Mở đầu 8
Phần I Tổng quan 9
1.1 Vai trò và sự phát triển của công nghệ vật liệu 9
1.1.1 Vai trò của công nghệ vật liệu.9
1.1.2 Sự phát triển của công nghệ vật liệu.9
1.2 Vật liệu xây dựng. Vấn đề về vật liệu mới 11
1.2.1 Vật liệu và hoá phẩm xây dựng .11
1.3 Polyme vô cơ. Định hớng sử dụng Polyme vô cơ và
một số khoáng chất cho tổng hợp vật liệu 14
1.3.1 Giới thiệu về Polyme vô cơ.14
1.3.2 Tính chất của Polyme vô cơ.21
1.3.3 Các ứng dụng của Polyme vô cơ.26
1.3.4 Polyme trên cơ sở photpho-oxy-nhôm.27
1.3.5 Thành phần cấu trúc hệ Polyme.48
1.3.6 Định hớng sử dụng Polyme vô cơ và một số khoáng chất cho tổng
hợp vật liệu vô cơ .50
Phần II: Các phơng pháp nghiên cứu vàthực nghiệm 53
2.1. phơng pháp phân tích phổ hồng ngoại (IR) 53
2.1.1. Cơ sở của phơng pháp.53
2.1.2. Điều kiện hấp thụ bức xạ hồng ngoại .53
2.2. Phơng pháp phân tích thể tích 54
2.2.1. Phân tích AL2 O3 trong khoáng .54
2.2.2. Phân tích Na2O.55
2.2.3. Phân tích CaO .56
2.2.4. Phân tích Fe2O3.57
2.2.5. Xác định hàm lợng Ti4+.58
2.2.6. Phân tích CaO trong muối CaCl2 .58
2.3. Phơng pháp phân tích khối lợng xác định SiO2 58
2.3.1. Nguyên tắc.58
2.3.2. Dung dịch chuẩn bị.59
2.3.3. Phơng pháp tiến hành.59
2.4. Phơng pháp nhiễu xạ tia X 59
2.5. Quá trình tạo mẫu 60
2.5.1. Chuẩn bị nguyên liệu.60
2.5.2. Phân tích nguyên liệu .61
2.5.3. Kiểm tra khả năng kết dính tạo hình và đóng rắn.61
2.5.4. Khảo sát ảnh hởng của một số phụ gia tới thời gian đóng rắn và độ
cứng. .61
87 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ứng dụng polyme phốt phát nhôm trong chế tạo vật liệu dùng cho xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở đỉnh các tứ diện. Trong
một vài vật liệu nguyên tử Al có thể kết hợp bậc 4,5 hoặc 6.
Gần đây đã có nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu về cấu trúc của phốt phát
nhôm dạng mạch thẳng và dạng mạng hai chiều, trong số đó nổi bật là các vật
liệu được tạo thành từ qú trình tổng hợp không có nước. Việc tìm ra các vật liệu
mới này đã tạo nên các tính chất khác biệt đối với các loại vật liệu tổng hợp
trong hệ có chứa nước. Mặc dù đã có số lượng lớn các chất nền hữu cơ được sử
dụng trong quá trình tổng hợp các vật liệu photphat nhôm cấu tạo dạng mạch
thẳng và dạng màng nhưng cho tới nay chỉ có hai cấu trúc dạng màng là [Al3 P4
O16]3- hoặc [Al2P3O12Hx](3-x)- (x=1-2) được tổng hợp. Tương tự chỉ có 4 cấu trúc
dạng mạch thẳng của phot phat nhôm kiểu tứ diện trong đó nguyên tử Al ở
trung tâm, hai trong số đó là có cùng kiểu cấu trúc với tỷ lệ nguyên tử
[AlP2O8Hx](3-x)-, (x=1-2) và hai dạng còn lại cũng có cấu trúc với tỷ lệ [Al3 P5
O20H]3-. Hai dạng photphat nhôm mạch thẳng có cấu trúc tám mặt cũng đã biết
với các nguyên tử Al ở trung tâm. Một dạng có công thức [Al(H2PO4)3] được
tạo thành bằng cách bốc hơi dung dịch keo và một số dạng có công thức
[Al(PO4)2(OH)]4- tạo thành nhờ huỷ phân [hình 1.1].
(a)
(b)
Hình1.1: Cấu trúc Polyme photphat nhôm
a) Dạng tứ diện AlO4, PO4
b) Dạng bát diện AlO6, PO4
Một vài phức chất monome photphat và photphonat của nhôm cũng được
nghiên cứu. Cassidy đã tách phức dạng lập phương [Al4(PO4)4] từ etanol trong
mỗi nguyên tử Al thuộc về một tứ diện liên kết với 3 ion photphat của các góc
lập phương và 3 nhóm ethoxy. Vào năm 1996 Mason đã điều chế được 2 phức
calkylaluminophosphate khác nhau, một trong số đó chứa vòng 4 cạnh Al2O4P2,
phức còn lại có cấu trúc lập phương Al4O12P4. Yang cũng được điều chế được
phức photphonat nhôm lập phương trong đó các trung tâm photpho có mang
các nhóm butyl. Những nghiên cứu này là cơ sở để chế tạo các dung dịch
photphat và photphonat có chứa nguyên tử Bo và Gali ở trung tâm.
Trong vài năm gần đây các công trình nghiên cứu mang ý nghĩa lớn đều tập
trung vào cơ chế tạo thành các Zeolit và các rây phân tử photphat nhôm. Gần
đây vai trò của chất nền hữu cơ cũng được nghiên cứu. Vật liệu dùng cho tổng
hợp photphat nhôm là axit photphoric và oxit hoặc hyđroxyt nhôm, quá trình
tạo khoáng của nhôm bằng axit photphoric đã được biết trong các nghiên cứu
về khoa học đất. Thông thường các ion photphat tạo thành các liên kết cộng
hóa trị với các nguyên tử nhôm thông qua các cầu nối là các nguyên tử ôxi nhờ
sự thay thế các ion hyđroxyt và bẻ gãy các liên kết Al-O-Al trong khoáng.
Ta có thể biết được cấu trúc của khoáng thông qua việc hoà tan khoáng, khi
đó các dạng phân tử photphat nhôm được thoát ra khỏi lớp bề mặt và các phân
tử đó đã được ghi lại bằng thực nghiệm. Phần lớn những nghiên cứu về cấu trúc
đã cho thấy các Polyme kết hợp tồn tại đối với các hyđroxyt kim loại là các
Polyme photphat nhôm ở dạng gel kết dính. Các Polyme kết hợp này bền trong
môi trường axit và bị kết tủa thành các dạng hạt nhỏ vô định trong môi trường
kiềm. Các Polyme kết hợp cũng được coi là "Sự chuyển dịch giữa các axit và
phức hoà tan". Các dạng mắt xích có khuynh hướng tạo thành khi tỷ lệ Al:P
của dung dịch lớn hơn 1:1. Ví dụ Kniep đã tách được các tinh thể lớn của
Al(H2PO4)3 cấu trúc mạch thẳng bằng việc bốc hơi dung dịch đậm đặc có tỷ lệ
(Al:P=1:5) [19]. Độ bền của photphat nhôm mạch thẳng cũng được ghi nhận
bởi yếu tố đã biết rõ đó là các poly photphat và vòng meta photphat tránh khép
vòng nhờ sự khử điện tích âm của nhóm PO2,5 phân nhánh trên các nhóm PO43-
tích điện âm của mạch làm cho các vị trí của nhánh nhậy cảm cao thoát khỏi sự
thuỷ phân.
Khuynh hướng tương tự để tránh tạo mạch nhánh có thể xảy ra đối với các
photphat nhôm vì vậy mà tát cả các dạng dung dịch có khối lượng phân tử cao
hơn đều có thể tồn tại ở dạng mạch không phân nhánh, mạch thẳng (one-
dimension) tồn tại trước khi nó bị kết tủa. Điều này cũng ngăn cản quá trình tạo
thành photphat đậm đặc thay cho các dạng pht phát nhôm. Điều quan trọng cần
chú ý là điều kiện về độ axit ban đầu cũng được đặt ra với quá trình tổng hợp
các rây phân tử phốtphat nhôm. Giá trị pH thay đổi trong quá trình tổng hợp,
dựa trên sự thay đổi này có thể thấy rằng trong quá trình tổng hợp photphat
nhôm thì đầu tiên cần phải tạo ra các dạng Polyme photphat nhôm trong dung
dịch sau đó chúng sẽ tự kết hợp lại với nhau tạo thành dạng cấu trúc khác nhau.
Đương nhiên là mắt xích Polyme photphat nhôm ban đầu có thể coi như tiền
thân cho quá trình tạo các loại Polyme photphat nhôm mạch khác nhau sau
này. ở đây giả thiết một kiểu kết hợp mới đối với quá trình tạo phốt phát nhôm
trong đó có một mạch ban đầu có thể tạo các cấu trúc 1D đến 3D và sự tồn tại
của nó đã được chứng minh bằng thực nghiệm. Các ví dụ đã được nêu ra bởi sự
thuỷ phân và ngưng tụ sảy ra ở mạch đầu tiên, đó chỉ là một trong số ít các
mạch có thể được tạo thành theo cách này.
1.3.4.1 Mạch cơ sở (Parent chain)
Cấu trúc đầu tiên nhận được trong quá trình tổng hợp Polyme photphat
nhôm khi sử dụng hệ dung môi tetraetylen glycol (TEG) là dạng mạch thẳng 1
chiều (1D) có chứa các ion cân bằng điện tích trietylamonium. Cấu trúc này
giống với cấu trúc mà Jones đưa ra khi ông sử dụng dung môi 2-butanol [20].
Từ hệ dung môi TEG cũng nhận được cấu trúc dạng mạng lưới anion trong đó
có chứa các ion trietylamoni. Khi xem xét kỹ cấu trúc loại này, một số nhà
nghiên cứu đã nhận thấy trong thành phần của nó bao gồm các mạch thẳng liên
kết với các dạng mắt xích khác nhau. Các tác giả đã giả thiết rằng các kiểu mắt
xích tạo thành sau được sinh ra từ qúa trình thuỷ phân và ngưng tụ của photphat
nhôm mạch thẳng. Rất nhiều kiểu cấu trúc khác nhau kết tinh trong hệ thống
TEG khi nước được thêm vào như một chất phụ gia. Các cấu trúc mới này cũng
được tạo thành từ những cấu trúc cơ sở ban đầu.
Nghiên cứu về cấu trúc của photphat nhôm được tạo thành từ các hệ khác
nhau cho phép các nhà nghiên cứu hiểu được quá trình tạo thành các kiểu cấu
trúc khác nhau từ mạch cơ sở. S.Oliver và A. Kuperman đã xây dựng một mô
hình theo đó các kiểu cấu trúc mạng khác nhau có thể tạo thành nhờ qúa trình
thuỷ phân và ngưng tụ từ một mạch cơ sở, tuy nhiên sự tồn tại của mạch cơ sở
còn bí ẩn mãi tới khi một dạng cấu trúc của tinh thể giả thiết có mặt và đã được
xác định bằng thực nghiệm, điều đó có nghĩa là cấu trúc một chiều được
chuyển hoá nhờ nhiệt độ thành cấu trúc hai chiều dạng mạng lưới có lỗ xốp.
Mạch cơ sở là một dạng cấu trúc mạch thẳng, kết tinh trong hệ TEG-
Trietylamin bao gồm vòng bốn cạnh Al2P2 liên kết với nguyên tử Al (III) ở các
trung tâm, hai cầu nối photphat kép xuất hiện ở mỗi vòng 4 cạnh (hình 2a).
Mạch cơ sở chỉ tạo tinh thể trong một số trường hợp đặc biệt của nồng độ các
chất và nhiệt độ phản ứng. Mạch thẳng là dạng cấu trúc bền nhất của các dạng
Polyme photphat nhôm, trong đó chỉ chứa một vị trí Al(III) và P(V). Sự phân
bố đặc trưng các vòng tứ diện giao nhau tồn tại trong các loại ô xít khác nhau
giống như trong mạch borosilicate của khoáng garrelsite và trong các khoáng
photphat kẽm. Điều quan trọng là cấu trúc mạch cơ sở cũng được tách ra trong
một hệ dung dịch trong đó etylen-diamin được dùng làm chất nền. Điều này
cho thấy rằng kiểu cấu trúc này cũng có thể được tạo thành trong một hệ dung
dịch, hệ này chính là một thành phần quan trọng của kiểu cấu trúc này.
Các nguyên tử Al ở trung tâm của tứ diện được liên kết hoàn toàn với các
nhóm photphat. Sự phân bố này tương tự với phân bố trong các ion polyoxo
đồng thể và dị thể. Ví dụ nguyên tử Al ở trung tâm trong ion Keggin chỉ có bốn
mặt trong khi đó tất cả các nguyên tử Al bên ngoài có tám mặt. Tương tự các
nhóm photphat có khuynh hướng tạo cầu nối bậc 2 hoặc bậc 3 với các trung
tâm kim loại trong cấu trúc của hợp chất vô cơ ví dụ như trong các photphat
của Molypden, Vanadi và Asenat. Sự ưu tiên của nhóm Al (III) khi được bao
quanh bởi 4 nhóm photphat. Ta có thể coi đây là đơn vị cơ sở ban đầu trong
quá trình hình thành mạch cơ sở để rồi từ đó tạo nên các vật liệu khác nhau
trong các khoáng.
1.3.4.2 Sự phát triển của mạch
Mạch là cơ sở là sản phẩm của quá trình thuỷ phân các liên kết Al-O và
P-O trong hệ dung dịch, thậm chí trong phần lớn các trường hợp không phải hệ
dung dịch quá trình vẫn xảy ra khi ta thêm một lượng nước đủ cho quá trình
thuỷ phân. Tuỳ thuộc vào đô axit hay bazơ mà quá trình thuỷ phân có thể cắt
đứt liên kết Al-O hay P-O và tạo thành các nhóm AlOH hoặc POH (hình 1.2
phần b).
Hình1.2: Sự biến đổi mạch cơ sở khi thuỷ phân
Màu sắc các nguyên tử: trắng (O), đỏ (P), xanh (Al)
OH-/H+
H2O
- H2O
a) b)
OH-/H+
H2O
-H2O
c)
d)
c)
Do các mạch Polyme photphat nhôm trong dung dịch có độ linh động cao,
thông thường ở nhiệt độ tổng hợp cao. Quá trình quay và dịch chuyển nhanh
xảy ra xung quanh liên kết Al-O-P không bị thuỷ phân (hình 2b). Quá trình
quay đã làm cho các nhóm AlOH và POH tiến lại gần nhau hơn (hình 2c), khi
đó các mạch bên trong sẽ ngưng tụ với nhau và tách các phân tử nước (hình 1.2
phần d).
Theo cách này thì hai vòng 4 cạnh có chung một góc sẽ chuyển thành hai
vòng 4 cạnh chung một cạnh. Cũng cần chú ý rằng quá trình biến đổi ngược lại
cũng diễn ra tương tự như đã chỉ ra theo chiều mũi tên trên hình 2. Nhóm
photphat cuối cùng liên kết với nguyên tử nhôm có thể còn lại hoặc bị đứt ra
khỏi mạch bởi quá trình thuỷ phân, điều này cho phép quá trình thuỷ phân xảy
ra ở các hợp chất với cấu trúc khác nhau. Nếu quá trình thuỷ phân xảy ra như
đã mô tả ở hình 1.2, quá trình cắt mạch rồi khép vòng sẽ tiếp tục và có thể mô
tả như ở hình 1.3.
Mỗi liên kết Al-O-P trong vòng 4 cạnh kề bên ký hiệu 1 đến 4 (hình
1.2phân d) sẽ bị thuỷ phân. Sự thuỷ phân sẽ xảy ra ở vị trí 3 hoặc 4 dẫn tới
mạch bị mở ra (hình 1.3). Nếu mạch bị mở ở vị trí 1 và quay xung quanh
nguyên tử O sẽ mang nhóm AlOH tới gần vị trí nhóm POH cũng được ký hiệu
là 1 (trong hình 1.2 phần d, nhóm POH 1 nằm dưới nhóm POH21) do đó vòng 4
cạnh thứ 3 tham gia tạo liên kết để tạo dạng mới trong đó 3 vòng 4 cạnh có một
cạnh chung nhau được gọi là dạng "cis" (hình 1.3 phần a).
Hình1.3: Bước tiếp theo trong quá trình thuỷ phân và biến đổi mạch cơ sở
a)Dạng cis mở vòng ở vị trí 1 và kết hợp nhóm AlOH với nhóm POH1
a)Dạng trans mở vòng ở vị trí 2 và kết hợp nhóm AlOH với nhóm POH21
a)Dạng zigzag mở vòng ở vị trí 2 và kết hợp nhóm AlOH với nhóm
POH22.
Đối với trường hợp thuỷ phân và cắt mạch ở vị trí 2, qúa trình quay có thể
mang nhóm AlOH gần tới một hoặc hai nhóm hydroxy, ký hiệu 21 và 22 tương
ứng hình 3b và 2c. Quay theo một chiều (+109,50C) sẽ kết nối mạch với nhóm
photphat 21 và dạng Polyme tạo thành trong đó tất cả các vòng 4 cạnh chung
nhau một cạnh là "trans" (Hình 3b). Quay theo chiều ngược lại (-109,50C) sẽ
dẫn đến ngưng tụ nhóm photphat 22 và tạo thành dạng "ziczac" (Hình 3c).
Đối với cấu trúc dạng "trans", quá trình có thể tiếp tục xảy ra mà không gặp
cản trở nào (hình 4a). Tương tự như vậy cũng xảy ra đối với mạch "ziczac"
(hình 4b). Tuy nhiên trong trường hợp cấu trúc dạng "cis", mạch phải được uốn
cong theo hướng ngược lại để tránh sự gập ngược trở lại của bản thân mắt xích,
điều này sẽ dẫn tới một mạch "cis-trans" luân phiên cho nhau (hình 4c). Tuy
nhiên chỉ một số ít mạch "cis-trans" là thích hợp cho quá trình tạo Polyme
photphat nhôm.
Với việc xem xét tỉ mỉ thì ý nghĩa của quá trình mở và đóng vòng phát triển
theo trục của mạch cơ sở cho thấy rằng đối với mạch ziczac phải có một số lẻ
vòng 4 cạnh trên một nhánh của mạch Polyme (hình 4d).
Hình 1.4: Các kiểu mở rộng của mạch Polyme từ hình 1.2
Theo quá trình này thì có rất nhiều trạng thái chuyển dịch tự do khác nhau
của mạch cơ sở. Ví dụ các vòng 4 cạnh có chung góc có thể tham gia vào trong
quá trình và giữ nguyên trạng thái của nó (hình 5a-e). Một ví dụ khác chỉ bao
a) b)
c)
d)
gồm sự mở vòng của các vòng 4 cạnh dẫn tới sự tạo thành hợp chất trung gian
mạch mở như đã nói ở hình trên (hình 5a), hơn thế nữa mỗi kiểu mạch tạo
thành về nguyên tắc có thể hình dung như một tập hợp vô hạn các mắt xích vì
vậy các dạng mạch tạo thành có thể tồn tại với bất kỳ chiều dài khác nhau nào
như đã chỉ ra ở hình 5b và 5c...
Hình 1.5: Các dạng khác nhau của sự phát triển mạch
Sự kết hợp của các quá trình này cũng có thể xảy ra đối với mắt xích đơn tạo
thành vô số kiểu mạch hỗn hợp ví dụ như ở hình 5e. Các mạch Polyme tạo
thành ở hình 5 chỉ là một số ít trong vô số dạng có thể hình thành theo cơ chế
này.
Quá trình ngưng tụ mạch bên trong của các mạch đã bị biến đổi về cấu trúc
cũng có thể xảy ra dẫn tới hình thành Polyme dạng 6 vòng photphat liên kết với
4 vòng (hình 5f) hoặc kết hợp các dạng Polyme 5 vòng chung cạnh thành dạng
3 vòng chung góc (hình 5g), các dạng này đóng vai trò hết sức quan trọng cho
quá trình phát triển mạch về sau.
Hình 1.6: Các dạng khác nhau của sự phát triển mạch
Với vô số sự kết hợp có thể như vậy, chúng tôi đưa ra dạng thuật ngữ như đã
cho ở bảng 4.
Chỉ đơn vị lặp lại của mạch thông thường cần phải được mô tả và mỗi dạng
đơn vị lặp lại cần được ký hiệu riêng cho kiểu của mạch và một số chỉ số bên
dưới biểu thị cho chiều dài của nó tượng trưng cho số nguyên tử Al hay số vòng
4 cạnh. Mặc dù các quá trình biến đổi cấu trúc có thể xem như sự phát triển
mạch theo một chiều, tuy nhiên ta cũng dễ thấy là quá trình này có thể xảy ra
cùng một lúc ở khắp moi vị trí dọc theo chiều dài bên trong của mạch Polyme,
có thể chỉ cần một khoảng thời gian ngắn trong qúa trình tổng hợp là đủ để tạo
ra rất nhiều loại Polyme photphat nhôm.
Bảng 1.5: Các đơn vị lặp lại trong mạch Polyme photphat nhôm.
On Dạng n vòng 4 cạnh có chung góc của mạch chưa bị thủy phân
In Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng trans
(Tp)n
Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng trans với các
nhóm photphat nằm trên các nguyên tử Al ở trung tâm
Cn Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng cis-trans
(Cp)n
Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng cis-trans với
các nhóm photphat nằm trên các nguyên tử Al ở trung tâm
On
Dạng n vòng 4 cạnh có chung góc đã mở vòng (và mất đi các
nhóm photphat năm trên nguyên tử Al ở trung tâm)
(Op)n
Dạng n vòng 4 cạnh có chung góc đã mở vòng với các nhóm
photphat nằm trên các nguyên tử Al ở trung tâm
[Z(a,b)]n
Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng zigzag với các
tiểu phân a và b tương ứng trên một đoạn mạch
[Z(a,b)p]n
Dạng n vòng 4 cạnh có chung cạnh cấu trúc dạng zigzag với các
tiểu phân a và b tương ứng trên một đoạn mạch và các nhóm
photphat năm trên nguyên tử Al ở trung tâm
Ví dụ như quá trình tổng hợp ALPO4 ở nhiệt độ cao hay sóng cực ngắn chỉ
yêu cầu một vài giây. Cũng cần phải nhớ rằng mặc dù quá trình biến đổi mạch
như đã chỉ ra từ hình 2 đến hình 5 có vẻ như phúc tạp nhưng cũng chỉ bao gồm
một số rất ít hoạt động của các đơn vị bất đối xứng.
Cấu trúc của Polyme trên hình 5g bên phải có ý nghĩa rất quan trọng vì trên
thực tế cấu trúc này tồn tại và đã xác định được loại liên kết còn chưa rõ trong
cơ chế hình thành và phát triển mạch. Như đã biết cầu nối đơn các nhóm
photphat P(OAl)O3 chiếm vị trí trên các vòng 4 cạnh có một cạnh của cấu trúc
cis-trans. Chỉ duy nhất cấu trúc tinh thể Polyme photphat nhôm có chứa nhóm
photphat cầu nối đơn là trường hợp mohome Al(PO4)4. Dễ thấy rằng các nhóm
photphat ở đầu mạch không bền vững sẽ tương tác với các nhóm phốt phát của
mạch khác vì thế sẽ khoá không cho mạch tiếp tục phát triển. Thậm chí trong
cấu trúc này các mắt xích sắp xếp vào trong các lớp màng và xảy ra sự kích
thích nhiệt chuyển pha ở trạng thái rắn thành cấu trúc lớp màng. Scott Oliver và
các cộng sự [13] đã xác định được cấu trúc lớp màng tinh thể này bằng nhiễu
xạ tia X.
Chúng ta coi sự biến đổi từ mạch sang màng là cơ sở hết sức quan trọng cho
việc hiểu biết về các loại Polyme photphat nhôm. Trước tiên mạch cơ sở bị thuỷ
phân trong dung dịch dẫn tới hình thành các loại cấu trúc mạch khác nhau, các
mạch này bị sonvat hoá và tương tác với các ion chất nền cation khử lực đẩy
tĩnh điện giữa các mạch Polyme cho phép chúng tạo thành tinh thể từ dung
dịch. Sự tập hợp đơn giản của các mắt xích nhờ các liên kết ion với chất nền
hoặc là các liên kết hydro giữa các mắt xích tạo thành cấu trúc dạng mạch
trong khi đó sự ngưng tụ các mắt xích với nhau sẽ tạo lớp màng xốp hoặc cấu
trúc dạng khung mở. Sự kết tủa nhanh của các mắt xích sẽ dẫn đến tạo thành
vạt liệu vô định hình có dạng như lớp màng với các mắt xích ngắn và sắp xếp
rất thiếu trật tự. Nếu tiếp tục đốt nóng pha này có thể cho phép các mắt xích
khôi phục lại, các liên kết sẽ được thiết lập và tạo nên dạng cuối cùng là cấu
trúc tinh thể.
Trong quá trình khôi phục lại cấu trúc cuối cùng được điều khiển bởi cả
kiểu mạch và các tính chất của nền hữu cơ vì vậy chất nền chỉ là một phần
nguyên nhân của cấu trúc nhận được, điều này đã làm sáng tỏ vai trò thường là
chưa rõ ràng của chất nền. Sự độc lập cũng như phụ thuộc của chất nền có thể
quan sát thông qua quá trình tạo Polyme photphat nhôm.
Sự biến đổi trạng thái rắn các dạng cấu trúc của pôlyme phốt phát nhôm đã
biết như AlPO4-5 thành AlPO4-8 (hình 7) và AlPO4-C thành AlPO4-D (hình 8)
cũng như các khoáng alumino-phosphate tạo thành bằng quá trình chuyển pha
ở trạng thái rắn cho ta thấy rõ hơn điều này.
Hình 1.7: Sự biến đổi cấu trúc từ AlPO4-5 (a) sang AlPO4-8 (b)
Hình 1.8: Sự biến đổi cấu trúc từ AlPO4-C (a) sang AlPO4-D (b)
Các dạng chuyển pha này cũng bao gồm quá trình ngưng tụ cấu trúc được
khôi phục của quá trình thuỷ phân và được hiểu như dạng biến đổi từ mạch
sang mạch. Thực tế quá trình chuyển pha ở trạng thái rắn đóng một vai trò rất
a) b)
b)
a)
quan trọng trong việc tạo thành các mạch thẳng, các màng và cấu trúc mạng
không gian như những mô tả chi tiết dưới đây.
Kiểu mạch thẳng gồm các Polyme photphat nhôm khi tỷ lệ P: Al năm trong
khoảng 2,0 và 1,0 đối với hầu hết các cấu trúc của Polyme. Giá trị lớn nhất
bằng 2,0 chỉ xảy ra đối với Polyme mạch thẳng ban đầu và trong quá trình thuỷ
phân thì tỉ lệ P:Al giảm xuống do mất đi các nhóm photphat. Mức độ thuỷ phân
càng lớn thì sự cắt đứt các nhóm photphat ra khỏi mạch Polyme ban đầu càng
nhiều và sẽ ngưng tụ lại thành màng hoặc khung cứng. Nếu tỷ lệ P:Al càng
thấp thì khả năng tạo Polyme photphat nhiều chiều càng cao.
Khi tỷ lệ P:Al có giá trị không thay đổi bằng 1 thì Polyme tạo thành có cấu
trúc khung cứng. Tất cả các loại Polyme photphat nhôm tạo thành cần tránh tạo
liên kết trực tiếp Al-O-Al giữa các cấu trúc bốn mặt AlO4 mà đối với các zeolit
điều này đã được biết tới trong quy tắc của Lowenstein [25]. Các tính toán mới
đây về năng lượng toạ thành Polyme photphat nhôm cho thấy quy tắc này hoàn
toàn đúng đắn. Không có liên kết dạng P-O-P giữa các tứ diện trong cấu trúc
của Polyme photphat nhôm, quy luật này đã được thừa nhận khi nghiên cứu cấu
trúc mạch cơ sở và cho thấy sự thay thế các trung tâm của Al và P. Số lượng tối
đa các nhóm photphat có thể tách khỏi cấu trúc Polyme khi thuỷ phân đó là
trong mạch khi đó phải có một trong số hai nhóm photphat trên mỗi vòng bốn
cạnh vì vậy tỉ lệ P: Al=0,1 là giới hạn. Trên cơ sở các lý luận vừa nêu ta thấy
rằng trong quá trình điều chế Polyme photphat nhôm nên giữ tỷ lệ P: Al nằm
trong khoảng 1 và 2 [26] tương ứng với quá trình tạo thành cấu trúc mạch
thẳng, cấu trúc màng và cấu trúc khung của Polyme.
1.3.4.3 Các quá trình biến đổi từ mạch thẳng sang màng và từ mạch thẳng
sang màng rồi sang dạng khung của Polyme
Phần trên đã giới thiệu về các cấu trúc có thể tồn tại trong Polyme photphat
nhôm và điều kiện hình thành các cấu trúc đó. Phần này ta sẽ đi sâu vào cơ chế
để lý giải sự hình thành các dạng cấu trúc khác nhau đó. Sau đây ta hãy xem
cấu trúc loại màng của AlPO4-5 có dạng [Al3P4O16]3-. 3[R+] (hình 9)
Hình 1.9: Quá trình tạo cấu trúc màng AlPO4 -5
a) Mắt xích dạng trans
b) Quá trình ngưng tụ để tạo mạng các vòng 6 và 4 cạnh
c) Quá trình ngưng tụ giữa các mạch vừa tạo ra để tạo thành cấu trúc hai
chiều có chứa các vòng 12 cạnh.
Sự ngưng tụ giữa các mạch thẳng dạng [Al3P4O16]3-(hình 8a) thành mạch có
chứa các vòng 6 cạnh móc nối với nhau (hình 8b) rồi kết hợp lại nhanh chóng
với nhau để tạo mạng 2 chiều (hình 8c). Sự dịch chuyển các đỉnh và ngưng tụ
các lớp màng bên trong dẫn đến tạo thành cấu trúc mạng AlPO4-5, tuy nhiên
kiểu lý giải như ở hình 8 không nhất thiết phải tạo thành AlPO4-5. Thay cho
các mắt xích được cho ở hình 8a là nguyên nhân tạo nên lớp màng AlPO4-5 có
thể kết hợp các mạng trung gian để tạo nên các mạng không gian mới. Việc lựa
trọn lớp màng AlPO4-5 hoặc lớp mạng AlPO4-5 làm sản phẩm cuối cùng được
xác định bằng các thông số như các điều kiện tổng hợp và các tính chất của
chất nền. Trong trường hợp cấu trúc dạng màng AlPO4-5 (hình 8c), hai dạng
cấu trúc khung được thay thế bằng nguyên tử kim loại MAPO-46 có thể được
xem như hai lớp màng kết nối với nhau sắp xếp theo kiểu lưng với lưng với sự
phát triển mạch theo các hướng đối diện. Một lớp màng có cấu trúc kiểu
AlPO4-5 trong khi đó lớp màng khác có chứa các vòng 6 cạnh trong đó thay đổi
cho các trung tâm của photpho tại các vòng 6 cạnh là liên kết giữa các nguyên
tử ôxy với các nguyên tử kim loại trong mạch. Lớp màng kép này liên kết trở
lại với hai lớp màng bên cạnh qua các nhóm photphat và cầu nối kim loại tạo
nên mạng không gian. Cấu trúc mạng CoAPO-50 cũng có thể coi trường hợp
ngoại lệ với cấu trúc AlPO4-5. Trong trường hợp này nguyên tử Co liên kết phía
đối diện với các vòng 6 cạnh của các nhóm photphat và liên kết với các mạch
photphat của lớp màng tiếp theo
Một kết quả khác về quá trình biến đổi là cấu trúc dạng lớp của [Al3P4O16]3-
. Mắt xích [Al3P4O16]3- được cho ở hình 5f bên phải được tạo thành từ một loại
mắt xích ở dạng trans nhờ sự mất đi các nhóm photphat cuối cùng và ngưng tụ
giữa các mắt xích phía bên trong. Sự liên kết giữa các mắt xích nhờ việc mất
tiếp tục các nhóm photphat tạo nên cấu trúc dạng lớp được miêu tả ở hình 9.
Có một điều thú vị là sự sắp xếp các vòng 4,6 và 8 cạnh là như nhau, tương
tự như đã xảy ra ở cấu trúc AlPO4-12 dọc theo trục a khi ta thừa nhận là các
vòng 6 cạnh trong cấu trúc này cũng được tạo thành do sự liên kết của các
nhóm photphat có vai trò làm cầu nối. Đối với lớp màng AlPO4-5, các lớp
màng này có thể liên kết chéo với nhau để tạo cấu trúc AlPO4-12 nhờ việc mất
đi các nhóm photphat cầu nối hoặc các mắt xích ban đầu có thể khép vòng lớp
màng để trực tiếp tạo thành AlPO4-12.
Hình 1.10: Cấu trúc của [Al3P4O16]3- từ các vòng 6 cạnh.
Sự ngưng tụ của các mắt xích cho ở hình 5f bên trái khi mất đi các nhóm
photphat cuối cùng và nước dẫn đến tạo thành cấu trúc lớp có chứa các
vòng 8 cạnh.
1.3.4.4 Quá trình biến đổi từ cấu trúc mạch thành cấu trúc dạng khung.
Một ví dụ về sự liên kết trực tiếp giữa các mạch để tạo cấu trúc dạng khung
được cho ở hình 10. Qúa trình tạo cấu trúc dạng khung có thể giải thích là do
sự hợp nhất của hai kiểu mạch.
Mạch cơ sở liên kết với hai mạch ziczac thông qua các vòng 6 cạnh (hình
10a). Như vậy theo mô hình này thì với một mạch cơ sở cần 2 mạch ziczac để
tạo cấu trúc dạng khung. Hình 10b là sự ngưng tụ giữa 3 mạch ziczac để tạo
thành hai mạch có chứa vòng tám cạnh. Đơn giản là mạch cơ sở hình 11a và
các mạch ziczac [Al4P4O17]2- (hình 4b).
Hình 1.11: Quá trình ngưng tụ mắt xích để tạo cấu trúc dạng khung
a) Hai mạch ziczac liên kết với mạch cơ sở tạo các vòng 6 cạnh trong cấu
trúc dạng khung
b) Ngưng tụ giữa ba mạch ziczac để tạo thành hai mạch có chứa vòng 8
cạnh chia cắt các mạch chính.
1.3.4.5 Quá trình khoá mạch
Vì hai hoặc nhiều mạch có thể kết hợp với nhau để tạo nên cấu trúc mới, do
vậy có thể sảy ra trường hợp là chúng có thể ngưng tụ với ôxit nhôm khác hoặc
với các dạng dung dịch photphat nhôm có trong hệ. Bậc và trạng thái kết hợp
của Al(III) như đã biết phụ thuộc nhiều vào giá trị pH hay nói cách khác là các
phân tử photphat nhôm. Các dạng như vậy có thể được tạo thành giữa các mắt
xích dưới các điều kiện tổng hợp thông thường. Một ví dụ là cấu trúc dạng
khung của Aluminophotphat của thiếc (hình 12).
Hình 1.12: Quá trình hình thành cấu trúc dạng khung với các vòng 8 cạnh
bị xoắn (bên phải) từ các dạng mạch hở.
Các nhóm photphat cuối cùng có khuynh hướng thoát ra và tiến lên phía
trên (trung tâm, bên trái) và phía dưới (trung tâm, bên phải) của cấu trúc
kép 8 mặt Al2O10.
Cấu trúc AlPO4 trong trường hợp đóng mạch được tạo thành duy nhất từ các
đơn vị dạng 8 mặt AlO6 và dạng tứ diện PO4 (hình 12). Bốn đỉnh của tám mặt
của nhôm được chiếm bởi các nguyên tử ôxi của các nhóm photphat bên cạnh.
Cấu trúc dạng khung này có thể đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_ung_dung_polyme_phot_phat_nhom_trong_che.pdf