DANH MỤC CÁC HÌNH .2
MỞ ĐẦU .4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG VÀ SỐ LIỆU RADAR BIỂN.6
1.1. Giới thiệu về hệ thống radar biển .6
1.2. Số liệu radar biển.8
1.3. Một số ứng dụng của radar biển.9
1.4. Các nghiên cứu chế độ dòng chảy vùng biển Vịnh Bắc Bộ .11
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
.15
2.1. Phần mềm tổng hợp trường dòng chảy 2 chiều.15
2.1.1. Tổng hợp dòng chảy 2 chiều từ dữ liệu dòng chảy hướng tâm.15
2.1.2. Phương pháp nội suy đường ranh giới.21
2.2. Mô hình phân tích và dự báo vật thể trôi.23
2.2.1. Giới thiệu chung .23
2.2.1. Mô hình quỹ đạo La-grăngian .24
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU CHẾ ĐỘ DÒNG CHẢY VÙNG BIỂN VỊNH
BẮC BỘ TỪ DỮ LIỆU RADAR BIỂN.27
3.1. Phân tích số liệu.27
3.1.1. Đánh giá số liệu quan trắc dòng chảy bằng radar biển.27
3.1.2. Xây dựng miền lưới tính và dữ liệu đầu vào .30
3.1.3. Tính toán tổng hợp dòng chảy 2 chiều .32
3.2. Kết quả tính toán, phân tích dòng chảy trung bình tháng vùng Vịnh Bắc
Bộ.34
CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU DỰ BÁO THỬ NGHIỆM QUỸ ĐẠO VẬT THỂ
TRÔI.43
4.1. Nghiên cứu thử nghiệm.43
4.2. Sơ đồ quỹ đạo vật thể trôi sử dụng số liệu dòng chảy trung bình tháng
Radar biển.43
4.3. Sơ đồ quỹ đạo vật thể trôi sử dụng số liệu dòng chảy thời gian thực từ
radar biển .47
KẾT LUẬN .54
TÀI LIỆU THAM KHẢO .56
Tiếng Việt.56
60 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ứng dụng số liệu radar biển vùng vịnh bắc bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trắc dòng chảy
Dòng chảy được quan trắc tại mỗi trạm radar là trường dòng chảy hướng tâm
với phạm vi quan trắc tối đa là 300 km, tần suất quan trắc 1 giờ/lần. Các dữ liệu
dòng chảy này được truyền về tạm trung tâm và xử lý để tổng hợp thành trường
dòng chảy 2 chiều trong phạm vi quan trắc của hệ thống trạm radar.
Hình 3: Trường dòng chảy hướng tâm quan trắc lúc 03 giờ ngày 03 tháng 12
năm 2014 tại trạm Nghi Xuân
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ tập trung vào nghiên cứu
ứng dụng số liệu dòng chảy từ quan trắc bằng radar.
1.3. Một số ứng dụng của radar biển
Dự báo các điều kiện thời tiết trên biển:
Số liệu radar HF có thể được sử dụng trong việc dự báo điều kiện thời tiết
biển (kết hợp với dự báo thời tiết nói chung) cũng như nghiên cứu các điều kiện,
10
trạng thái bề mặt biển trong bão, điều mà trước đây với các thiết bị hải văn đã có rất
nhiều khó khăn hoặc không thực hiện được.
Phục vụ cho công tác đánh bắt thủy sản
Trên cơ sở số liệu từ radar HF ta có được bản đồ hướng và tốc độ dòng chảy
biển với những vùng nước xoáy. Kinh nghiệm cho thấy, tâm của những vùng nước
xoáy này hội tụ rất nhiều cá và các loại hải sản khác. Vị trí của những tâm xoáy
nước này được xác định bằng kinh độ và vĩ độ và sẽ được dự báo cho ngư dân trong
việc đánh bắt hải sản. Tại Mỹ và một số nước đã thực hiện dự báo vùng tập trung cá
cho thấy, đánh bắt cá tại tâm xoáy nước cho sản lượng nhiều gấp 7-8 lần so với
những vùng nước lân cận.
Phục vụ cho đánh giá ô nhiễm và lan truyền ô nhiễm biển
Một ví dụ cho thấy tác dụng của radar HF trong việc cảnh báo ô nhiễm biển
do chất thải ra biển. Năm 2003, thành phố Santa Rosa (Mỹ) dự kiến thải nước thải
ra biển tại Vịnh Bodega. Các nhà khoa học đã sử dụng số liệu thu được từ 3 trạm
radar HF trong một tuần để mô hình hóa sự lan truyền của chất thải ra biển. Từ mô
hình chuyển động (lan truyền) của chất thải cho thấy, thay vì chất thải đi thẳng ra
biển, nó lại di chuyển dọc theo bờ biển đến khu vực bảo tồn sinh thái biển, nơi có
nhiều dải san hô và như vậy, sẽ có nguy cơ tàn phá khu vực sinh thái vùng biển này.
Từ kết quả nghiên cứu trên, chính quyền thành phố đã cho đình chỉ dự án thải nước
thải ra biển như ban đầu dự kiến. Mô hình này cũng được áp dụng để đánh giá sự
lan truyền của dầu tràn trên biển.
Ứng dụng trong cứu hộ cứu nạn trên biển
Một ví dụ khác cho thấy, ứng dụng hữu hiệu của radar HF trong cứu hộ cứu
nạn trên biển. Trên bản đồ hướng và dòng chảy biển của Radar HF đã xác định
điểm một con thuyền bị tai nạn và phát tín hiệu cấp cứu. Sau 30 giờ con thuyền đã
trôi đi một quãng xa so với vị trí ban đầu và cần phải xác định hiện tại thuyền đang
ở vị trí nào để có thể cứu hộ. Như vậy, với số liệu dòng chảy và sóng thu được, tiến
hành xác định hướng và dòng chảy bề mặt biển cùng với phần mềm của radar HF
11
(Codar Leeway) sẽ xác định được vị trí gần sát với thực tế di chuyển của con thuyền
và việc cứu hộ cứu nạn trên biển dễ dàng hơn.
Ứng dụng trong điều hành tầu thuyền qua lại eo biển, cảng
Tại vùng Tokyo và vịnh Sagami, dòng chảy biển rất mạnh và thay đổi liên
tục, trong khi có đến 90% tàu thuyền phải qua lại khu vực này. Nếu không có chỉ
dẫn và điều hành hàng hải thì sẽ gây nguy hiểm cho tàu bè qua lại. Sử dụng 02 radar
HF được lắp đặt tại đây, cung cấp số liệu thời gian thực (real-time) về tốc độ và
hướng dòng chảy biển, từ đó có sự điều hành tàu bè qua lại đảm bảo an toàn và hiệu
qủa cao nhất. Nhiều cảng biển và căn cứ hải quân trên thế giới sử dụng radar HF
vào mục đích này.
Ứng dụng trong phối hợp để tăng độ chính xác dự báo số trị
Số liệu radar biển được sử dụng kết hợp mô hình số trị trong việc đồng hóa
số liệu để tạo trường ban đầu cho các mô hình động lực. Các trường ban có độ
chính xác cao góp phần tăng độ chính xác của các kết quả dự báo từ mô hình số trị.
1.4. Các nghiên cứu chế độ dòng chảy vùng biển Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây của biển, rộng từ 105o36’E đến 109o55’E trải dài
từ vĩ tuyến 17oN đến vĩ tuyến 21oN, diện tích khoảng 160.000 km2, chu vi khoảng
1.950 km, trong đó phía bờ Việt Nam là 740 km, chiều dài vịnh là 496 km, nơi rộng
nhất là 314 km. Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi bờ biển miền Bắc Việt Nam ở phía
tây, bờ biển Nam Trung Hoa ở phía bắc trong đó có bán đảo Lôi Châu và đảo Hải
Nam. Bờ biển khúc khuỷu với khoảng hơn 2.300 hòn đảo lớn nhỏ, tập trung chủ yếu
ở phía ven bờ Việt Nam. Đặc biệt đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam nằm khoảng giữa
vịnh với diện tích 2,5 km2 cách đảo Hòn Dấu, Hải Phòng khoảng 110 km.
Khối nước của Vịnh Bắc Bộ chủ yếu giao lưu với Biển Đông qua cửa phía
nam của vịnh rộng chừng 230 km và sâu hơn 100 m. Một phần nhỏ nước được trao
đổi qua eo biển hẹp (18 km) và không sâu (20 m) Quỳnh Châu. Do độ sâu của biển
không lớn nên hoàn lưu trong vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan được hình thành chủ yếu
12
do tác động của trường gió thịnh hành trên mặt biển. Tuy nhiên với sự liên kết tương
đối chặt chẽ với Biển Đông, quá trình trao đổi nước qua cửa vịnh cũng gây nên tính
đa dạng trong phân bố và biến động của hoàn lưu mùa trong các vịnh. Tính đa dạng
này còn bị chi phối bởi sự khác biệt của quá trình tương tác biển khí, chủ yếu là
tương tác nhiệt, trên các vịnh phụ thuộc vào vị trí địa lý của chúng.
Đặc điểm quan trọng của hoàn lưu trong vịnh Bắc Bộ là sự tồn tại trong cả
năm của dòng chảy ven bờ tây vịnh. Điều này đã được khẳng định không những bằng
các kết quả phân tích số liệu khảo sát từ những năm 1960 (Hình 1, Báo cáo kết quả
điều tra tổng hợp vịnh Bắc Bộ, 1965) [2] mà còn được mô phỏng bằng kết quả mô
hình hoá 3D trong mộ số công trình thuộc các đề tài cấp bộ và cấp nhà nước. Bên
cạnh hoàn lưu trong dạng xoáy thuận nêu trên, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm
cũng như mô hình hoá đều cho thấy sự hiện diện của một xoáy nghịch trên vùng biển
phía bắc vịnh trong mùa hè..
Hình 4: Sơ đồ dòng chảy vịnh Bắc Bộ trong mùa đông theo Báo cáo kết quả
điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ (1964) [2]
13
Hình 5: Sơ đồ dòng chảy vịnh Bắc Bộ trong mùa hè theo Báo cáo kết quả
điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ (1964) [2]
Các bản đồ hoàn lưu vịnh Bắc Bộ được thể hiện trong Atlas Quốc gia Việt
Nam (1999) [1], dựa trên cơ sở phân tích số liệu khảo sát nêu trên..
Nguyên nhân hình thành bức tranh hoàn lưu trong mùa hè trên vịnh Bắc Bộ
được mô tả trên đây có thể lý giải bằng sự phân hoá về hướng gió trên vịnh do hoạt
động kết hợp của áp thấp bắc Đông Dương và dải hội tụ nhiệt đới. Với hướng gió
thịnh hành đông-nam từ Bạch Long Vỹ đến Hải Phòng, Quảng Ninh, sự hình thành
hai xoáy đối lập dấu nằm hai phía bắc và nam hoàn toàn khẳng định vai trò của gió
trong mùa hè. Trong mùa đông, sự xâm nhập của dòng chảy Biển Đông góp phần
làm tăng cường dòng chảy đi về phía nam ven bờ phía tây vịnh.
Trong nghiên cứu của Ding và nnk [13], hoàn lưu tầng mặt Vịnh Bắc Bộ
14
trong các tháng mùa xuân, mùa thu và mùa đông tương tự như nhau. Trong các mùa
này nước từ phía phía nam đảo Hải Nam đi vào trong vịnh, men theo phía tây đảo
Hải Nam đi ngược lên phía bắc vịnh rồi vòng lại theo bờ đông của các tỉnh bắc và
bắc trung bộ thoát ra ngoài Vịnh Bắc bộ. Trong các tháng mùa hè hoàn lưu có
hướng ngược lại với 3 mùa còn lại của năm. Trong nghiên cứu này, hoàn các xoáy
thuận và xoáy nghịch ở trung tâm và phía bắc vịnh không được thể hiện rõ. Nguyên
nhân dẫn đến sự thiếu vắng của các hoàn lưu này có thể do số liệu thu thập về dòng
chảy chưa đủ để phân tích ra các đặc trưng quy mô nhỏ của hoàn lưu vùng biển này.
Hình 6: Sơ đồ hoàn lưu mùa vùng Vịnh Bắc Bộ 1960 -1962 (theo Ding và nnk) [13]
15
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phần mềm tổng hợp trường dòng chảy 2 chiều
2.1.1. Tổng hợp dòng chảy 2 chiều từ dữ liệu dòng chảy hướng tâm
Để tính toán véc tơ dòng chảy tổng cộng, sử dụng phần mềm Seasonde
Combine Suite Release 7 [9] được cung cấp bởi hãng CODAR. Phần mềm Combine
Suite tiêu chuẩn có thể tính được véc tơ dòng chảy tổng cộng từ 6 trạm radar, trong
khi phiên bản nâng cấp hiện nay có thể tính được véc tơ dòng chảy từ 24 trạm radar
với tốc độ tính toán nhanh gấp hai lần so với phiên bản tiêu chuẩn. Đây là phần
mềm với giao diện thân thiện có thể tạo được các dạng fie đầu radar dạng từ các
nguồn khác nhau. Phần mềm được thực hiện trên thuật toán như sau:
Bước đầu tiên để xác định lưới bao trùm khu vực là sử dụng chương trình
SDsetup để tạo file lưới đầu vào đối với phần mềm tạo véc tơ tổng cộng. Hình 7
minh họa một lưới hình chữ nhật tiêu biểu; tuy nhiên lưới tính để tổng hợp véc tơ
tổng cộng có thể có dạng khác và các điểm đặc biệt (ví dụ như các vị trí phao) có
thể được thêm vào. Các điểm đường bờ được chỉ ra trong hình 7 được đánh dấu X,
được nhận dạng và lưu trong file lưới bằng một kí tự đánh dấu đặc biệt.
Hình 7: Một lưới chữ nhật tiêu biểu qua diện tích vùng bao phủ của 3 trạm
radar từ xa. Các điểm đường bờ được đánh dấu x
16
Hình 8: Vị trí 2 trạm radar tại 2 điểm A và B. Điểm lưới G được bao quanh
bằng một vòng tròn vùng giao thoa chứa véc tơ hướng tâm và tại điểm này phương
pháp bình phương tối thiểu được sử dụng để tính véc tơ tổng cộng. Trên hình là các
véc tơ hướng tâm từ vị trí B.
Tại mỗi điểm lưới, ta muốn tính toán thành phần U, V (thành phân theo vỹ
hướng và kinh hướng) của véc vơ dòng chảy tổng cộng. Thông thường tại mỗi điểm
lưới có thể có một véc tơ dòng chảy xuyên tâm từ mỗi trạm radar được sử dụng để
tính U, V. Trên hình 8, các véc tơ xuyên tâm nằm dọc được xuyên tâm GA, GB.
Trên thực tế, một vòng tròn vùng giao thoa với bán kính cụ thể được vẽ tại mỗi
điểm lưới và các véc tơ xuyên tâm nằm trong vòng tròn được vẽ đó. Nếu góc giữa
hai véc tơ xuyên tâm từ 2 trạm khác nhau nhỏ hơn 10 độ thì véc tơ xuyên tâm đó bị
loại bỏ. Thành phần U, V trong véc tơ dòng chảy tổng cộng được tính bằng phương
pháp bình phương tối thiểu từ các véc tơ xuyên tâm trong vòng tròn vùng giao thoa.
17
Hình 9: Để đảm bảo sự chính xác trong việc tính véc tơ dòng chảy tổng cộng
tại các điểm lưới, ta phải áp dụng quy tắc với các góc và giữa các đường
xuyên tâm từ điểm lưới đối với các trạm radar.
Phương pháp bình phương tối thiểu không đúng khi các véc tơ vận tốc xuyên
tâm trong vòng tròn vùng giao thoa quá gần nhau hoặc song song. Với hai trạm
radar điều này xảy ra khi điểm lưới gần với đường giới hạn giao thoa của hai khu
vực (có thể gọi là vùng đường ranh giới) như điểm A trên hình 9 và vị trí xa so với
trạm radar như điểm lưới B.
Ta xác định giới hạn ổn định cho góc α, β (thông từ 20° đến 30°). Để tính
một véc tơ dòng chảy tổng cộng tại một điểm lưới, ta cần ít nhất một cặp véc tơ
xuyên tâm thỏa mãn > β. Vùng đường ranh giới được xác định bởi những điểm
lưới này thỏa mãn < α. Vùng đường ranh giới có thể được để lại khoảng trống
hoặc phép nội suy có thể được thực hiện hiện để lấp những khoảng trống này của
véc tơ dòng chảy tổng cộng.
18
Hình 10: Minh họa trường hợp khi đường ranh giới nằm ngoài vùng nước mở.
Đường ranh giới giữa các vị trí trạm radar được xác định bằng đường gạch dọc. Hai
đường vòng cung đại diện cho các đường biên của khu vực đường ranh giới.
Véc tơ dòng chảy tổng cộng S được chia thành thành phần và là
thành phần song song và thành phần trực giao đối với đường ranh giới tương ứng.
Trong phạm vi vùng đường ranh giới, là trung bình của các vận tốc xuyên tâm
khác nhau. Tuy nhiên, các vận tốc xuyên tâm đưa ra rất ít thông tin để tính thành
phần trực giao.
Bởi vậy, chúng ta chấp nhận thành phần được tính bằng phương pháp
bình phương tối thiểu và giá trị được tính bằng nội suy. Với mỗi điểm lưới
trong phạm vi vùng đường ranh giới (ví dụ điểm B trên hình 10), ta thấy rằng các
điểm lưới gần nhất phía ngoài vùng đường ranh giới với cả hai bên (điểm A và C
trên hình 10). Giá trị của tại B được lấy từ nội suy tuyến tính giữa điểm A và
C.
19
Hình 11: Minh họa trường hợp đường ranh giới gần với đường bờ. Đường ranh
giới giữa vị trị các trạm radar được xác định là đường gạch dọc. Đường cung và
đường bờ là các đường biên khu vực đường ranh giới.
Khi đường ranh giới nằm gần với đường bờ, ta sử dụng chính đường bờ như
là một đường biên của khu vực đường ranh giới.
Với mỗi điểm lưới trong khu vực đường biên ranh giới (ví dụ điểm B trong
hình 11), ta thấy rằng điểm lưới gần nhất trên khu vực biển của đường ranh giới
(điểm A) và điểm lưới gần nhất trên bờ (điểm C). Ta giả sử rằng tại bờ bằng 0.
Giá trị của tại điểm B được tính bằng nội suy tuyến tính của giá trị điểm A
nằm phía ngoài đường ranh giới và giá trị 0 tại điểm C.
20
Hình 12: Một ví dụ về nội suy trong đường ranh giới khi đường ranh giới nằm
ngoài khu vực xa bờ. Tại vùng phía trên của hình vùng đường ranh giới có để lại
khoảng trống; tại vùng dưới của hình được lấp đầy bởi các véc tơ được nội suy. Các
thông số đầu vào α, β được cho là 30°
Hình 13: Một ví dụ về nội suy đường ranh giới khi đường ranh giới gần với
đường bờ. Phần trên của hình khu vực đường ranh giới tạo khoảng trống; phần dưới
của hình được lấp đầy bởi các véc tơ nội suy. Các thông số đầu vào α, β được cho là
30°.
21
2.1.2. Phương pháp nội suy đường ranh giới
Hình 14 cho thấy một vùng đường ranh giới 30°. Nếu thành phần Hướng tâm
từ hai vị trí trạm radar tạo thành một góc nhỏ hơn 30°, thành phần theo phương x
của véc tơ dòng chảy tổng cộng được tính trong khu vực được cho là không chính
xác. Vì vậy, vùng cần được lấp đầy bằng các véc tơ tổng cộng được tính bằng phép
nội suy.
Hình 14: Vị trí 2 trạm trong sơ đồ tổng hợp véc tơ
Tại mỗi điểm với trong khu vực đường ranh giới, hai véc tơ tổng cộng gần
nhất phía ngoài vùng đường ranh giới được xác định như trên hình vẽ. Thành phần
x của hai véc tơ tổng cộng này được triết xuất và được coi như là điểm cuối (phần
màu cam trên nền tối) nằm dọc một đường chứa các điểm lưới. Chú ý rằng trong ví
dụ này có một thành phần x âm phía bên phải của vùng đường ranh giới, và một
thành phần nhỏ hơn, giá trị dương phá bên trái của vùng.
22
Hình 15: Nội suy theo phương x
Thành phần x của hai véc tở tổng cộng bên ngoài vùng đường ranh giới được
nội suy tuyến tính qua vùng đường ranh giới, hình thành lên thành phần x được nội
suy tại các nứt lưới dọc theo một đường thẳng (như trên đường cam trên hình 15).
Hình 16: Tính phân tích theo hướng y
23
Thành phần song song với đường ranh giới (thành phần y) được tính từ
phương pháp bình phương tối thiểu của các vận tốc hướng tâm từ hai trạm radar
(hai trạm radar được đánh dấu xanh và đỏ trên hình 16).
Hình 17: Tổng hợp véc tơ tổng cộng
Thành phần - y được tính bằng bình phương tối thiểu và thành phần – x được
kết hợp để tính các véc tơ tổng cộng nội suy. Phương thức này được thực hiện tại
mỗi điểm lưới trong khu vực đường ranh giới để tạo lên các véc tơ tổng cộng nội
suy được quan trắc khi phép nội suy được thực hiện dọc theo đường ranh giới.
2.2. Mô hình phân tích và dự báo vật thể trôi.
2.2.1. Giới thiệu chung
Mô hình quỹ đạo La-grăng sử dụng dữ liệu dòng chảy từ hệ thống Rada HF
kết hợp với dữ liệu gió được sử dụng để phân tích quỹ đạo trong quá khứ và dự báo
của các vật thể. Sự thay đổi trong mô phỏng quỹ đạo được tính theo phương pháp
Abascal (2009) [5]. Dựa vào phương pháp này, các thông số mô hình và sự thay đổi
được ước đoán bằng giá trị trung bình của các phương pháp tối ưu và được sử dụng
để tính toán xác suât phân bố của quỹ đạo của các vật thể. Đối với mỗi bộ dữ liệu
24
của vật thể trôi, mô hình quỹ đạo La- grăng được hiệu chỉnh tới mức thấp nhất các
sai số với quỹ đạo thực. Kết quả của quá trình hiệu chỉnh là giá trị trung bình tốt
nhất và đạt được 95% quá trình hiệu chỉnh sau mỗi bước hiệu chỉnh thông số. Một
bước hiệu chỉnh cuối cùng (trên 95%) sẽ đi vào thực hiện tính toán. Việc phải thực
hiện thủ tục này vì có hai lợi ích: (a) quá trình hiệu chỉnh bao gồm nguồn dữ liệu
không ổn định để đưa vào các hệ số hiệu chỉnh mô hình, mô tả tối ưu nhất quỹ đạo
trong quá khứ và (b) các giá trị của các hệ số có thể đưa thêm ra những thông tin
liên quan đến mỗi lực (gió và dòng chảy) trong mô phỏng quỹ đạo. Mỗi quỹ đạo
quá khứ được tính bằng các trung bình của phương pháp Monte Carlo sử dụng các
kết quả đã đạt được trong quá trình hiệu chỉnh. Độ tin cậy đạt 95% được xác định
và được sử dụng để tính toán sai số về khoảng cách giữa quỹ đạo thực và quỹ đạo
mô phỏng. Độ chính xác của mô phỏng được đánh giá thông qua quỹ đạo thực và
quỹ đạo trung bình của các thông số thống kê. Trong phần này sẽ giới thiệu mô hình
quỹ đạo La- Grăng và phương pháp hiệu chỉnh.
2.2.1. Mô hình quỹ đạo La-grăngian
Mô hình được sử dụng trong mô hình kiểm soát lan truyền dầu có tên là
TESEO (Abascal et al. 2009) [5]. Mô hình số này bao gồm mô đun vận chuyển và
mô đun khí tượng đưa ra quá trình lan truyền dầu trong môi trường biển. Trong luận
văn này tập trung vào mô đun vận chuyển để phân tích chuyển động của các vật thể
trôi. Mô đun vận chuyển được khai triển từ mô hình vận chuyển La grang hai chiều.
Quá trình chuyển động của vật thể được miêu tả bằng việc theo dõi một khu vực
đám mây chứa các hạt tương tự như các vật thể. Vị trí của các hạt được tính toán
bởi các vị trí đặc biệt trong vận chuyển gây ra do dòng chảy, gió, và khuếch tán rối.
Mô hình số giải bởi phương pháp trung bình Euler theo phương trình véc tơ dưới
đây:
),(),( txutxu
dt
xd
idia
(1)
25
Trong đó ix
là vị trí hạt và au
và du
và thành phần vận tốc bình lưu và vận
tốc khuếch tán theo phương ix
. Vận tốc bình lưu au
được tính dựa vào sự kết hợp
tuyến tính của dòng chảy và vận tốc gió như công thức dưới:
wDcCa uCuCu
(2)
Trong đó cu
là vận tốc dòng chảy bề mặt, wu
là vận tốc gió tại 10 m và Cd
hệ số kéo của gió
Chú ý rằng phương trình (2) bao gồm một hệ số liên quan đến Cd. Thông
thường trong mô hình Lagrange, phần dòng chảy bị ảnh hưởng bởi những hệ số
khác. Tuy nhiên để lấy theo một thành phần không ổn định đối với số liệu quan trắc
bằng radar, hệ số này sẽ được chọn để giảm thiểu sai số giữa quỹ đạo thực và quỹ
đạo tính toán. Vận tốc khuếch tán rối
dd uu , (MaierReimer 1982 [7]) thay đổi
theo mỗi bước thời gian t và được tính như sau:
t
D
ud
6
(3)
Trong đó D là hệ số khuếch tán có giá trị từ 1–100 m2/s (ASCE 1996) [6].
Mô phỏng quỹ đạo vật thể trôi được thực hiện bằng việc lấy trung bình quỹ đạo, mô
hình có thể mô phỏng lan truyền dầu và vật thể trôi thời gian trong quá khứ và dự
báo với mục đích là xác định nơi khởi nguồn hoặc vị trí dự báo. Mô hình vận
chuyển Lagrange đã được hiệu chỉnh và được thực hiện khi sử dụng dữ liệu từ các
phao trôi. Thêm nữa, nó đã đạt được thành công khi thử nghiệm một vài ví dụ về
lan truyền dầu thực hiển bởi Văn phòng tìm kiếm cứu nạn Tây Ban Nha và tập đoàn
ESEOO (Abascal et al. 2007 [4]; Sotillo et al. 2008 [10]) với hệ số D bằng 56
Để áp dụng phương trình (1), hệ số mô hình Cd và Cc phải được xác định.
Giá trị của hệ số kéo của gió Cd thay đổi từ 2,5 đến 4,4% của tốc độ gió, với giá trị
26
trung bình từ 3–3.5 % (ASCE 1996) [6]. Khi gió nhẹ không có sóng đổ, 3,5% của
tốc độ gió theo hướng của gió sẽ cho kết quả mô phỏng tốt của các vệt dầu và vật
thể trôi vùng ngoài khơi.
Hiện nay chưa có số liệu về phao trôi cho việc hiệu chỉnh các hệ số Cd và Cc
lên tác giả đã áp dụng các kết quả nghiên cứu của các công trình dã được công bố
trước đây vào mô hình để phân tích và dự báo vật thể trôi bằng phần mềm mô hình
Codar leeway. Mặt khác phần mềm Codar Leeway chưa tích hợp trường gió vào
phân tích và dự báo vật thể trôi, Vì vậy kết quả phân tích và dự báo thử nghệm dưới
đây chỉ dựa trên trường dòng chảy quan trắc bằng radar biển và dự báo bằng mô
hình dự báo dòng chảy ngắn hạn (STPS). Trong đó hệ số Cc = 0.787, D = 56 m2/s
theo Abascal et al. (2009) [5] khi nghiên cứu phân tích quỹ đạo vật thể trôi bằng dữ
liệu radar tần số cao vùng biển Tây Ban Nha.
27
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU CHẾ ĐỘ DÒNG CHẢY VÙNG BIỂN
VỊNH BẮC BỘ TỪ DỮ LIỆU RADAR BIỂN
3.1. Phân tích số liệu
3.1.1. Đánh giá số liệu quan trắc dòng chảy bằng radar biển
Số liệu radar biển trong quan trắc dòng chảy tầng mặt có độ chính xác phụ
thuộc vào môi trường trong phạm vi hoạt động của radar. Với môi trường bình
thường sai số trung bình của vận tốc dòng chảy < 7 cm/s và hướng < 10 độ.
Theo một nghiên cứu của tác giả Lee et al. (2014) [12] về đánh giá độ chính
xác của số liệu radar biển khu vực biển của sông Keum (Hàn Quốc) trong hai mùa
mùa đông và mùa hè với số liệu quan trắc từ máy ADCP đưa ra kết luận: Sai số
trung bình quân phương của dòng chảy mùa đông < 5.4 cm/s và mùa hè < 10 cm/s.
Đánh giá mức độ đầy đủ của nguồn dữ liệu quan trắc bằng radar biển tác giả
đã tiến hành phân tích tính toán mật độ dữ liệu quan trắc được trong thời gian từ 05
tháng 6 năm 2012 đến tháng ngày 15 tháng 11 năm 2014 với bước thời gian 1 giờ
tại 03 trạm radar và dữ liệu giao thoa của 3 trạm này. Trong đó, số lần quan trắc tại
trạm Hòn Dáu là: 11.434, trạm Nghi Xuân 15.163 lần và trạm Đồng Hới là 12.540
lần. Các kết quả phân tích phân bố mật độ số liệu quan trắc dòng chảy tại 03 trạm
(hình 18, 19, 20) cho thấy số liệu quan trắc dòng chảy tại 03 trạm có mật độ chưa
đồng đều. Số liệu tại trạm Nghi Xuân có phân bố đồng đều nhất, mật độ trung bình
70 – 75 %, trong khi đó trạm Hòn Dáu va Nghi Xuân có mật độ số đạt được 55 – 60
%. Với các phân tích trên nhận thấy rằng các dữ liệu quan trắc dòng chảy tại 03
trạm vùng biển Vịnh Bắc Bộ trong thời gian từ năm 2011 đến nay được một bộ
tương đối nhiều, có thể ứng dụng trong việc phân tích chế độ dòng chảy vùng biển
Vịnh Bắc Bộ cũng như trong việc nghiên cứu phân tích và dự báo quỹ đạo trôi của
vật thể.
28
Hình 18: Phân bố mật độ số liệu quan trắc dòng chảy tại trạm radar Hòn Dáu.
Hình 19: Phân bố mật độ số liệu quan trắc dòng chảy tại trạm radar Nghi Xuân
29
Hình 20: Phân bố mật độ số liệu tại trạm
Hình 21: Phân bố mật độ số liệu giao thoa của 3 trạm Radar
30
3.1.2. Xây dựng miền lưới tính và dữ liệu đầu vào
Dựa trên phạm vi hoạt động của hệ thống trạm Radar tại vùng biển Vịnh Bắc
Bộ (hình 22) và kết quả phân tích phân bố mật độ quan trắc được dữ liệu dòng chảy,
độ phân giải ngang của mỗi trạm là 5.817 km.
Hình 22: Phạm vi hoạt động của Radar và giới hạn miền phân tích dữ liệu
Tổng hợp dữ liệu dòng chảy tổng 2 chiều chỉ thực hiện được khi có ít nhất 2
dữ liệu dòng chảy hướng tâm từ các radar trong khu vực lân cận. Căn cứ vào phạm
vi hoạt động của 03 trạm Radar biển Hòn Dáu, Nghi Xuân và Đồng Hới tác giả đã
xác định phạm vi để xây dựng lưới tính cho phần mềm tổng hợp dòng chảy 2 chiều
với các tham số sau:
31
- Giới hạn theo vỹ tuyễn từ 17,7 N đến 21,13 N;
- Giới hạn theo kinh tuyến từ 105,0 đến 108,56 E;
- Tọa độ tâm lưới: 19024,6’ N; 107000’ E
- Điểm lưới theo phương vĩ tuyến: 55 điểm
- Điểm lưới theo phương vĩ tuyến: 63 điểm
- Bước lưới: 6 km
Hình 23: Sơ đồ lưới tính cho phần mềm tổng hợp dòng chảy 2 chiều
Các dữ liệu đầu vào cho đầu vào:
Dữ liệu đầu vào của phần mềm là các dữ liệu dòng chảy hướng tâm tại các
điểm quan trắc của các trạm radar trong hệ thống bao gồm: Vị trí (kinh độ, vĩ độ,
vận tốc dòng chảy, hướng dòng chảy)
32
Hình 24: Sơ đồ dòng chảy hướng tâm tại các trạm quan trắc bằng Radar biển
3.1.3. Tính toán tổng hợp dòng chảy 2 chiều
Sau khi xây dựng lưới tính và chuẩn bị các dữ liệu dòng chảy hướng tâm tại
03 trạm radar, tiến hành tổng hợp và phân tích dòng chảy hai chiều trên lưới tính đã
xây dựng trong thời gian từ ngày 05 tháng 6 năm 2012 đến tháng ngày 15 tháng 11
năm 2014 với bước thời gian 1 giờ. Các kết quả thu được bao gồm các file dữ liệu
dòng chảy tổng hợp và phân tích 2 chiều trong thời gian nói trên để làm cơ sở cho
việc tính toán dòng chảy trung bình theo các tháng vùng biển Vịnh Bắc Bộ.
Dòng chảy trung bình được tính toán như sau: Trước khi tính trung bình,
dòng chảy tại mỗi điểm lưới được tách thành 2 thành phần (thành phần theo hướng
kinh độ và thành phần theo hướng vỹ độ) sau đó tính trung bình theo tháng của mỗi
thành phần vận tốc trên từng điểm lưới. Sau khi có kết quả vận tốc dòng chảy trung
33
bình thành phần, thực hiện tổng hợp véc tơ tổng cộng theo quy tắc cộng véc tơ để
tính vận tốc dòng chảy và hướng dòng chảy trung bình tại mỗi điểm lưới, công thức
tính trung bình như sau:
n
u
u
n
i
i
1
_
(4)
Trong đó:
-
_
u là vận tốc thành phần trung bình của từng tháng
- iu là vận tốc thành phần thời gian thứ i trong mỗi tháng
- n là số bước thời gian trong tháng
Hình 25: Dòng chảy tổng hợp được tính toán lúc 07 giờ ngày 01 tháng 12 năm
2013
34
3.2. Kết quả tính toán, phân tích dòng chảy trung bình tháng vùng Vịnh
Bắc Bộ
Với bộ số liệu dòng chảy tổng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvanthacsi_chuaphanloai_439_5357_1870292.pdf