Luận văn Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản của phụ nữ xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội

MỤC LỤC

Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii

TÓM TẮT LUẬN VĂN iii

MỤC LỤC v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU viii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ iix

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT x

PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3

1.2.1 Mục tiêu chung 3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3

1.3 Đối tượng nghiên cứu 3

1.4 Phạm vi nghiên cứu 3

1.4.1 Phạm vi về nội dung 3

1.4.2 Phạm vi không gian 4

1.4.3 Phạm vi về thời gian 4

PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN 5

2.1.1 Thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản 5

2.1.2 Một số lý luận về giới 7

2.1.3 Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường trong sản xuất, tiêu thụ nông sản cho phụ nữ nông thôn 9

2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ nông thôn 13

2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN 16

2.2.1 Thực tiễn và kinh nghiệm của các nước về nâng cao năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ nông thôn 16

2.2.2 Thực tiễn và kinh nghiệm của nước ta về nâng cao năng lực tiếp cận thị trường tiêu thụ nông sản của phụ nữ nông thôn 18

PHẦN 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22

3.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 22

3.1.1 Điều kiện tự nhiên, dân số xã hội 22

3.1.2 Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của địa phương 32

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35

3.2.1 Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu 35

3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 35

3.2.3 Phương pháp xử lý thông tin 36

3.2.4 Phương pháp phân tích thông tin 36

3.2.5 Hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong đề tài 37

PHẦN 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 39

4.1 KIẾN THỨC KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ ỨNG XỬ CỦA PHỤ NỮ XÃ ĐÔNG DƯ 39

4.1.1 Kiến thức và ứng xử trong quyết định cơ cấu sản xuất 39

4.1.1.1 Kiến thức của phụ nữ 39

4.1.1.2 Thực tế ứng xử 41

4.1.2 Kiến thức về ứng xử trong quyết định lựa chọn các yếu tố đầu vào 42

4.1.3 Kiến thức về ứng xử trong tiêu thụ sản phẩm 44

4.1.4 Kiến thức hạch toán kinh tế 46

4.2 THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG THAM GIA THỊ TRƯỜNG ĐẦU VÀO VÀ ĐẦU RA CHO NÔNG SẢN CỦA PHỤ NỮ XÃ ĐÔNG DƯ, HUYỆN GIA LÂM, HÀ NỘI 47

4.2.1 Thông tin chung về nhóm phụ nữ được điều tra 47

4.2.2 Mức độ sản xuất hàng hoá của hộ 48

4.2.3 Mức độ nắm bắt thông tin thị trường của phụ nữ 50

4.2.4 Thực trạng tham gia thị trường đầu vào của phụ nữ xã Đông Dư 54

4.2.5 Thực trạng tham gia thị trường tiêu thụ nông sản của phụ nữ xã Đông Dư 58

4.2.6 Thực trạng tham gia hạch toán kinh tế của phụ nữ xã Đông Dư 63

4.3 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NÔNG SẢN CỦA PHỤ NỮ XÃ ĐÔNG DƯ, HUYỆN GIA LÂM, HÀ NỘI 64

4.3.1 Các yếu tố của bản thân 64

4.3.1.1 Trình độ học vấn của phụ nữ 64

4.3.1.2 Công nghệ, kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất 66

4.3.1.3 Nguồn lực và quyền tiếp cận các nguồn lực đất đai, tài chính, phương tiện đi lại vận chuyển 66

4.3.1.4 Đặc điểm hộ gia đình 68

4.3.1.5 Sức khoẻ 69

4.3.2 Các yếu tố bên ngoài tác động 69

PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71

5.1 KẾT LUẬN 71

5.2 KIẾN NGHỊ 72

 

 

 

doc95 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản của phụ nữ xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tâm phát thanh thuộc uỷ ban nhân dân xã, tại các xóm đều có loa truyền thanh để thường xuyên cung cấp thông tin về văn hoá, xã hội, kinh tế, nhất là các thông báo về hoạt động sản xuất nông nghiệp. Các công trình phúc lợi khác của xã tương đối đầy đủ phục vụ nhu cầu đời sống văn hoá của người dân. Các lĩnh vực như y tế, giáo dục luôn được chính quyền các cấp quan tâm, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho giáo dục. Nhà mẫu giáo, nhà thể chất... đang được nâng cấp dây dựng tiếp tục trong năm 2009. Số liệu về cơ sở hạ tầng của xã Đông Dư qua 3 năm 2006- 2008 không có sự thay đổi và được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3.3: Cơ sở hạ tầng của xã Đông Dư năm 2008 Diễn giải ĐVT Số lượng I. Giao thông - Đường tỉnh lộ Km 2,8 - Đường liên xã Km 3,5 - Đường thôn bản, ra khu sản xuất Km 12 - Đường thuỷ Km 2,8 II. Công trình thuỷ lợi 1. Trạm bơm tưới trạm 1 2. Kênh mương cứng m 700 3. Kênh mương chưa cứng m 2900 4. Đê chống lũ km 2,8 III. Công trình điện 1. Trạm biến thế trạm 4 2. Số đường dây cao và hạ thế m 7400 IV. Công trình phúc lợi 1. Trường cấp I Phòng 16 2. Trường cấp II Phòng 12 3. Nhà trẻ mẫu giáo Phòng 10 4. Trạm y tế Cái 1 6. Bưu điện Cái 1 7. Đài phát thanh Cái 1 8. Tượng đài tưởng niệm Cái 1 V. Một số chỉ tiêu 1. Tỷ lệ hộ dùng điện % 100 2. Tỷ lệ hộ có nhà kiên cố % 100 Nguồn: Ban thống kê xã Đông Dư 3.1.2 Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của địa phương Là một xã những năm gần đây có những cải thiện rất đáng kể trong đời sống của người dân. Năm 2008 thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 622.000đồng/ người/tháng tương đương 7.470.000 đồng/người/năm là mức thu nhập tương đối cao. Tỷ lệ hộ giàu là 38%, hộ nghèo giảm 1,51% so với năm 2007 từ 21 hộ xuống còn 18 hộ. Con số tỷ lệ hộ nghèo này là thấp cho thấy mức sống của người dân xã Đông Dư ngày càng được cải thiện. Với thế mạnh phát triển cây rau và một số cây ăn quả nên kinh tế xã Đông Dư chủ yếu sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo đóng góp tới 52,90% giá trị sản xuất. Tuy nhiên cơ cấu của ngành này những năm qua đã có xu hướng giảm. Bên cạnh đó những năm gần đây thì tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ cũng có những bước tăng trưởng đáng kể. Qua bảng số liệu dưới đây có thể thấy: Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp qua 3 năm 2006 – 2008 đều tăng, đóng góp của ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo cho nền kinh tế xã. Trong đó đóng góp chủ yếu là ngành trồng trọt với 72,92%, ngành chăn nuôi và thuỷ sản những năm qua liên tục tăng về giá trị sản xuất tuy nhiên chỉ chiếm tỷ trọng 27,08% ngành nông nghiệp và 15% tổng giá trị sản xuất năm 2008. Cho thấy trong nông nghiệp ngành có vai trò chủ đạo được quan tâm nhất là ngành trồng trọt. Nông nghiệp xã đã phát huy vai trò hiệu quả của đất đai vùng Đồng Bằng sông Hồng. Bên cạnh đó ngành thuỷ sản cũng có xu hướng được quan tâm sử dụng hiệu quả diện tích mặt nước của địa phương. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đang có xu hướng giảm từ 54,57% năm 2006 xuống còn 52,90% năm 2008 tuy nhiên đóng góp của nó với tổng giá trị sản xuất lại tăng. Tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp thấp hơn tốc độ tăng cảu các ngành khác. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Những năm gần đây có sự phát triển khá nổi bật thúc đẩy phát triển kinh tế của xã. Các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, gò hàn... tạo việc làm cho nhiều lao động trong xã. Trong đó sự thu hút lao động phần lớn lao động nam, lao động trẻ, lao động trong thời gian nông nhàn. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là ngành luôn tăng về giá trị sản xuất, và tố độ tăng của ngành này khá cao, bình quân 3 năm từ 2006 đến 2008 tăng 10,97%. Tuy nhiên ngành này chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế với 24,01% gần tương đương với đóng góp của ngành thwong mại và dịch vụ. Do đó cần quan tâm hơn nữa để thúc đẩy ngành công nghiệp và xây dựng mang lại thu nhập và tạo việc làm cho dân cư. Thương mại và dịch vụ: Các dịch vụ phát triển đáp ứng nhu cầu của người dân ngày càng cao. Nhiều của hàng thương mại dịch vụ đã đóng góp vào thu nhập của xã, ngày càng có tốc độ tăng trưởng mạnh, là ngành có tốc độ tăng cao nhất so với các ngành khác, từ năm 2007 đến 2008 tăng với 16,04 %; trung bình qua 3 năm tăng 12,35%. Tuy nhiên ngành này chỉ đứng thứ 3 sau công nghiệp xây dựng về đóng góp cho giá trị sản xuất của Đông Dư. Phát triển mạnh mẽ nhất về thương mại dịch vụ, đóng góp lớn cho ngân sách của xã là HTX thương mại và dịch vụ nông nghiệp xã Đông Dư. Các nghề trong thương mại dịch vụ của xã bao gồm buôn bán vật liệu xây dựng, buôn bán nhỏ, buôn bán nông sản, bên cạnh đó có dịch vụ như dịch vụ xe du lịch... Thể hiện những năm qua kinh tế xã đã tận dụng những thế mạnh của mình để phát triển ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nhân dân và tăng thu nhập. Tốc độ tăng cao của ngành thể hiện xu thế phát triển ngày càng cao của thương mại dịch vụ, đặc biệt với những thuận lợi của địa phưưong về vị trí địa lý cần phát huy hơn nữa để tăng đóng góp trong tổng giá trị sản xuất của xã. Có thể thấy 3 ngành trên đã đóng góp rất lớn vào giá trị kinh tế của địa phương và luôn có tốc độ tăng trưởng ổn định. Ngành nông nghiệp trong những năm quan luôn là một ngành được địa phương quan tâm với đóng góp chủ yếu vào kinh tế của xã. Các chỉ tiêu bình quân như giá trị sản xuất/hộ, giá trị sản xuất/nhân khẩu, giá trị sản xuất/lao động luôn tăng trong 3 năm. Tuy nhiên các giá trị bình quân trên đối với ngành nông nghiệp thấp hơn bình quân chung của các ngành, điều này phản ánh số hộ, lao động, nhân khẩu nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao trong, nên một phần tác động đến các giá trị bình quân. Ngành nông nghiệp là một ngành đóng góp lớn nhưng nếu phát triển tốt các ngành thương mại dịch vụ và công nghiệp với tốc đô tăng truởng cao hơn sẽ tạo ra thay đổi rất lớn cho kinh tế của xã. Bảng 3.4: Tình hình phát triển kinh tế của xã qua 3 năm 2006 - 2008 Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tốc độ phát triển (%) SL (trđ) CC(%) SL (trđ) CC(%) SL (trđ) CC(%) 07/06 08/07 BQ I. Tổng giá trị sản xuất 26196,36 100,00 28609,38 100,00 31990,00 100,00 109,21 111,82 110,51 1. Nông nghiệp 14295,00 54,57 15328,00 53,58 16922,46 52,90 107,23 110,40 108,81 - Trồng trọt 10428,20 72,95 11161,85 72,82 12339,86 72,92 107,04 110,55 108,79 - Chăn nuôi và thủy sản 3866,80 27,05 4166,15 27,18 4582,60 27,08 107,74 110,00 108,87 2. Công nghiệp xây dựng 6237,82 23,81 6916,38 24,18 7681,38 24,01 110,88 111,06 110,97 3. Thương mại &dịch vụ 5663,54 21,62 6365,00 22,25 7386,16 23,09 112,39 116,04 114,21 II. Một số chỉ tiêu 1. GTSX/hộ 25,12 - 25,54 - 26,97 - 101,70 105,59 103,65 2. GTSX/khẩu 6,52 - 6,86 - 7,47 - 105,21 108,87 107,04 3. GTSX/lao động 14,79 - 15,36 - 16,25 - 103,87 105,74 104,81 4. GTSXNN/Hộ NN 16,41 - 16,43 - 17,45 - 100,10 106,19 103,15 5. GTSXNN/NK NN 4,30 - 4,46 - 4,85 - 103,88 108,60 106,24 6. GTSXNN/lao động NN 9,40 - 9,73 - 10,39 - 103,48 106,81 105,14 Nguồn: Ban thống kê xã Đông Dư 3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong đề tài này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: 3.2.1 Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu Lấy mẫu 30 hộ thuộc xã để điều tra thu thập thông tin. Các hộ điều tra bao gồm hộ có nam giới là chủ hộ, hộ có nữ giới làm chủ hộ, hộ khá, trung bình và hộ nghèo. 3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin Thu thập thông tin thứ cấp Thông tin thứ cấp được thu thập từ: Các tạp chí như tạp chí Khoa học kĩ thuật nông nghiệp, tạp chí phụ nữ, nông thôn ngày nay…Các thông tin được tìm hiểu qua các bài viết, luận văn tốt nghiệp đại học. Các trang Web liên quan đến vấn đề giới, vấn đề sản xuất và tiêu thụ nông sản của nông dân. Ngoài ra thông tin và tài liệu quan trọng liên quan đến địa phương được lấy từ các phòng ban của xã, các báo cáo liên quan đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương… Thu thập thông tin sơ cấp Để có được những thông tin cụ thể chúng tôi tiến hành điều tra qua các bước: Xây dựng phiếu điều tra, bảng hỏi có nội dung về vấn đề tham gia thị trường sản xuất và tiêu thụ nông sản. Các câu hỏi liên quan tới kiến thức cơ bản của họ về kinh tế thị trường và mức độ tham gia vào thị trường của phụ nữ đồng thời tìm hiểu về thực trạng nhu cầu của họ với việc được nâng cao năng lực tiếp cận thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản tại địa phương. Sau đó tiến hành điều tra phỏng vấn trực tiếp, đối tượng hỏi là phụ nữ nông dân. Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn bao gồm các nội dung về kiến thức của phụ nữ về ứng xử trong quyết định cơ cấu sản xuất trước biến động của thị trường; kiến thức về lựa chọn các yếu tố đầu vào, ứng xử trong thị trường tiêu thụ, kiến thức về hạch toán kinh tế và những ứng xử của họ. Các câu hỏi có nội dung phản ánh mức độ tham gia của họ trong các hoạt động tiếp cận thông tin thị trường, tham gia thị trường đầu vào, đầu ra và hạch toán kết quả sản xuất. 3.2.3 Phương pháp xử lý thông tin Các số liệu được thu thập, tổng hợp và điều tra được phân loại thành từng nhóm và được tính toán bằng tay, bằng máy tính hoặc bằng Excel. 3.2.4 Phương pháp phân tích thông tin * Phương pháp thống kê mô tả Dựa vào những số liệu thu thập được để mô tả, đánh giá thực trạng. Với các số liệu tương đối, tuyệt đối, bình quân để phân tích tình hình, tốc độ tăng trưởng của các vấn đề như dân số, lao động, đất đai... Các con số sẽ phản ánh thực trạng và mức độ của hiện tượng. So sánh các chỉ tiêu giữa các năm phản ánh trong điều kiện kinh tế xã hội của xã nghiên cứu. So sánh các chỉ tiêu của đề tài để thấy sự khác biệt giữa nam và nữ giới, giữa những nhóm phụ nữ cùng sản xuất nông sản nhưng có những điều kiện khác nhau để thấy được năng lực tiếp cận, mức độ tham gia thị trường của họ. * Phương pháp phân tổ thống kê Để phân tích được những tình hình, mức độ tiếp cận thị trường của phụ nữ cũng như kiến thức hiểu biết của họ cần có sự phân tổ các nhóm phụ nữ để đi sâu tìm ra sự khác nhau giữa các đối tượng phụ nữ khác nhau. Do đó các hộ điều tra được phân loại theo các tiêu thức như loại hộ: nghèo, trung bình, giàu; theo chỉ tiêu về trình độ học vấn phân ra phụ nữ trình độ cấp I, II, III. Theo tiêu thức chủ hộ có các hộ có phụ nữ, nam giới làm chủ hộ; tiêu thức lĩnh vực sản xuất chia thành hộ kiêm và hộ thuần nông để tiến hành phân tích sự giống và khác nhau của phụ nữ về năng lực cũng như thực trạng tiếp cận thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản của họ. 3.2.5 Hệ thống chỉ tiêu sử dụng trong đề tài Các chỉ tiêu sử dụng trong đề tài bao gồm các chỉ tiêu thể hiện cơ cấu, mức độ bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, các chỉ tiêu về mức độ tham gia thị trường so sánh giữa nam và nữ, giữa các phụ nữ trong các loại hộ khác nhau. * Các chỉ tiêu về cơ cấu, đóng góp của phụ nữ trong xã hội - Tỷ lệ nữ trong tổng dân số Tỷ lệ nữ trong tổng dân số = Tổng số nữ Tổng dân số - Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động = Tổng số lao động nữ Tổng lao động - Chỉ tiêu về trình độ học vấn của phụ nữ Tỷ lệ phụ nữ có trình độ cấp I, II, III trong tổng số phụ nữ * Chỉ tiêu phản ánh vai trò của phụ nữ trong kinh tế hộ - Tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ: Tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ = Số phụ nữ làm chủ hộ Tổng số phụ nữ * Các chỉ tiêu đo lường năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ - Tỷ lệ phụ nữ có quyền quyết định khi tham gia vào thị trường sản xuất và tiêu thụ nông sản (trong một hoạt động cụ thể). - Tỷ lệ phụ nữ tham gia các lớp tập huấn, tỷ lệ số lớp tập huấn mà phụ nữ tham gia so với nam giới. - Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức nhất định về kinh tế thị trường. - Tỷ lệ phụ nữ có những ứng xử đúng trong điều kiện của mình để tham gia thị trường đầu vào, đầu ra của nông sản. - Tỷ lệ phụ nữ có nhu cầu tìm hiểu về kiến thức tập huấn nâng cao năng lực tiếp cận thị trường trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cùng với những chỉ tiêu trên có sự phân loại các nhóm phụ nữ có điều kiện khác nhau khi tham gia thị trường. Do đó có các chỉ tiêu về kiến thức, mức độ tham gia của từng nhóm đối tượng phụ nữ. Như tỷ lệ phụ nữ thuộc hộ nghèo tiếp cận tốt thông tin thị trường. PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1 KIẾN THỨC KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ ỨNG XỬ CỦA PHỤ NỮ XÃ ĐÔNG DƯ Trong sản xuất nông sản hàng hoá những kiến thức kinh tế thị trường rất quan trọng đối với người sản xuất đặc biệt là những người phụ nữ đang hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Để có những ứng xử trong thị trường thì họ phải có những kiến thức nhất định. Kiến thức về kinh tế thị trường của phụ nữ xã Đông Dư được phân tích qua bốn khía cạnh: - Kiến thức về ứng xử trong quyết định cơ cấu sản xuất - Kiến thức về ứng xử trong quyết định lựa chọn các yếu tố đầu vào - Kiến thức về ứng xử trong tiêu thụ sản phẩm - Kiến thức về hạch toán kinh tế Từ đó phân tích những ứng xử của họ so với kiến thức vốn có về kinh tế thị trường. 4.1.1 Kiến thức và ứng xử trong quyết định cơ cấu sản xuất 4.1.1.1 Kiến thức của phụ nữ Ứng xử của phụ nữ trong quyết định cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp khi có tác động của các yếu tố trong thị trường đầu vào và đầu ra được thể hiện một phần trong kiến thức của họ về những ứng xử của người sản xuất trong cơ cấu sản xuất sao cho phù hợp. Những kiến thức như tác động của giá đầu vào tới cung cầu, từ đó dẫn tới các quyết định của hộ trong bố trí cơ cấu sản xuất. Hay khi cầu tăng thì giá bán nông sản cũng sẽ tăng. Tỷ lệ ý kiến của phụ nữ về một số kiến thức trong kinh tế thị trường tương ứng với một vài tình huống cụ thể được thể hiện ở bảng sau: Bảng 4.1: Phân tích một số kiến thức của phụ nữ xã Đông Dư về kinh tế thị trường Một số nội dung kiến thức SL Tỷ lệ 1. Thay đổi của giá khi cung giảm Giảm 1 3,33 Tăng 28 93,34 Giữ nguyên 1 3,33 2. Tác động của cầu tăng đến giá Giảm 0 0,00 Tăng 25 83,33 Giữ nguyên 5 16,67 3. Giá rau đầu 2009 quá thấp do Cung quá nhiều 18 60,00 Thời tiết tốt 3 10,00 Không rõ 0 0,00 Cầu giảm mạnh 0 0,00 Cung nhiều và thời tiết thuận lợi 9 30,00 Số liệu điều tra 2009 Kiến thức về kinh tế thị trường nguyên lý kinh tế thị trường: Các quy luật cầu, cung được phụ nữ nắm với mức độ khác nhau. Tỷ lệ phụ nữ trả lời đúng các câu hỏi về cung cầu chiếm tỷ lệ cao, 98,34% phụ nữ hiểu về quy luật cung, 83,33% phụ nữ trả lời đúng về quy luật cầu. Cho thấy tỷ lệ phụ nữ trả lời đúng các tác động cơ bản của giá cả cung cầu là khá cao. Khi giá đầu vào giảm hoặc giá đầu ra tăng sẽ làm cho người sản xuất có xu hướng tăng diện tích, quy mô sản xuất và ngược lại. Vụ rau đầu xuân 2009, Đông Dư là một xã cung cấp ra thị trường với khối lượng rau lớn theo sự trợ cấp giống của nhà nước nhưng giá rau lại rất thấp. Số lượng người sản xuất quá đông và sản xuất với số lượng lớn là nguyên nhân dẫn tới lượng rau dư thừa. Khi được hỏi đã có tới 90% phụ nữ biết được lý do chủ yếu. Không có phụ nữ nào không có câu trả lời. Trong sản xuất nông nghiệp phụ nữ Đông Dư đã xác định được tại sao giá nông sản của mình lại hạ rất thấp, đó là do lượng cung quá nhiều. Khi giá ổi tăng cao hầu như phụ nữ đều muốn tăng diện tích gieo trồng. Họ nhận định được rằng giá của nông sản trong từng vụ có thể tăng hoặc giảm nhưng về lâu dài, giá các nông sản của họ như ổi, rau có xu hướng tăng vì vậy nếu điều kiện cho phép thì họ rất muốn tăng diện tích gieo trồng. Tuy nhiên trong điều kiện sản xuất của hộ, họ chịu tác động của nhiều yếu tố mà cách ứng xử của họ hoàn toàn có thể khác đi do sự giới hạn nguồn lực... Trong thay đổi cơ cấu sản xuất thì người phụ nữ phải xác định đối tượng thay đổi. 100% Phụ nữ được hỏi nếu có điều kiện thay đổi cơ cấu sản xuất họ sẽ tăng diện tích trồng ổi và các loại rau chất lượng cao. Vì nhu cầu của thị trường ngày càng cao với các mặt hàng này, và giá cả có xu hướng tăng. Cso thể thấy kiến thức của phụ nữ đã được nâng cao, họ xác định được nhu cầu của thị trường với các mặt hàng nông sản của họ và kiến thức trong quyết định cơ cấu gieo trồng khá tốt. Tuy nhiên trong ứng xử của người nông dân còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khách quan do đó mà ứng xử của họ sai khác đi với những kiến thức vốn có. 4.1.1.2 Thực tế ứng xử Kết quả điều tra phản ánh dù cho có sự biến động của đầu vào như giá vật tư nông nghiệp có thể tăng cao, sự biến động của giá nông sản như giá rau của nông dân bán ra quá thấp... thì quyết định của phụ nữ vẫn là giữ nguyên diện tích gieo trồng, chiếm tỷ lệ rất cao 93,33%. Chỉ có 2 ý kiến chiếm 6,67% là sẽ thay đổi diện tích gieo trồng và đều là giảm diện tích trồng lúa sang diện tích trồng ổi. Cho thấy trong sản xuất nông nghiệp của xã, sản xuất lương thực chỉ để đáp ứng nhu cầu tự cung, tự cấp. Sản xuất rau, cây ăn quả để tiêu thụ là chính. Phụ nữ xác định dù cho phân bón, giống cây trồng hay vật tư đầu vào giá thay đổi cũng không thay đổi cơ cấu sản xuất, nếu thay đổi diện tích cũng là vì xác định lâu dài cây ổi sẽ cho năng thu nhập cao hơn các cây khác trong tương lai. Vậy trong điều kiện nguồn lực có hạn của họ, cách ứng xử giữ nguyên cơ cấu diện tích gieo trồng là hoàn toàn phù hợp. Hộp: Lý do phụ nữ không thay đổi cơ cấu cây trồng khi giá cả biến động - Giá rau năm nay quá thấp, nhà bác sản xuất thua lỗ, năm sau bác có định giảm diện tích trồng rau không ạ? hoặc giá đầu vào năm nay giảm bác có định tăng diện tích một loại cây trồng nào đó không? - Không, tôi không thay đổi diện tích cây trồng nào cả vì diện tích chỉ thế thôi, năm nao cũng cố định cả rồi. Năm nay lỗ, hay lãi chắc cũng không sao vì chẳng biết chắc được giá năm sau sẽ như thế nào. Lãi thì tốt mà lỗ thì phải chịu thôi. Chị Lê Thị Thương, xóm 9, xã Đông Dư Có thể thấy giá cả thị trường của các đầu vào và giá nông sản đầu ra ít tác động tới quyết định của phụ nữ trong thay đổi cơ cấu cây trồng. Điều này được giải thích do tâm lý của người nông dân không muốn gặp nhiều rủi ro trong sản xuất, sử dụng lao động và vốn của nhà là chủ yếu. Nhận thức của một số phụ nữ khá tốt lý giải rằng nếu tăng nhanh diện tích nào đó, ai cũng tập trung đầu tư vào một loại cây trồng nào đó thì sang năm chắc chắn giá sẽ giảm, người nông dân càng thua lỗ hơn. Họ cũng đã nhận thức được quy luật của sản xuất nông nghiệp “được mùa mất giá”. 4.1.2 Kiến thức về ứng xử trong quyết định lựa chọn các yếu tố đầu vào Khi được hỏi về việc lựa chọn đầu vào 100% phụ nữ cho rằng quan trọng nhất đối với phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống mới là chất lượng. Nhu cầu của người nông dân đối với các vật tư đầu vào, giống mới đã đạt chất lượng lên hàng đầu, giá cả của đầu vào được xác định là yếu tố có tầm quan trọng sau chất lượng kể cả phụ nữ có điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó cho thấy phụ nữ đã quan tâm tới chất lượng của sản phẩm đầu vào để có đầu ra tốt nhất cho người tiêu dùng. Tuy nhiên làm thế nào để phụ nữ xác định được đâu là sản phẩm đầu vào có chất lượng tốt để lựa chọn. Các câu hỏi về cách thức lựa chọn vật tư đầu vào của phụ nữ xã Đông Dư đã cho thấy tỷ lệ phụ nữ có kiến thức rõ về các loại phân bón, bảo vệ thực vật, giống mới là thấp. Tỷ lệ phụ nữ khi mua đầu vào và lựa chọn theo kiến thức mình đã có chiếm 10%, trong khi đó số lượng phụ nữ lựa chọn đầu vào qua lời giới thiệu tư vấn của người bán hàng chiếm tỷ lệ cao 56,67%. Tỷ lệ phụ nữ lựa chọn đầu vào theo số đông cũng cao 33,33% là những người thấy nhiều người mua một loại vật tư nào đó thì mua theo. Điều này cho thấy sự bị động của phụ nữ về kiến thức lựa chọn các yếu tố đầu vào. Nếu tham gia vào thị trường mà luôn bị tác động bởi bên ngoài, không có kiến thức nhất định thì phụ nữ dễ bị thiệt thòi. Bảng 4.2 Lựa chọn của phụ nữ khi mua phân bón cho cây trồng Loại vật tư Tỷ lệ hộ sử dụng (%) Đối tượng Lý do sử dụng Phân đơn 56,67 - Hộ nghèo - Trung bình - Thuần nông - Giá rẻ - Tự mình kết hợp tốt hơn - Biết phân tổng hợp tốt hơn nhưng không có tiền mua Phân bón tổng hợp 13,33 - Hộ giàu - Một số hộ trung bình - Tốt hơn các loại phân đơn - Năng suất cao hơn - Thuận tiện. Không phải mất công đập và pha trộn, vận chuyển nhẹ hơn Cả hai 30,00 - Chủ yếu các hộ trung bình, hộ giàu - Hộ kiêm - Sử dụng phân tổng hợp để bón lót cho cây trồng. Khi đến giai đoạn nào đó cây trồng cần một loại phân nào đó nhiều hơn thì sử dụng phân đơn. Trong các hộ sử dụng phân đơn chiếm tới 59 % số hộ (10 hộ) cho rằng phân bón đơn tốt hơn nhiều so với phân bón tổng hợp, còn lại các hộ khác cho rằng vì giá rẻ nên mua. Cho thấy chỉ có 41 % số phụ nữ biết được hiệu quả của việc kết hợp phân tổng hợp, tuy nhiên do điều kiện nguồn lực có hạn mà ứng xử của họ khác đi, vì muồn giảm chi phí đầu vào mà sử dụng phân đơn. Số hộ chỉ sử dụng phân bón tổng hợp chiếm tỷ lệ thấp hơn, 13,33%. Đây là các hộ chủ yếu là hộ giàu, hoạt động nhiều trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ nên không có thời gian sử dụng phân đơn trong các giai đoạn cây trồng cần. Tuy nhiên họ cũng xác định sử dụng kết hợp cả hai loại phân sẽ tốt hơn. Số hộ sử dụng cả hai loại phân bón chiếm 30% với lý do nêu trên. Do đó có thể thấy số phụ nữ có kiến thức về việc kết hợp đầu vào là phân bón chiếm tỷ lệ cao 67,67%. Tỷ lệ phụ nữ thay đổi địa điểm mua vật tư không cao, chiếm 10% trong số những phụ nữ được điều tra. Lý do thay đổi địa điểm là do tính thuận tiện của việc mua đầu vào chiếm 100%. Tất cả phụ nữ có thay đổi địa điểm mua phân bón đều cho rằng giá của vật tư nông nghiệp ở đâu cũng như nhau. 90% hiểu được mức giá cân bằng của thị trường. 4.1.3 Kiến thức về ứng xử trong tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ nông sản là khâu cuối cùng và quan trọng trong sản xuất của hộ, mang lại kết quả cuối cùng – thu nhập cho hộ. Khi tiếp cận thị trường tiêu thụ nông sản, phụ nữ cần có một kiến thức nhất định để có thể ứng xử tốt nhất sao cho phụ nữ không bị thiệt thòi. Do đó kiến thức về ứng xử trong tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng có tác động đến sự tham gia thị trường của họ. * Kiến thức về thới điểm tiêu thụ: Chọn thời điểm bán nông sản sao cho thích hợp là một cách làm giảm những rủi ro, thiệt thòi trong sản xuất của người nông dân. Nhiều nông dân đã tạo ra sản phẩm trái vụ, hoặc bán các sản phẩm lúc giá đang cao, xác định được thời điểm nào giá cả là thấp nhất để chăm sóc cây trồng cho đậu quả hoặc mang lại sản phẩm lúc tốt nhất. 56,67% phụ nữ được hỏi cho rằng thời điểm bán nông sản cho giá cáo nhất là đầu vụ, 0% lụa chọn thời điểm giữa vụ vì thời điểm này số lượng sản phẩm trên thị trường là nhiều nhất, giá nông sản hạ nhanh; 16,67% lựa chọn thời điểm giữa vụ, 26,67% lựa chọn thời điểm trái vụ. 100% phụ nữ lý giải các thời điểm đó giá bán cao hơn vì số lượng sản phẩm có ít hơn thời điểm giữa vụ. Qua đó ta thấy từ kinh nghiệm sản xuất phụ nữ đã nhận biết được những thời điểm tốt nhất như đầu vụ, cuối vụ, trái vụ để bán sản phẩm mang lại thu nhập cao nhất. * Yêu cầu với nông sản Nhận thức của phụ nữ về yêu cầu quan trọng nhất của các nông sản như rau, hoa quả khi mang tiêu thụ trên thị trường: đã có 12 người chiếm 40% cho rằng yếu tố quan trọng của nông sản là chất lượng tốt, 33,33% ý kiến đề cao vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã bên ngoài của sản phẩm có vai trò quyết định chiếm 23,33%, còn lại chỉ có 3,34% ý kiến cho rằng giá của nông sản cần phải rẻ. Nông sản của người nông dân được tiêu thụ ở nhiều nơi, với những sản phẩm mang vào tiêu thụ ở các thị trường khó tính, đòi hỏi cao thì vấn đề chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là rất quan trọng. Những phụ nữ tiêu thụ sản phẩm tại nhà cho rằng sản phẩm quan trọng là giá rẻ thì tiêu thụ dễ dàng hơn, yếu tố mẫu mã được xem trọng thứ hai. Tất cả các yếu tố trên đối với sản phẩm đều quan trọng nhưng đánh giá yếu tố nào là quan trọng nhất thì đối với phụ nữ có nhiều ý kiến khác nhau. Các phụ nữ cung cấp sản phẩm cho đại lý bán ở nơi xa, thị trường đòi hỏi cao thì họ đề cao vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng của nó. Những phụ nữ tiêu thụ sản phẩm ở tại địa phương hiểu được nhu cầu quan trọng hơn của người tiêu dùng là giá rẻ, mẫu mã đẹp là quan trọng. Thực tế trong khi giá cả nông sản không ổn định thì nhu cầu của người tiêu dùng vẫn là giá rẻ phải chăng. Không thể nói ý kiến nào của phụ nữ là đúng nhất vì với mỗi điều kiện tiếp cận thị trường khác nhau thì phụ nữ có những ý kiến, quan điểm khác nhau cho phù hợp với việc tiêu thụ nông sản của mình. * Ứng xử khi tiêu thụ 100% số phụ nữ mang sản phẩm đi bán đều đồng tình khi bán nông sản, căn cứ vào lượng cung, cầu của thị trường mà họ có thể tăng hoặc giảm giá để việc tiêu thụ tốt hơn. Một số phụ nữ chỉ tiêu thụ tại nhà thì giữ nguyên giá và tuân theo giá của người mua. Vì vậy nhận thấy rằng những phụ nữ được tiếp cận trực tiếp, tham gia thị trường tiêu thụ thì kiến thức về ứng xử của họ tốt hơn những người tiêu thụ tại nhà. 4.1.4 Kiến thức hạch toán kinh tế Để đánh giá kiến thức của phụ nữ về hạch toán kinh tế trong gia đình, trước tiên xác định tỷ lệ phụ nữ tham gia hạch toán kinh tế, cách thức hạch toán kinh tế của họ. Trong 30 phụ nữ có 22 người chiếm 73,33% lựa chọn cách hạch toán lợi nhuận bằng tổng thu trừ đi chi phí. Còn lại các ý kiến là sai cho rằng tổng thu là thu nhập hoặc không có ý kiến. 100% phụ nữ khi tính toán tổng chi không tính đến lao đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP.doc
Tài liệu liên quan