MỤC LỤC
Chương 1: TỔNG QUAN.1
1.1. Tổng hợp PLA từ rơm rạ.1
1.1.1. Nguồn rơm rạ phế liệu ở Việt Nam .1
1.1.2. Axit lactic .3
1.1.3. Quá trình lên men tổng hợp axit lactic từ rơm rạ. .5
1.1.4. Lactide.7
1.1.5. Poly-axit lactic (PLA) .8
1.1.6. Tổng hợp PLA. 11
1.2. Đặc trưng cấu trúc của PLA .27
1.2.1. Vi cấu trúc, hình thái học và hình dạng.27
1.2.2. Khối lượng mol và cấu trúc phân tử.28
1.2.3. Sự chuyển trạng thái nhiệt: .28
1.2.4. Độ tinh khiết quang học và sự raxemic hóa.29
1.2.5. Sự phân hủy của PLA.30
1.3. Các vật liệu tổng hợp của PLA.32
1.3.1. Nghiên cứu tổng hợp PLA/ PEG.32
1.3.2. Tổng hợp copolyme của axit lactic và poly (ethylene glycol).37
1.3.3. Nano clay.39
1.3.4. Nano bạc.42
Chương 2: THỰC NGHIỆM .44
130 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 836 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khác có tác dụng kiểm soát quá trình khử trùng hợp PLLA đã được Nishida và
cộng sự tìm ra, chẳng hạn xúc tác MgO và Al(OH)3 đã tạo ra L-lactide một cách
chọn lọc từ PLLA [16]. Sự đồng phân hóa tiếp tục là một trong những vấn đề
nghiêm trọng của quá trình tái chế nguyên liệu cho PLLA bởi nó có thể xảy ra
không chỉ trong quá trình khử trùng hợp mà còn cả trong lúc tồn tại ở trạng thái
monome vòng sau phản ứng. Kopinke và cộng sự đã từng thông báo rằng sự đồng
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
32
phân hóa diễn ra thông qua sự hỗn biến hóa ester-bán axetal (ester-semiacetal
tautomerization) của mạch chính PLLA (Sơ đồ hình 1.17a). Fan và cộng sự đẫ đề
xuất một cơ chế đồng phân hóa khác: phản ứng SN2 tại một tâm carbon bất đối có
thể xảy ra như một phản ứng tự ngắt mạch từ đầu mạch hoạt động: R-COOCa+ của
phân tử PLLA (Sơ đồ hình 1.17b)
(a)
Đơn vị L-lactate Đơn vị D-lactate
(b)
Meso-lactide
Hình 1. 17: Các cơ chế đồng phân hóa: (a) sự hỗn biến hóa ester- bán axetal,
(b) phản ứng SN2 tại một trung tâm bất đối
1.3. Các vật liệu tổng hợp của PLA
1.3.1. Nghiên cứu tổng hợp PLA/ PEG
PLA có rất nhiều ưu điểm so với các polyme khác, nổi bật trong số đó là khả
năng tái sinh, tính tương hợp sinh học, khả năng gia công tốt và tiêu tốn ít năng
lượng trong quá trình sản xuất [15]. PLA được coi là vật liệu sinh thái tiềm năng
cho tương lai, tuy nhiên nó có một số nhược điểm làm giảm khả năng ứng dụng
trong thực tế như:
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
33
- Độ dẻo kém: PLA là một vật liệu giòn với độ dãn dài khi đứt nhỏ hơn 10%.
Mặc dù có độ bền kéo và ứng suất đàn hồi tương đương với polyethylenterephtalat
(PET) nhưng có độ giòn cao khiến PLA ít được áp dụng trong các ứng dụng cần có
độ biến dạng dẻo cao như vít hay nẹp cố định xương [15].
- Tốc độ phân hủy chậm: PLA phân hủy thông qua sự thủy phân mạch chính với
các liên kết ester. Tốc độ phân hủy phụ thuộc vào các yếu tố như: độ tinh thể của
PLA, khối lượng phân tử, độ đa phân tán của phân tử khối, hình thái học, tốc độ
khuếch tán của nước trong polyme, độ đồng đều lập thể của mạch polyme [15]. Tốc
độ phân hủy là một trong những tiêu chuẩn quan trọng cho các ứng dụng trong y
sinh.Tốc độ phân hủy chậm dẫn tới thời gian tồn tại lâu của các thiết bị làm từ PLA
trong cơ thể (có thể lên tới hàng năm trong một số trường hợp [11]).Tốc độ phân
hủy chậm cũng là một trong các vấn để đáng lưu tâm trong ứng dụng cho sản xuất
các hàng hóa thông dụng.
- Tính kị nước: PLA tương đối kị nước với góc thấm ướt với nước là gần 80oC.
Tính chất này đồng nghĩa với tính tương hợp với tế bào kém, cũng như có khả năng
gây viêm nhiễm vật chủ khi tiếp xúc trực tiếp với các dịch trong cơ thể [11].
- Thiếu các nhóm hoạt động phụ: PLA khá trơ về mặt hóa học vì nó không có các
nhóm hoạt động phụ. Điều này khiến cho việc biến tính PLA khó khăn hơn.
Để mở rộng hơn nữa khả năng ứng dụng của PLA, việc biến tính vật liệu này,
đặc biệt là các tính chất cơ lý và khả năng gia công của nó là vô cùng cần thiết.
Phần sau sẽ đề cập tới các tính chất cơ lý chính của PLA và các phương pháp
thường được áp dụng để biến tính cũng như tăng khả năng gia công của PLA.
Về tính chất cơ lý thì PLA là một polyme nhiệt dẻo giống như thủy tinh và có độ
cứng cao. PLA có các tính chất gần tương đương với polystyrene. PLA tổng hợp từ
các monome L–lactide hoặc D–lactide là các polyme bán tinh thể, trong khi polyme
thu được từ các monome hỗn hợp như meso-lactide hay hỗn hợp racemic của D- và
L- lactide có dạng vô định hình [11]. PDLLA dưới dạng vô định hình chủ yếu được
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
34
dùng trong các ứng dụng y sinh như làm các thiết bị phẫu thuật tự tiêu hay chất bọc
thuốc nhả chậm. Còn PLLA, dạng phổ biến nhất trong các PLA được tổng hợp,
được dùng trong các ứng dụng đòi hỏi tính bền cơ lý cao hơn.
- Tính chất kéo và uốn: PLA thường được biết đến như là một polyme có các tính
chất cơ lý tốt với độ bền kéo nằm trong khoảng 50-70 MPa, ứng suất đàn hồi
khoảng 3000-4000 MPa, độ dãn dài khi đứt trong khoảng 2-10%, độ bền uốn ~100
MPa, và ứng suất uốn khoảng 4000-5000 MPa [8]. PLA có tốc độ kết tinh chậm, do
đó đa phần các mẫu PLA thu được thông qua quá trình đúc áp lực thông thường đều
là vô định hình [10]. Thông thường, độ bền kéo của PLA vô định hình nằm trong
khoảng 40-53 MPa. Sau quá trình ủ mẫu ở 105oC, PLA có độ tinh thể từ 45% tới
70%, dẫn tới độ bền kéo tăng lên đến khoảng 47-70 MPa trong cùng một khoảng
phân tử khối. Ảnh hưởng của phân tử khối lên các tính chất kéo và uốn được thể
hiện rõ hơn trên các mẫu sau ủ với độ bền kéo tăng từ 47 lên 66 MPa khi khối lượng
phân tử tăng từ 20000 lên 70000 g/mol (phân tử khối theo độ nhớt, Mν). PLA vô
định hình với phân tử khối lớn hơn 30000 g/mol có các tính chất cơ lý tăng chậm
hơn, trong khi với PLA sau ủ, điều đó chỉ xảy ra sau khi khối lượng phân tử lớn hơn
50000 g/mol.
Sự phụ thuộc của tính chất cơ lý của PLA vào phân tử khối đã được nghiên cứu
bởi nhiều tác giả trước đây. Engelberg và Kohn tìm ra rằng khi phân tử khối tăng từ
107000 lên 550000 g/mol, độ bền kéo tăng 20% [11].Thông thường ở vùng phân tử
khối lớn, sự biến thiên tính chất cơ lý diễn ra chậm hơn. Một số tác giả cũng đưa ra
các giá trị tính chất kéo hơi khác so với các mẫu PLA thương mại [10]. Các tấm
PLA vô định hình của NatureWorks (ký hiệu 4060, ~ 10% đồng phân D-) có các giá
trị độ bền kéo, ứng suất đàn hồi kéo và độ dãn dài khi đứt lần lượt là 44 MPa, 2500
MPa, và 7%. PLA bán tinh thể từ NatureWorks (ký hiệu 4032, ~ 1,5% đồng phân
D-) có các giá trị trên lần lượt là 54 MPa, 2600 MPa, và 9%. Sự khác biệt nhỏ trong
các giá trị được thông báo có thể là do PLA thương mại thường được sản xuất bằng
cách đồng polyme hóa L–lactide với một lượng nhỏ meso–lactide để làm giảm độ
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
35
tinh thể và độ giòn của vật liệu. Một nghiên cứu khác lại báo cáo PLA của hãng
Mitsui Fine Chemicals (ký hiệu Lacea H.100–E) có các giá trị độ bền kéo, ứng suất
đàn hồi kéo và độ dãn dài khi đứt lần lượt là 66 MPa, 3300 MPa, và 1,8% [11].
Trong khi PLA của hãng Purac có giá trị ứng suất đàn hồi thấp hơn tại 1151 MPa và
độ dãn dài khi đứt là 14,5% [10]. Sự khác biệt về các tính chất cơ lý cũng có thể bắt
nguồn từ các phương pháp khác nhau được dùng để chuẩn bị mẫu đo. Tuy nhiên,
các số liệu đã công bố đều cho thấy PLA có ứng suất đàn hồi, độ bền kéo cao và
khả năng biến dạng thấp.
- Độ bền va đập: Độ bền va đập của PLA bị ảnh hưởng rất lớn bởi việc cắt. Các
giá trị độ bền va đập Izod của PLA có độ tinh thể thấp (3-9%) nằm trong khoảng 2-
3 kJ/m2. Với PLA có độ tinh thể cao (45-70%), giá trị này vào khoảng 3-7 kJ/m2
[10]. Với trường hợp độ bền va đập không cắt, sự khác biệt giữa các mẫu có độ tinh
thể khác nhau còn lớn hơn. Một nghiên cứu khác cho các giá trị độ bền va đập cắt
nằm trong khoảng 2,0–2,6 kJ/m2 [10] và độ bền va đập không cắt là 12 kJ/m2 [10].
Sự phụ thuộc của độ bền va đập cắt vào bán kính vết cắt được nghiên cứu bởi
Grijpma và các cộng sự cho thấy giá trị này giảm từ 2,2 xuống 1,2 kJ/m2 khi bán
kính vết cắt giảm từ 1,0 xuống 0,1 mm [11].
Một điều đáng lưu ý là quá trình gia công có ảnh hưởng đáng kể tới độ bền va
đập của PLA. PLA với phân tử khối rất lớn (~ 780000 g/mol) cho các giá trị độ bền
va đập giảm mạnh từ 47 kJ/m2 của polyme vừa được tổng hợp xong xuống còn 12
kJ/m2 cho mẫu sau khi đúc [11]. Điều này được giải thích bởi sự giảm độ tinh thể
do việc làm lạnh nhanh trong quá trình đúc ép. Phân tử khối cũng có những ảnh
hưởng tới độ bền va đập, nhất là với PDLLA
Từ những kết quả trên, ta có thể thấy PLA là một vật liệu có độ bền va đập tương
đối kém. Tùy vào tứng ứng dụng cụ thể mà ta có thể thay đổi độ bền va đập dựa
trên độ tinh thể và khối lượng phân tử.
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
36
- Độ cứng: Độ cứng Rockwell của PLA thường thay đổi từ 70 – 90 theo thang H
hay ~120 theo thang L [10]. Độ cứng Rockwell rất ít phụ thuộc vào độ tinh thể như
có thể thấy khi giá trị này chỉ thay đổi từ 83 tới 88H với PLA vô định hình và từ 82
tới 88H với PLA bán tinh thể. Giá trị này cũng ít phụ thuộc vào phân tử khối. [10].
Trong số các polyme có khả năng phân hủy sinh học, PLA có ứng suất đàn hồi và
độ cứng cao. Những đặc tính này có liên hệ chặt chẽ với thành phần hóa học của
polyme. Sự tồn tại của các nhóm chức ester trong mạch cũng như ở các mạch lân
cận trên thực tế đã ảnh hưởng tới các tương tác hóa lý giữa các mạch polyme làm
giảm khả năng trượt của phân tử trong quá trình biến dạng khi có lực tác dụng. Các
tương tác phân cực giữa các mạch polyme với nhau dẫn đến nhiệt độ thủy tinh cao,
và do đó là độ cứng cao của PLA.
PLA là một polyme có các tính chất cơ lý tốt với ứng suất đàn hồi khoảng 3000-
4000 MPa và độ bền kéo ~ 50 MPa. Do đó, trên lý thuyết PLA hoàn toàn có thể
thay thế cho các polyme truyền thống trong rất nhiều các lĩnh vực như bao gói, sợi,
thùng chứa Tuy nhiên khả năng biến dạng kém của vật liệu này đã hạn chế nhiều
ứng dụng của nó. PLA có nhiệt độ chuyển thủy tinh khoảng 60-70oC, vì vậy nó rất
giòn ở nhiệt độ thường, dẫn đến dễ bị phá hủy do rạn nứt. Có nhiều phương pháp đã
được áp dụng để cải thiện tính chất của PLA như đồng trùng hợp, tạo tổ hợp với các
polyme có khả năng phân hủy sinh học khác, làm dẻo hóa, tạo (nano) composite
Trong đó, tổ hợp hai hay nhiều polyme là một cách dễ dàng nhất và cũng thường là
cách rẻ nhất để tổng hợp ra các vật liệu polyme sở hữu các tính chất mong muốn.
PEG là polyme của ethylene oxide thường tồn tại ở cả ba dạng lỏng, sáp và bột
rắn tùy thuộc vào khối lượng phân tử. PEG là một polyme nhiệt dẻo, có độ kết tinh
cao và có khả năng tan trong nước. PEG với phân tử khối thấp thường được dùng
làm chất dẻo hóa cho PLA Younes và Daniel đã nghiên cứu tính tương hợp của hai
polyme này trong tổ hợp điều chế bằng phương pháp dung dịch. Họ quan sát thấy
rằng khi tỷ lệ của một thành phần lớn hơn 20% khối lượng, thành phần đó có thể kết
tinh và tổ hợp sẽ bao gồm các tinh thể bán tương hợp phân bố trong một nền vô
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
37
định hình. Trong tổ hợp với một thành phần nhỏ hơn 20% thì chỉ có thành phần
chính có khả năng kết tinh. Sheth và các cộng sự đã chế tạo tổ hợp PLA-PEG với
các nồng độ khác nhau. Tính tương hợp và tính chất cơ lý phụ thuộc nhiều vào nồng
độ PEG [9].
Trong luận văn này, tổ hợp PLA-PEG với các tỷ lệ PEG khác nhau đã được điều
chế theo phương pháp trộn nóng chảy nhằm thay đổi các tính chất của PLA cho phù
hợp với các ứng dụng khác nhau. Mục tiêu chính của công việc này là tìm ra ảnh
hưởng của hàm lượng PEG lên các tính chất cơ lý của tổ hợp PLA-PEG như độ bền
kéo, ứng suất đàn hồi và độ dãn dài khi đứt.
1.3.2. Tổng hợp copolyme của axit lactic và poly (ethylene glycol).
PEG có khả năng hòa tan trong nước, dung môi hữu cơ phân cực và không tan
trong các dung môi không phân cực như ethyl eter, heptan. PEG có ít độc tính, dễ
giải phóng nhanh chóng ra khỏi cơ thể [16] khiến nó trở thành một comonome thích
hợp cho việc điều chế copolyme PLA-PEG. Sự đồng trùng hợp của axit L-lactic
(LLA) kỵ nước với PEO (poly ethylene oxide), poly propylene oxide ưa nước được
sử dụng trong phản ứng tổng hợp diblock hoặc triblock copolyme [16]. Các
copolyme này có tính phân cực hơn, dẻo hơn và tính phân hủy sinh học cao hơn
PLLA homopolyme [16]. Khả năng phân hủy sinh học và tính tương hợp sinh học
của các copolyme này mang lại tiềm năng ứng dụng lớn trong việc chế tạo các hạt
nano cấu trúc lõi vỏ với miền PEO ưa nước hình thành lên phần bề mặt còn miền
PLA kị nước hình thành phần lõi trong [16].
Các diblock và triblock polyme được tổng hợp từ phản ứng trùng hợp pha lỏng
hoặc rắn sử dụng Sn(Cl2) [13] hoặc [Sn(Oct) 2] ở nhiệt độ cao (100-150℃) trong
nhiều giờ, kali tert-butoxit (potassium tert-butoxide), natri hydrit (sodium
hydroxide), canxiumhydride / Zn , hoặc kẽm kim loại [9]. Nhiệt độ trùng hợp cao
thường làm giảm khối lượng phân tử của khối PLLA [9]. Một lượng lớn các sản
phẩm đã được điều chế bằng cách thay đổi khối lượng phân tử của PEG (1000-
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
38
30,000 g/mol), hoặc thành phần của monome LLA trong nguồn nguyên liệu ban
đầu. Cấu trúc của triblock copolyme được mô tả trong hình 1.18.
Hình 1. 18: Mô tả cấu trúc của triblock copolyme P(LLA-b-PEG-b-LLA)
1.3.2.1. Sự trùng hợp mở vòng của PEG và lactide
Những polyme này có thể được tổng hợp bằng cách trùng hợp mở vòng giữa
PEG hoặc nhóm dẫn xuất của nó như metoxyl polyethylene glycol (m PEG) và
lactide (hình 1.19) [15], với xúc tác là muối thiếc. Đặc biệt là các hợp chất chứa
thiếc có khả năng xúc tác cao. Tuy nhiên, do độc tính cao của các kim loại nặng nên
giá sư Kricheldorf và cộng sự đã sử dụng xúc tác axit axetic bismuth [15]. Chúng ta
có thể kiểm soát độ dài ngắn của copolyme PEG và L-lactide bằng cách thay đổi tỷ
lệ monome và chất khơi mào, các copolyme với cấu trúc phân tử khác nhau có thể
được tổng hợp như: dạng A-B, copolyme stelate, A-B-A triblock copolyme,
multiblock copolyme, và reticular copolyme
Hình 1. 19: Sơ đồ tổng hợp mPEG-PLA
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
39
1.3.2.2. Trùng hợp mở vòng anionic.
Trong trùng hợp mở vòng anionic, các chất xúc tác thường dùng gồm có
potassium alkoxit, sodium alkoxit, litibutyl [8]. Otsuka và cộng sự đã tổng hợp
được 3,3-potassium-dietoxyl propanol ([C2H5O]2CHCH2OK) từ chất phản ứng ban
đầu là 3,3-dietoxyl-propanol ([C2H5O]2CHCH2OH) và potassium naphthalene (K-
Naph), nó có thể hòa tan trong tetrahydrofuran (THF), và sau đó đã tổng hợp được
khối copolyme α-acetal-PEG-PLA nhờ trùng hợp mở vòng anionic cùng với
ethylene oxide, trong đó axit lactic (LA) là chất phản ứng và 3,3-potassium-dietoxyl
propanol là chất khơi mào (Hình 1.20).
Hình 1. 20: Sơ đồ tổng hợp poly (ethylene glycol) – poly( axit lactic) copolyme
đuôi acetal
1.3.3. Nano clay
Khoáng sét Bentonit có thành phần chính là Montmorillonit (MMT) với công
thức hóa học tổng quát: Al2Si4O10(OH)2. Cấu trúc tinh thể của MMT được tạo thành
bởi hai mạng lưới tứ diện liên kết với mạng lưới bát diện ở giữa tạo nên cấu trúc lớp
như trong hình 1.21 [6]. Mỗi lớp cấu trúc được phát triển liên tục trong không gian
theo hướng a và b. Trong không gian giữa các lớp còn tồn tại nước như lớp vỏ
hydrate của các cation trong đó. Các lớp được xếp chồng song song với nhau và
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
40
ngắt quãng theo trục c, cấu trúc này tạo nên mạng không gian 3 chiều của tinh thể
MMT. Chiều dày mỗi lớp cấu trúc của MMT là 9,2 - 9,8Ao. Khoảng cách giữa các
lớp ở trạng thái trương nở khoảng từ 5 - 12Ao tùy theo cấu trúc tinh thể và độ
trương nở.
Cation trao đổi
Hình 1. 21: Cấu trúc mạng tinh thể 2:1 của MMT
Các lớp cấu trúc của MMT thường tích điện âm, để trung hòa lớp điện tích này,
sét MMT tiếp nhận các cation từ ngoài vào. Chỉ một phần nhỏ các cation này (Na+,
K+, Li+) định vị ở mặt ngoài của mạng còn phần lớn nằm ở vùng không gian giữa
các lớp. Trong sét MMT các cation này có thể bị thay thế bởi các cation ngoài dung
dịch với dung lượng trao đổi ion tùy thuộc vào mức độ thay thế đồng hình trong
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
41
mạng. Đây chính là nguyên lý cho việc điều chế nano clay hữu cơ. Khi các cation
này được thay thế bằng các cation amoni kích thước lớn, khoảng cách không gian
cơ sở giữa hai lớp MMT sẽ tăng lên từ 9,6 Ao lên đến vài chục Ao tùy thuộc vào
kích thước của cation thế. Nguyên lý điều chế nano clay hữu cơ được thể hiện trong
Hình 1.22 [19].
Hình 1. 22: Nguyên lý điều chế nano clay hữu cơ bằng các cation amoni khác
nhau
Trong chế tạo vật liệu nanocomposite, để đạt được những cải tiến về tính chất
như mong muốn thì sự phân tán của nanoclay trong vật liệu nền polyme có tính chất
quyết định. Tùy thuộc vào độ tương hợp giữa một nano clay ưa nước và polyme nền
(thường là kị nước) mà vật liệu tổ hợp chế tạo được có thể có một trong hai dạng
sau:
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
42
- Clay không phân bố đều ở dạng nano vào nền polyme (microcomposite).
Trường hợp này xảy ra khi độ tương hợp giữa clay và polyme thấp nên các mạch
polyme không thể xen vào giữa các lớp clay. Khi đó tính chất của vật liệu thu được
hầu như không tăng hoặc thậm chí còn giảm so với trước khi thêm clay.
- Có sự xen kẽ một phần polyme vào giữa các lớp clay. Tính chất của vật liệu
được cải thiện nhưng không nhiều. Từng lớp aluminum silicate được phân bố đều
trong polyme nền. Khi đó các tính chất cơ, lý, nhiệt của polyme được tăng cường
nhiều nhất. Tuy nhiên rất khó để đạt được trạng thái này mà thường chỉ là sự kết
hợp giữa các nanocomposite xen kẽ một phần và phân tán hoàn toàn [6].
1.3.4. Nano bạc
Nano bạc là vật liệu có diện tích bề mặt riêng rất lớn, có những đặc tính độc đáo
như:
- Có tính kháng khuẩn, chống nấm, diệt tảo, khử mùi hôi tanh.
- Có khả năng tiêu diệt hơn 650 chủng vi sinh vật gây bệnh và không bị các
chủng vi sinh vật thích nghi như nhiều chất sát trùng khác.
- Có tác dụng kháng khuẩn như một chất xúc tác nên ít bị tiêu hao trong quá trình
sử dụng.
- Chỉ tiêu diệt các vi khuẩn có hại (gram âm), không gây hại cho cơ thể con
người và động vật với liều lượng tương đối cao.
- Độ bền hoá học cao, không bị biến đổi dưới tác dụng của ánh sáng và các tác
nhân oxi hoá khử thông thường [1].
Nano bạc kim loại thường được điều chế từ muối bạc kim loại bằng phản ứng
khử. Tác nhân khử là các aldehyde như aldehyde focmic (HCHO) và đường glucozo
(C6H12O6).
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
43
RCHO + 2Ag+ + 3NH3 + H2O ® 2Ag¯ + RCOONH4 + 2NH4+
RCHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O ® 2Ag¯ + RCOONH4 + 2NH4NO3
Cấu tạo mixen của hạt bạc khi
không có chất hoạt động bề mặt
Cấu tạo của hạt keo nano bạc khi có
sự bảo vệ của chất hoạt động bề mặt
Hình 1. 23: Cấu tạo mixen của hạt bạc khi có và không có sự bảo vệ của các
chất hoạt động bề mặt.
Nano bạc được chế tạo dưới dạng các hệ keo nano bằng phương pháp sử dụng
chất hoạt động bề mặt. Trong quá trình khử ion Ag+ thành Ag, bề mặt hạt keo nano
bạc hấp phụ ion Ag+ trong dung dịch và tạo ra lớp ion tạo thế dương trên bề mặt.[1]
Chất hoạt động bề mặt dưới dạng RCOO- (R là gốc hydrocarbon) bị hấp phụ lên bề
mặt lớp ion tạo thế. Nhờ vậy, các hạt keo trở nên bền vững và không bị keo tụ lại
với nhau. Sự có mặt của các chất hoạt động bề mặt cũng giúp cho các hạt keo vừa
có tính ưa nước vừa có tính ưa dầu. Do đó, các hạt keo nano bạc có thể phân tán tốt
và bền vững trong cả môi trường phân cực và môi trường không phân cực. [1].
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
44
Chương 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và thiết bị
2.1.1. Tổng hợp poly-axit lactic
- Axit L-lactic được tổng hợp từ lên men rơm rạ do Viện Công Nghệ Sinh Học
thực hiện.
- Xúc tác: antimony tri oxide (Sb2O3), kẽm sterat (zinc sterate Zn(C18H35O2)2);
thiếc dibutyl dimethoxyl; 1,4-butandiol triphenylphotphin.
- Thiếc (II) 2-ethylhexanoate (95%) và được cất lại ở áp suất giảm (0,1 mmHg)
trước khi sử dụng. L-lactide được kết tinh lại trong lượng vừa đủ toluen
- Nước cất và các dung môi cần thiết.
2.1.2. Thiết bị tổng hợp và tinh chế lactide.
(a)
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
45
(b)
Hình 2. 1 Thiết bị tổng hợp lactide (a) và tinh chế lactide (b)
2.1.3. Chế tạo các vật liệu tổ hợp từ poly-axit lactic
- PLA dạng bột được điều chế từ các nghiên cứu trên
- Bentonit được tinh chế từ khoáng sét Bình Thuận.
- Các hóa chất và dung môi được đặt mua từ Sigma-Aldrich và Merck.
2.2. Quy trình thí nghiệm
2.2.1. Tinh chế axit lactic
Axit lactic sau quá trình lên men được tiến hành loại nước bằng màng ultrafilter
(màng siêu lọc) để cô đặc axit lactic đồng thời kết hợp loại tạp chất. Quy trình cô
đặc axit lactic từ dịch lên men sử dụng công nghệ màng được mô tả trong hình 2.1.
Cô đặc axit lactic bằng hệ thống thẩm thấu ngược (RO) sử dụng màng: Filtec
TW30-1812-100 (DOW-USA). Loại bỏ >90% các loại muối. Nhiệt độ hoạt động tối
đa 45oC. Áp suất hoạt động là 30 bar có pH nằm trong khoảng từ 2-11.
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
46
Tinh sạch axit lactic bằng cột trao đổi ion: với cột cation là cột Cation-Resin
(Lewaltit S2568), cột anion là cột Anion-Resin (Lewaltit S3428). Mức độ tinh sạch
của axit lactic sau bước trao đổi đạt > 99%
Lọc thô bằng màng ultrafilter: màng ultrafilter 300 (ricon, USA). Có Kích thước
màng: 0,01 μM. Nhiệt độ tối đa hoạt động: 40oC. Áp suất: 3 bar. Tốc độ lọc: 300
l/h. Loại bỏ được 100% vi sinh vật.
Hình 2. 2: Quy trình và tổng số cho việc tách axit lactic bằng công nghệ màng
Sau khi thu được axit lactic có nồng độ >50% tiến hành chuyển sang quy trình
ester hóa và thủy phân, quy trình được mô tả trong hình 2.3
Từ axit lactic có nồng độ >50%, tiếp tục cô đặc chân không ở áp suất thấp đến
khi dung dịch axit lactic đạt ~80%. Lấy 450 ml dung dịch axit này cho vào bình cầu
1000 ml. Sau đó cho thêm 400 ml butanol và 1 ml H2SO4 đặc nóng (đưa pH về 1)
vào bình cầu, chưng cất hồi lưu đồng thời tiến hành loại nước. Lượng butanol thêm
vào từ trên xuống để xúc tiến cho quá trình phản ứng xảy ra nhanh chóng. Tiến
hành phản ứng trong 2h. Để nguội dung dịch phản ứng sau đó trung hòa bằng soda
để đưa pH về 5. Lọc rửa dung dịch và tiếp tục chưng cất để tinh chế butylactate.
Qua 3 lần chưng cất phân đoạn chúng ta thu được butylactate tinh khiết không màu.
Axit lactic tinh khiết thu được bằng cách thuỷ phân hỗn hợp butyl lactate với HCl
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
47
và nước. Hỗn hợp này được đun nhẹ và cất. Hỗn hợp sau thủy phân được tách và
phân lớp thu axit lactic. Tiếp tục cô chân không axit lactic bằng cách hút chân
không thu được axit lactic tinh khiết.
Hình 2. 3: Sơ đồ quy trình tách axit lactic bằng phương pháp ester hóa.
2.2.2. Tổng hợp PLA
2.2.2.1. Tổng hợp oligome PLA
Tổng hợp oligome PLA gồm hai giai đoạn
Giai đoạn 1: Giai đoạn loại nước đề làm khan axit lactic:
Axit lactic được cho vào bình cầu 250 ml nối với bộ chưng cất. Gia nhiệt bình
phản ứng và cất loại nước. Quá trình loại nước được tiến hành trong khoảng thời
gian từ 0-3h, ở nhiệt độ 100-140oC, áp suất 10mmHg
Giai đoạn 2: tổng hợp oligome PLA
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
48
Axit lactic đã làm khan ở trên được sử dụng để tổng hợp oligome. Tiếp tục gia
nhiệt phản ứng trong điều kiện áp suất thấp. Phản ứng xảy ra không cần xúc tác.
Nước loại ra trong bình phản ứng cần được loại bỏ. Áp suất giảm từ từ để không
xảy ra hiện tượng sôi quá mạnh làm chất lỏng phụt sang bình chứa. Sản phẩm thu
được là chất lỏng có độ nhớt cao và được sử dụng cho phản ứng tiếp theo mà không
cần tinh chế thêm.
a) Khảo sát điều kiện ảnh hưởng tới quá trình tách loại nước để làm khan
axit lactic
Axit L-lactic thu được từ quá trình lên men cần được tách loại nước để làm khan
axit lactic. Axit L-Lactic lên men được cho vào bình cầu 250 ml nối với bộ chưng
cất. Gia nhiệt bình phản ứng. Nước loại ra trong quá trình phản ứng được cất bỏ.
Quá trình loại nước được tiến hành trong khoảng thời gian từ 0-4h, nhiệt độ 100-
1400C, áp suất 10mmHg. Kết quả quá trình loại nước được trình bày trong bảng 3.1.
b) Khảo sát điều kiện ảnh hưởng của nhiệt độ lên phản ứng tổng hợp
oligome poly-axit lactic.
Axit lactic đã làm khan ở trên được sử dụng để tổng hợp oligome. Chúng tôi tiến
hành khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ lên phản ứng tổng hợp oligome poly-axit
lactic trong khoảng nhiệt độ từ 180-240 oC. Thời gian phản ứng là 4h, ở áp suất
10mmHg. Khoảng nhiệt độ thích hợp nhất để thu được hiệu suất cao là khoảng 200
oC. Kết quả được đưa ra trong hình 3.2.
c) Khảo sát điều kiện ảnh hưởng của thời gian phản ứng lên KLPT trung
bình của oligome PLA.
Axit lactic làm khan ở trên được sử dụng để tổng hợp oligome. Dựa vào những
kết quả đã đạt được chúng tôi tiến hành phản ứng ở nhiệt độ là 200 oC, áp suất
10mmHg, thực hiện khảo sát thời gian phản ứng trong khoảng thời gian từ 4-7h.
Kết quả được thể hiện trong phần 3.3.
2.2.2.2. Tổng hợp L-lactide.
Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng polylactic acid Hồ Thị Hoa
49
Oligome PLA được cho vào bình cầu 250 ml có khuấy từ, sau đó cho một lượng
xúc tác đã được tính trước (1.5% khối lượng oligome) được thêm vào bình phản
ứng. Xúc tác được sử dụng là ZnO và Sb2O3. Bình phản ứng được nối với cột cất và
được gia nhiệt, phản ứng xảy ra trong điều kiện áp suất giảm. Lactide thô tạo ra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvanthacsi_chuaphanloai_125_2076_1869996.pdf