Những yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học.
- Thứ nhất, một hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối quan hệ giữa các bộ phận cũng như giữa các mặt của đối tượng nghiên cứu và giữa đối tượng nghiên cứu với hiện tượng liên quan, trong khuôn khổ của việc đáp ứng mục đích nghiên cứu. Như vậy khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải dựa trên cơ sở phân tích, lý luận để hiểu hết bản chất chúng của đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của nó. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học phải đảm bảo nêu lên được mối quan hệ của học sinh. Giáo viên. trường lớp. Cơ sở vật chất. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Thứ hai, trong hệ thống chỉ tiêu phải có những chỉ tiêu mang tính chất chung, có các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận của tổng thể và các chỉ tiêu phản ánh các nhân tố để phản ánh một cách đầy đủ tổng thể nghiên cứu. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học yêu cầu phải có những chỉ tiêu tổng hợp, sau đó là các chỉ tiêu kết cấu để mô tả đầy đủ nền giáo dục bậc tiểu học ở Việt Nam.
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2182 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giáo dục bậc tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở cho việc ra quyết định, kế hoạch, cải tiến chương trình giảng dạy…
- Các nước cũng như cộng đồng quốc tế đang tâm huyết với các mục tiêu phát triển quan trọng. Bao gồm các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, Mục tiêu Giáo dục cho mọi người… Để đánh giá đúng tiến độ và đo lường kết quả đạt được của các sáng mục tiêu đó, Thống kê yêu cầu phải có một số chỉ số giáo dục được thiết lập, đảm bảo so sánh quốc tế.
Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của hệ thống chỉ tiêu thống kê, cần phải có sự quan tâm đúng mức của mỗi cá nhân, gia đình và đặc biệt là của các cơ quan pháp luật và tuyên truyền của Nhà nước.
II.Những vấn đề chung của hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục và đào tạo
1.Khái niệm về hệ thống chỉ tiêu thống kê.
1.1.Khái niệm về chỉ tiêu thống kê.
Chỉ tiêu thống kê biểu hiện một cách tổng hợp đặc điểm về mặt lượng trong sự thống nhất với mặt chất của tổng thể trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Ví dụ: Sản lượng lúa Việt Nam, tổng diện tích gieo trồng, tổng chi phí sản xuất…
Trong bản thân mỗi chỉ tiêu thống kê có bao hàm mặt chất và mặt lượng của tổng thể. Mặt chất của chi tiêu chính là nội dung kinh tế, chính trị thể hiện một số đặc trưng cụ thể nào đó của hiện tượng nghiên cứu và không phụ thuộc vào một số lượng cụ thể hoặc đơn vị tính toán nào. Mặt lượng của chỉ tiêu thống kê là trị số cụ thể của chỉ tiêu thuộc về thời gian và không gian nhất định. Mỗi chỉ tiêu thống kê thường được biểu hiện bằng các chỉ số khác nhau, các trị số thay đổi tuỳ theo điều kiện thời gian và không gian cả theo phương pháp tính và đơn vị tính.
Chỉ tiêu thống kê thường mang tính chất tổng hợp biểu hiện đặc điểm của cả tổng thể nghiên cứu bao gồm nhiều đơn vị, nhiều hiện tượng. Đây cũng là căn cứ để phân biệt giữa chỉ tiêu thống kê và tiêu thức thống kê tuy nhiên do đối tượng nghiên cứu của thống kê thay đổi rất khác nhau, cho nên trong trường hợp này một đặc điểm nào đó được coi là chỉ tiêu và còn trường hợp khác cũng đặc điểm đó lại được coi là tiêu thức. Ví dụ: Số công nhân trong một xí nghiệp công nghiệp là một chỉ tiêu của xí nghiệp đó còn được nghiên cứu phân tích cùng với các chỉ tiêu khác như tổng sản lượng tổng chi phí nhưng số công nhân đó lại là tiêu thức của đơn vị tổng thể là các xí nghiệp công nghiệp được điều tra cùng với các tiêu thức khác cho một mục đích nào đó.
Việc xác định đúng đắn chỉ tiêu thống kê, nội dung và phương pháp tính mỗi chỉ tiêu là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Muốn giải quyết vấn đề này phải căn cứ vào lí luận kinh tế, chính trị và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kì cụ thể.
Các chỉ tiêu thống kê được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Người ta thường phân chia một cách quy ước các chỉ tiêu thống kê thành 2 nhóm: Nhóm chỉ tiêu khối lượng và nhóm chỉ tiêu chất lượng.
Chỉ tiêu khối lượng là chỉ tiêu nêu lên các đặc điểm chung về quy mô, khối lượng của tổng thể nghiên cứu. Chỉ tiêu chất lượng là chỉ tiêu nêu lên trình độ phổ biến, trình độ phát triển của hiện tượng. Việc phân thành 2 loại trên có tác dụng đối với một số phương pháp phân tích thống kê, nhưng chỉ có một tính chất quy ước và chỉ bao gồm một số chỉ tiêu kinh tế thường dùng nhất.
1.2.Khái niệm về hệ thống chỉ tiêu thống kê
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu có liên quan với nhau và bổ sung cho nhau; phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt ở tổng thể và mối liên hệ giữa tổng thể với các hiện tượng có liên quan.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải được xây đựng đảm bảo các yêu cầu sau đây: Thứ nhất, là hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phù hợp với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch tương ứng về các mặt: Số lượng chỉ tiêu cơ bản, tên gọi mỗi chỉ tiêu, nội dung và phương pháp tính toán. Hệ thống chỉ tiêu được xác định xây dựng phải có nhóm chỉ tiêu cơ bản đóng vai trò quan trọng trong hệ thống và có các nhóm chỉ tiêu phản ánh xu hướng biến động của hiện tượng. Có nhóm chỉ tiêu nhân tố phản ánh các nhân tố tác động đến hệ thống chỉ tiêu.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê được xây dựng phải đơn giản, hợp lí không nên bao gồm quá nhiều chỉ tiêu làm cho nội dung tổng hợp và phân tích trở nên phức tạp, tốn kém cho việc xây dựng thu thập số liệu và tính toán các chỉ tiêu đó. Hệ thống chỉ tiêu thống kê cũng không thể coi là cố định mà cần được luôn luôn cải tiến cho thích hợp với yêu cầu nghiên cứu mới và những vấn đề mới đang được đặt ra.
2. Những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học.
2.1.Những căn cứ trong việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê không có nghĩa đơn thuần là nêu ra những chỉ tiêu nào đó mà còn phải đảm bảo được là những chỉ tiêu đó có thể thu thập được thông tin để tính toán trị số của chúng. Như vậy phải có những căn cứ nhất định.
- Thứ nhất là căn cứ vào mục đích nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu nghiên cứu quyết định nhu cầu thông tin về những mặt nào đó của đối tượng nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của thống kê giáo dục bậc tiểu học là mô tả lại thực trạng của giáo dục bậc tiểu học Việt Nam. Phản ánh được cơ cấu, dự báo cho những kì sau.
- Thứ hai là căn cứ vào tính chất, đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Hiện tượng thuộc dạng ý thức thường phải dùng nhiều chỉ tiêu để biểu hiện hơn là hiện tượng thuộc dạng vật chất. Hiện tượng càng phức tạp thì số lượng chỉ tiêu càng nhiều và ngược lại. Đối với giáo dục bậc tiểu học do đặc điểm riêng biệt về chương trình, về học sinh, về giáo viên, về cơ sở vật chất như đã nêu ở trên nên cần hệ thống chỉ tiêu tổng hợp. Để mô tả một cách toàn diện nền giáo dục bậc tiểu học.
- Thứ ba là căn cứ vào khả năng nhân tài vật lực cho phép để có thể tiến hành thu thập tổng hợp được các chỉ tiêu trong sự tiết kiệm nghiêm ngặt. Các chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học phải đảm bảo tính khả thi. Đảm bảo thu thập được một cách khoa học, tổng hợp và hiệu quả nhất.
Từ những căn cứ này đòi hỏi người xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải cân nhắc kỹ lưỡng, xác định những chỉ tiêu cơ bản nhất, quan trọng nhất làm cho số lượng chỉ tiêu không nhiều mà vẫn đáp ứng được mục đích nghiên cứu.
2.2.Những yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học.
- Thứ nhất, một hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối quan hệ giữa các bộ phận cũng như giữa các mặt của đối tượng nghiên cứu và giữa đối tượng nghiên cứu với hiện tượng liên quan, trong khuôn khổ của việc đáp ứng mục đích nghiên cứu. Như vậy khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải dựa trên cơ sở phân tích, lý luận để hiểu hết bản chất chúng của đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của nó. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học phải đảm bảo nêu lên được mối quan hệ của học sinh. Giáo viên. trường lớp. Cơ sở vật chất. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Thứ hai, trong hệ thống chỉ tiêu phải có những chỉ tiêu mang tính chất chung, có các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận của tổng thể và các chỉ tiêu phản ánh các nhân tố để phản ánh một cách đầy đủ tổng thể nghiên cứu. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học yêu cầu phải có những chỉ tiêu tổng hợp, sau đó là các chỉ tiêu kết cấu để mô tả đầy đủ nền giáo dục bậc tiểu học ở Việt Nam.
Chương II
Hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu
thống kê giáo dục bậc tiểu học
I. Thực trạng hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học hiện nay
1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giáo dục bậc tiểu học hiện hành
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu giáo dục được thể hiện như sau:
hệ thống chỉ tiêu giáo dục
bậc tiểu học hiện hành
Nhóm chỉ tiêu về học sinh
Nhóm chỉ tiêu cơ sở vật chất
Nhóm chỉ tiêu về trường lớp
Nhóm chỉ tiêu về giáo viên, cán bộ công chức
1. Tổng số giáo viên, cán bộ công chức trong nhà trường
Tổng số giáo viên được phân tổ theo giới tính trình độ, chất lượng, công việc, quản lí.
2. Tổng số giáo viên, cán bộ công chức là người dân tộc:
1. Tổng diện tích khuôn viên nhà trường:
2. Tổng diện tích phòng học:
3. Tổng diện tích sàn phòng học:
4.Tổng số phòng học:
5.Phòng học được xây mới: Là số phòng học được xây dựng mới trong năm.
Phòng học được phân tổ theo chất lượng, mục đích sử dụng, mức độ sử dụng.
1. Tổng số học sinh:
Tổng số học sinh được phân tổ theo giới tính, lớp học, chất lượng.
2.Tổng số học sinh khuyết tật:
3. Số học sinh dân tộc
4. Số học sinh lớp ghép
5. Học sinh mới tuyển
6. Học sinh lưu ban
7. Tỷ lệ học sinh dân tộc:
8. Tỷ lệ vào học của học sinh học lớp 1
9. Tỷ lệ nhập học vào lớp1
10. Tỷ lệ nhập học độ tuổi 6 vào lớp 1
11. Tỷ lệ đi học của học sinh tiểu học
12. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh tiểu học
13. Tỷ lệ học sinh lưu ban
14. Tỷ lệ học sinh lên lớp
15. Tỷ lệ học sinh bỏ học:
16. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp:
17. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp so với số dự thi:
18.Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp so với học sinh lớp 5
19. Tỷ lệ học sinh học 2 buổi một ngày
1. Tổng số trường học.
2. Số trường học 1-2-3:
3. Tổng số điểm trường
4. Số trường dạy hai ca:
Trường học được phân tổ theo hình thức sở hữu ,theo vùng địa lí, chất lượng, theo mục đích sử dụng để từ đó nghiên cứu cơ cấu, chất lượng trường học.
Phân theo hình thức sở hữu, phân loại theo chất lượng, phân theo địa phương, vùng
5. Tổng số lớp học:
6. Số lớp ghép:
Lớp học phân được phân tổ theo từng lớp học (Lớp 1,2,3,4,5),theo thời gian học
Cụ thể như sau
A. Nhóm chỉ tiêu về trường lớp
Nhóm chỉ tiêu về trường: (Đơn vị: Trường)
1. Tổng số trường học.
2. Số trường học 1-2-3: Trường học 1-2-3 là trường học bao gồm cả 3 cấp. Tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông
3. Tổng số điểm trường: Điểm trường là một bộ phận chính của trường chính, ở điểm trường thường có một hoặc một số lớp học. Địa điểm thường cách xa trường chính ( vì lí do nào đó chưa đủ điều kiện thành một trường riêng). Một trường chính có thể có nhiều điểm trường. Điểm trường thường xuất hiện ở vùng
4. Số trường dạy hai ca: Trường dạy hai ca là trường đảm bảo ngày dạy hai buổi cho toàn thể học sinh của nhà trường,
Trường học được phân tổ theo hình thức sở hữu ,chất lượng, theo mục đích sử dụng để từ đó nghiên cứu cơ cấu.
Phân theo hình thức sở hữu trường học được chia thành trường công lập và trường ngoài công lập
5. Số trường công lập.
Trong đó trường công lập bao gồm cả trường Dân tộc nội trú, chuyên, năng khiếu.
6. Số trường ngoài công lập:
Trường ngoài công lập bao gồm: Trường bán công, trường dân lập, trường tư thục. Ta có các chỉ tiêu sau
7. Số trường bán công
8. Số trường dân lập
9. Số trường tư thục
Trường được phân theo địa phương, vùng ta có tổng số trường phân theo từng vùng, từng địa phương. Ta có
7.Tổng số trường phân theo địa phương, vùng.
Nhóm chỉ tiêu về lớp: (Đơn vị:Lớp)
8. Số lớp ghép: Lớp ghép là lớp học có 1 giáo viên cùng một lúc phải dạy 2 hoặc nhiều chương trình khác nhau cho một số học sinh cùng ngồi học trong một phòng học, lớp học ( tiêu thức này thường có ở các địa bàn vùng núi cao và vùng sâu)
B. Nhóm chỉ tiêu về học sinh
Các chỉ tiêu về số lượng học sinh: (Đơn vị tính: Người)
1. Tổng số học sinh:
2. Tổng số học sinh khuyết tật: Học sinh có khuyết điểm về thể chất và tinh thần học cùng với học sinh bình thường trong một trường học (Chung hoặc tổ chức một lớp học riêng)
3. Số học sinh dân tộc: Là học sinh trong nhà trường là con em các dân tộc trừ dân tộc Kinh.
4. Số học sinh lớp ghép: Học sinh trong các lớp ghép có nhiều trình độ.
Ví dụ lớp 1 và 2, lớp 3 và 4.
5. Học sinh mới tuyển: Học sinh bắt đầu vào học ở lớp đầu bậc học (lớp1) hoặc số học sinh mới chuyển đến hoặc số học sinh đã bỏ ở các lớp nay trở lại học tại trường.
6. Học sinh lưu ban: Học sinh sau một năm học, không đạt chất lượng ở lớp đang học phải học lại lớp đó trong năm tiếp theo.
Tổng số học sinh được phân tổ theo giới tính, lớp học, chất lượng. Ta có
Tổng số học sinh phân tổ theo giới tính
7. Tổng số học sinh phân theo giới tính.
Tổng số học sinh phân tổ theo lớp học
8. Tổng số học sinh phân theo lớp học. (Lớp 1,2,3,4,5)
Tổng số học sinh được phân tổ theo chất lượng ta có các chỉ tiêu sau.
13. Tổng số học sinh giỏi
14. Tổng số học sinh khá.
15. Tổng số học sinh trung bình.
Tổng số học sinh phân theo thời gian học ta có.
16. Số học sinh học 2 buổi một ngày: Là tổng số học sinh học hai buổi một ngày.
17. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp so với số dự thi: Là tỷ số giữa tổng số học sinh tốt nghiệp so với tổng số học sinh dự thi.
18. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp so với học sinh lớp 5: Là tỷ số giữa tổng số học sinh tốt nghiệp so với tổng số học sinh lớp 5 năm học đó.
19. Tỷ lệ học sinh học 2 buổi một ngày: Là tỷ số giữa tổng số học sinh học 2 buổi một ngàyso với tổng số học sinh.
C. Nhóm chỉ tiêu về giáo viên, cán bộ công chức.
Nhóm chỉ tiêu về số giáo viên, cán bộ công chức: (Đơn vị tính: người)
1. Tổng số giáo viên, cán bộ công chức trong nhà trường: Bao gồm toàn bộ cán bộ quản lí, giáo viên, công nhân viên phục vụ trong nhà trường.
2. Tổng số giáo viên, cán bộ công chức là người dân tộc: Giáo viên, cán bộ công chức người dân tộc là người thuộc các dân tộc trừ dân tộc Kinh.
Tổng số giáo viên được phân tổ theo giớ, chất lượng, công việc, quản lí. Ta có
Tổng số giáo viên phân theo công việc có
6. Số giáo viên trực tiếp giảng dạy: Là người hiện đang giảng dạy trong một trường học (còn gọi là giáo viên đứng lớp)
7. Cán bộ Đoàn, Đội: Người chuyên trách làm công tác Đoàn, công tác Đội trong nhà trường (trong đó không bao gồm giáo viên kiêm nhiệm công tác Đoàn, Đội)
8. Số nhân viên phòng thí nghiệm:
9, Số nhân viên thư viện.
10. Số nhân viên vệ sinh, bảo vệ.
11. Số cán bộ làm công tác quản lí, công nhân viên phục vụ khác trong nhà trường,
Phân theo quản lí nhà nước.
12. Giáo viên biên chế: Là giáo viên được chính thức sắp xếp dạy học trong các trường học (nằm trong quỹ lương ngân sách sự nghiệp)
13. Giáo viên hợp đồng: Giáo viên không được chính thức sắp xếp dạy học trong trường học mà nhà trường phải đi hợp đồng (thuê) thêm giáo viên thì mới có đủ giáo viên dạy cho các lớp.
Tổng số giáo viên phân theo giới tính
14. Giáo viên, cán bộ công chức phân theo giới tính:
D. Nhóm chỉ tiêu về cơ sở vật chất
Nhóm chỉ tiêu về diện tích (Đơn vị tính: m2)
1. Tổng diện tích khuôn viên nhà trường: Là tổng số diện tích đất trong phạm vi nhà trường quản lí và sử dụng. Ghi tổng số diện tích đất theo quyết định cấp đất của cấp có thẩm quyền.
2. Tổng diện tích phòng học: Là tổng số diện tích xây dựng của phòng học và các công trình phục vụ học tập như ( thư viện, thí nghiệm, TDTT )
3. Tổng diện tích sàn phòng học: Là diện tích sử dụng của mỗi phòng học.
Nhóm chỉ tiêu về phòng học.(Đơn vị tính: phòng)
4. Tổng số phòng học
5. Phòng học được xây mới: Là số phòng học được xây dựng mới trong năm.
Phòng học được phân tổ theo chất lượng, mục đích sử dụng, mức độ sử dụng. Ta có
Phân theo mức độ sử dụng
6. Số phòng học 3 ca: Phòng học 3 ca là phòng học được dùng cho 3 lớp học khác nhau trở lên học tập trong một ngày.
Phân theo chất lượng
7. Số phòng học kiên cố: Phòng học kiên cố là phòng học có niên hạn sử dụng tử 20 năm trở lên (Nhà xây dựng từ cấp III trở lên).
8. Số phòng học bán kiên cố: Phòng học bán kiên cố là phòng học có niên hạn sử dụng dưới 20 năm (Cấp IV).
Có thể xác định phòng học bán kiên cố như sau: Phòng học có tường xây bằng gạch (kể cả gạch đất không nung) hoặc ván. Kết cấu mái bằng gỗ loại trung bình, lợp bằng ngói, phi-brô xi măng. Nền nhà lát gạch hoặc láng xi măng; trần bằng nhựa, ván hoặc không có trần.
Phân theo mục đính sử dụng có
9. Số phòng học văn hoá: Là phòng học thông thường, có bảng và bàn, ghế cho giáo viên và học sinh.
10. Số phòng chức năng (bộ môn): Số phòng chức năng là phòng học máy tính, học ngoại ngữ, học nhạc, học vẽ.
11. Số phòng thư viện: Số phòng thư viện là phòng dành cho học sinh đến đọc và mượn sách của nhà trường.
12. Số phòng thí nghiệm: Số phòng thí nghiệm là phòng được dùng cho học sinh trong trường thực hành những bài tập thí nghiệm trong các bộ môn.
13. Số phòng tập thể dục thể thao: Số phòng tập thể dục thể thao là phòng được dùng cho học sinh trong trường tập thể dục thể thao
2. Nguồn thông tin để tổng hợp hệ thống chỉ tiêu giáo dục đào tạo hiện nay
2.1. Thực trạng thu thập nguồn số liệu hiện nay.
Thu thập số liệu Thống kê GD&ĐT
Báo cáo số liệu Thống kê GD&ĐT
Tổng cục Thống Kê
Cục Thống kê
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Sở Giáo dục và Đào tạo
Phòng Thống Kê
Phòng Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học
Trường THCN
Trương trực thuộc sở Giáo dục Đào tạo
Trường THCN trên địa tỉnh
Trường mầm non
Trường tiểu học
Trường Cao Đẳng
…
Trường trung học phổ thông
….
Trường THCS
Trường PTCS
…
Cấp tỉnh: Cục Thống kê tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo
Cấp huyện: Phòng Thống kê, Phòng Giáo dục và Đào tạo
Cấp trung ương: Bộ giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm thu thập (theo 45 biểu mẫu), xử lí tổng hợp, lưu trữ và phổ biến số liệu thống kê giáo dục và đào tạo của toàn ngành từ hơn 600 đầu mối thực hiện báo cáo thống kê cơ sở và thống kê tổng hợp đó là:
64 sở Giáo dục và Đào tạo.
265 Đại học, học viện, trường Đại học và Cao đẳng (kể cả trường Đại học thành viên, trường dự bị đại học, trường cán bộ Quản lý Giáo dục và đào tạo, trường thuộc khối an ninh, quốc phòng)
286 trường trung học chuyên nghiệp.
Cấp tỉnh: Sở giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm thu thập theo hệ thống biểu mẫu quy định, xử lí tổng hợp, lưu trữ và phổ biến số liệu thống kê giáo dục (từ mầm non, phổ thông các cấp, bổ túc văn hoá, các trường trung học chuyên nghiệp do trung ương và địa phương quản lí) của địa phương, từ các báo cáo thống kê tổng hợp của tất cả các Phòng Giáo dục, các trường trực thuộc Sở. Đồng thời thu thập, xử lí tổng hợp báo cáo thống kê của các trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh trên thành phố.
Đến thời hạn quy định, Sở gửi báo cáo thống kê tổng hợp về bộ theo 3 kì (đầu năm, giữa năm và cuối năm với mầm non, phổ thông) và báo cáo một kì ( đối với trung học chuyên nghiệp)
Cấp huyện: Phòng Giáo dục chịu trách nhiệm thu thập theo hệ thống biểu mẫu quy định, xử lí tổng hợp, lưu trữ và phổ biến số liệu thống kê giáo dục trên địa bàn huyện, từ các báo cáo thống kê cơ sở tất cả các trường từ mầm non và phổ thông. Đến thời hạn quy định, Phòng gửi báo cáo thống kê tổng hợp về Sở theo 3 kì (đầu năm, giữa năm và cuối năm)
Cấp trường:
Các đại học, học viện, trường đại học và cao đẳng chịu trách nhiệm thu thập các báo cáo thống kê của nhà trường. Đến thời hạn, các trường gửi báo cáo thống kê cơ sở về Bộ theo một kì báo cáo.
Các trường trung học chuyên nghiệp chịu trách nhiệm thu thập các báo cáo thống kê của nhà trường theo hệ thống biểu mẫu quy định. Đến thời hạn, các trường gửi báo cáo thống kê cơ sở về Sở và gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo theo một kì báo cáo (hai kênh báo cáo)
Các trường mầm non và phổ thông các cấp chịu trách nhiệm thu thập các báo cáo thống kê của nhà trường theo hệ thống biểu mẫu quy định. Đến thời hạn, các trường gửi báo cáo thống kê cơ sở về Phòng Giáo dục theo 3 kì báo cáo (đầu năm, giữa năm và cuối năm)
Ngoài ra còn có các cơ quan khác liên quan tới việc lập ra số liệu về giáo dục
Tổng cục Thống kê. Tổng cục có các phòng ban ở cấp tỉnh cũng như cấp huyện đảm nhận việc thu thập số liệu từ phòng giáo dục cùng cấp và báo cáo lên Tổng cục.
Không chỉ biên soạn số liệu thống kê quốc gia, tổng cục Thống kê cũng là cơ quan chủ đạo trong việc tiến hành khảo sát và điều tra. Đó là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra dân số quốc gia và khảo sát hộ gia đình. Một số cuộc khảo sát chứa những biến số về giáo dục và là nguồn số liệu giáo dục hữu ích để bổ sung các số liệu hành chính do các cơ quan phát triển và chính phủ đưa ra. Số liệu do các cuộc khảo sát thu thập được bao gồm thông tin không thể thu được thông qua các số liệu hành chính, ví dụ; Số liệu về tình trạng kinh tế-xã hội, về đặc điểm của số người thất học, về kết quả của giáo dục được đo bằng tỷ lệ biết chữ…
2.2. Phương pháp thu thập thông tin và xử lí số liệu thống kê.
Điều tra trường học thường xuyên là nguồn chính của các số liệu thống kê giáo dục. Đôi lúc các phòng ban hữu quan khác cũng thu thập số liệu từ trường học vì các mục đích khác nhau. Điều này gây ra sự thu thập trùng lặp số liệu giữa các phòng ban . Những số liệu thu được này được sử dụng chủ yếu cho mục đích lập kế hoạch nội bộ . Hầu hết báo cáo hàng năm của các phòng ban hữu quan và các văn phòng cấp tỉnh bao gồm các số liệu thống kê trong lĩnh vực của riêng mình. Dù vậy các báo cáo chỉ chứa các số liệu thống kê cơ bản và ít nói về việc phân tích và các chỉ số giáo dục khác . Một phân tích ngắn gọn về việc thu thập và lập ra số liệu thống kê giáo dục ở các cấp giáo dục khác nhau được trình bày ở các mục tiếp theo .
Để lập ra được số liệu thống kê của tỉnh hoặc của toàn quốc, số liệu thường xuất phát từ các cuộc điều tra trường học do Vụ Kế hoạch và Tài chính ở cấp trương ương thực hiện. Các cuộc điều tra này được thực hiện ba lần trong năm; tuy nhiên, các số liệu thu được thì khác nhau. Thông thường phạm vi của số liệu bao trùm cấp tiểu học
Các biểu mẫu thu thập số liệu được tạo ra và phân phát từ cấp trung ương. Thông thường là cấp trung ương gửi một bộ phiếu điều tra đến các huyện thông qua các phòng ban tỉnh và sau đó các phòn giáo dục huyện làm thành nhiều bộ để phân phát tới các trường. Trong các biểu mẫu có giải thích sẵn cách điền. Đôi khi, một buổi ngắn (nửa ngày) được dành để giải thích rõ những thay đổi và chỉnh sửa trong các phiếu điều tra.
ở cấp trường, thông thường các phiếu điều tra được hoàn tất bởi hiệu trưởng hoặc giáo viên được chỉ định. Trong một số trường hợp, cán bộ giáo dục huyện đến từng trường hoặc triệu tập các lãnh đạo trường đến một nơi và giúp họ điền các biểu mẫu theo yêu cầu. Đối với những trường lớn hơn như trường tiểu học lớn ở thành phố hoặc trường trung học, mỗi giáo viên cung cấp thông tin về lớp của mình và một cán bộ tổng hợp lại để hoàn tất biểu mẫu. Một khi các trường hoàn tất các biểu mẫu, bộ biểu mẫu ban đầu được trả lại cho phòng giáo dục huyện. Các phòng giáo dục huyện tổng kết thành bản tóm tắt của huyện từ các phiếu điều tra thu được. Trường giữ lại bản sao phiếu điều tra để tham khảo và sử dụng. Tuy nhiên, quy định này không được chấp hành nghiêm ngặt, một số trường nhất là ở nông thôn không giữ lại các phiếu điều tra. Theo quy định, các trường phải trả lại những phiếu điều tra này cho các cán bộ giáo dục huyện trong vòng hai tuần
Một khi các trường trả lại những phiếu điều tra đã điền cho các cán bộ giáo dục huyện, họ sẽ kiểm tra lại mức độ hoàn tất và tính chính xác của thông tin và sau đó tổng hợp để đưa ra tóm tắt của huyện theo định dạng Excel. Mặc dù các cán bộ giáo dục hữu quan của huyện có nhiệm vụ phải kiểm tra và xác thực các phiếu điều tra được trả lại , nhưng trong nhiều trường hợp không phải như vậy. Đó là nhân viên cấp huyện thiếu kinh nghiệm hoặc không đủ năng lực hoàn thành công việc được giao hoặc không đủ thời gian làm việc đó. Thêm vào đó, quy trình xác thực số liệu không hệ thống và cấp huyện không được chỉ đạo nguyên tắc cũng như chỉ dẫn. Một quan niệm sai sửa nữa là nếu phiếu điều tra được lãnh đạo trường ký có dấu chính thức, điều đó hàm ý là bản chính thức và mọi người chỉ việc chấp nhận không cần kiểm tra độ chính xác và độ tin cậy của số liệu. Có thể có cách chuyển số liệu bằng con đường điện tử, tuy nhiên vì yêu cầu phải có chữ ký chính thức nên nhiều người vẫn dùng cách truyền thống là gửi phiếu điều tra được in ra giấy.
Các số liệu tóm tắt của huyện được chuyển tới các ban phòng giáo dục tỉnh. Tại các phòng ban này, số liệu được tóm tắt thành số liệu của cấp tỉnh và gửi lên trung ương. ở cấp quốc gia, các số liệu của tỉnh tổng hợp thành cơ sở dữ liệu quốc gia và làm thành ấn phẩm hàng năm về số liệu thống kê giáo dục quốc gia (niên giám). Niêm giám hàng năm bao gồm các số liệu tổng hợp về giáo dục (tóm tắt của các tỉnh được phân nhóm theo khu vực ) cho tới cấp trung học. Mặc dù những ấn phẩm này nhằm sử dụng cho việc lập kế hoạch năm học tiếp theo, đôi khi mục tiêu không đạt được do nhiều nguyên nhân khác nhau; một số nguyên nhân chính là-số liệu từ một số huyện không đến theo lịch trình, chậm trễ hoặc thiếu vốn xuất bản, các cơ quan hữu trách cấp cao hơn chậm trễ cho phép đăng số liệu. Trung bình, phải mất 3 đến 4 tháng các số liệu mới đến được cấp trung ương để tổng kết .
Như đã nêu trước đây, nguồn chính cho số liệu thống kê giáo dục đặc biệt là các số liệu liên quan đến dân số cũng như khảo sát là Tổng cụ Thống kê. Cơ quan này soạn thảo số liệu từ các nguồn phụ khác và thông tin thu được có trong niên giám thống kê hàng năm và các ấn phẩm khác do Tổng cục Thông kê xuất bản
Sau đây là liệt kê danh sách các biểu mẫu được gửi tới các loại trường học khác nhau để thu thập thông tin và hạn định phải gửi lại cho các đơn vị có trách nhiệm cao hơn sau khi đã điền đầy đủ thông tin.
Mã mẫu biểu
Mô tả
Kì báo cáo
Hạn định Số liệu báo cáo tới
Huyện
Tỉnh
Vụ KH&TC Bộ GD&ĐT
5C1Đ
Mẫu biểu thu thập số liệu cho các trường tiểu học.
Đầu năm
20/09
01/10
10/10
6C1G
Mẫu biểu thu thập số liệu cho các trường tiểu học.
Giữa năm
10/01
20/01
30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giáo dục bậc tiểu học.DOC