật giáo Bắc Kì và nhà in Thái Bình Dương do Hội Phật tử Việt Nam đứng ra xuất bản. Hai tổ chức này đều ở Hà Nội và là những tổ chức Phật giáo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_nghien_cuu_hien_tuong_da_hanh_van_tu_o_cac_ban_in_p.pdf
Tài liệu liên quan