Luận văn Nghiên cứu xác lập cơ sở địa lý phục vụ phát triển du lịch khu vực nam tỉnh Nghệ An

LỜI CAM ĐOAN.i

MỤC LỤC .v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.v

DANH MỤC HÌNH BẢN ĐỒ .viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU .ix

MỞ ĐẦU.1

CHƯƠNG 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ

VỀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH.5

1.1.Tổng quan các công trình nghiên cứu về tài nguyên du lịch.5

1.1.1. Trên thế giới .5

1.1.2. Tại Việt Nam .12

1.1.3. Tại địa bàn nghiên cứu .17

1.2. Cơ sở lý luận.20

1.2.1. Tài nguyên du lịch.20

1.2.2. Đánh giá điều kiện địa lý và tài nguyên du lịch .25

1.2.3. Phân vùng địa lý tự nhiên.28

1.2.4. Tổ chức lãnh thổ du lịch.29

1.3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.33

1.3.1. Quan điểm nghiên cứu .33

1.3.2. Phương pháp nghiên cứu.35

CHƯƠNG 2ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN, KINH TẾ XÃ HỘI – CƠ

SỞ PHÁT TRIỂN DU LỊCH KHU VỰC NAM TỈNH NGHỆ AN.37

2.1. Điều kiện tự nhiên: .37

2.1.1.Vị trí địa lí .37

2.1.2. Địa hình .40

2.1.3. Khí hậu .42

2.2. Tài nguyên du lịch .45

2.2.1. Tài nguyên thiên nhiên. .45

2.2.2. Tài nguyên nhân văn: .47

pdf50 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu xác lập cơ sở địa lý phục vụ phát triển du lịch khu vực nam tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à các xu hướng phát triển của du lịch trên thế giới qua các thời kỳ từ cổ đại, cận đại, trung đại đến hiện đại. Phân tích các khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động du lịch (T.Đ.Thanh, 1999). - Hướng nghiên cứu về phát triển du lịch sinh thái: được tiếp cận dưới nhiều góc độ như dựa trên sự phân bố không gian của các vùng sinh thái đặc thù và các điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng..., để đề xuất các hình thức phát triển và tổ chức lãnh thổ du lịch sinh thái trên phạm vi cả nước (P.T.Lương, 1999, 2002); Phát triển du lịch sinh thái dưới góc độ quy hoạch quốc gia và quản lý Nhà nước (N.V.Lưu, 1999; R.Buckley, 1999); Phân tích mối quan hệ giữa du lịch sinh thái với bảo vệ đa dạng sinh học và kiến nghị các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên tại các khu bảo tồn, các VQG và tại các vùng đất ngập nước ven biển (L.V.Lanh, 1999; H.P.Thảo, 1999; I.Becker, 1999; N.N.Khánh, 1999; J.Jiménez, G.Herrera, 2001)... - Hướng nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững: được tiếp cận theo nguyên tắc đảm bảo sự hài hoà về kinh tế, xã hội, môi trường. N.Đ.Hoè, V.V.Hiếu, (2001) đã phân tích tác động nhiều mặt của hoạt động du lịch ở nhiều nước trên thế 13 giới đối với môi trường và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch bền vững phù hợp với điều kiện Việt Nam; P.T.Lương (2002) xác định nhiệm vụ của du lịch bền vữnglà phát triển các sản phẩm du lịch có chất lượng, có khả năng thu hút khách cao song không gây phương hại và phải có trách nhiệm bảo tồn đến môi trường tự nhiên và văn hóa bản địa. Đồng thời đưa ra các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững, trong đó chú trọng đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải ra môi trường và chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương; Luật Du lịch Việt Nam (2005) cũng đã nêu rõ, “du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai” (Điều 4, Chương I). - Hướng nghiên cứu về đánh giá tiềm năng lãnh thổ phục vụ quy hoạch, tổ chức lãnh thổ du lịch:phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển du lịch, vai trò của tài nguyên đối với hoạt động du lịch, từ đó đưa ra các định hướng tổ chức lãnh thổ du lịch của Việt Nam (V.T.Cảnh, 1990; N.M.Tuệ và nnk, 1997, 2010; P.T.Lương, 2001); Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn quy hoạch và khai thác tài nguyên du lịch trên thế giới cũng như ở Việt Nam, áp dụng các phương pháp điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn nhằm mục đích tổ chức lãnh thổ du lịch, khai thác, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên - môi trường du lịch (B.T.H.Yến và nnk, 2005, 2009). - Hướng địa lý ứng dụng, đánh giá điều kiện địa lý và tài nguyên phục vụ mục đích du lịch, nghỉ dưỡng: + Đánh giá tài nguyên theo từng thành phần nhằm đưa ra các chỉ tiêu phù hợp với từng loại hình du lịch như đánh giá mức độ tương phản địa hình (Đ.D.Lợi, 1993) [55]; Đánh giá tài nguyên sinh khí hậu (N.Thám, N.H.Sơn, 2011) + Đánh giá mức độ thuận lợi các tổng thể tự nhiên phục vụ mục đích du lịch, nghỉ dưỡng (N.T.Chinh, 1995; L.V.Tin, 2000; N.T.Hải, 2002; T.Q.Hải, 2006; Đ.T.Dũng, 2009). 14 + Đánh giá về sức chứa du lịch được tập trung nghiên cứu nhiều tại các VQG như: tính sức chứa và phân vùng du lịch theo từng khu chức năng tại VQG Cát Tiên (I. Becker, 1999); Ứng dụng hệ thông tin địa lý để tính sức chứa du lịch ở VQG Bạch Mã (N.T.Hải và nnk, 2004); Tính sức chứa du lịch tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng (T.Nghi và nnk, 2007); Tiếp cận hệ thống trong đánh giá sức chứa du lịch cho khu di tích danh thắng Yên Tử (T.V.Trường và nnk, 2011). - Một số luận án tiến sĩ: đã bảo vệ thành công trong nước theo hướng điều tra, đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên phục vụ quy hoạch không gian, tổ chức lãnh thổ du lịch tại nhiều địa bàn khác nhau trên cả nước như: huyện Ba Vì, Hà Nội (Đ.D.Lợi, 1992); Tỉnh Nghệ An (N.T.Chinh, 1995); Thành phố Hải Phòng (N.T.Sơn, 1996); Thừa Thiên Huế (L.V.Tin, 2000); VQG Cúc Phương (N.T.Sơn, 2000); Thành phố Quảng Nam - Đà Nẵng (T.P.Minh, 2002); Thành phố Hà Nội và phụ cận (N.T.Hải, 2002); Thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận (Đ.Q.Thông, 2004); Tỉnh Hòa Bình (P.L.Thảo, 2006); Thành phố Đà Lạt và phụ cận (N.H.Xuân, 2009); Tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc (Đ.T.Dũng, 2009); Tỉnh Sơn La (Đ.T.Mùi, 2012)... - Các văn bản định hướng phát triển ngành du lịch của Nhà nước: + Các bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên quy mô toàn quốc với các mục tiêu cụ thể qua từng giai đoạn phát triển phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (Bộ VH-TT&DL, 1995)... + Các Văn kiện Đại hội Đảng và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020” đều xác định mục tiêu phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước; Nhiều nội dung cụ thể về du lịch và tài nguyên du lịch được quy định trong các văn bản luật như: “Luật Du lịch”; “Luật di sản văn hóa”... + Các định hướng chiến lược về phát triển du lịch bền vững đã được ban hành, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực (Bộ VH-TT&DL, 2002, 2010)... 15 + Các chương trình hành động quốc gia về du lịch qua từng giai đoạn 2000 - 2005, 2006 - 2010, 2007 - 2012, 2013 - 2020 với quan điểm phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường. Đồng thời huy động mọi nguồn lực, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền trong cả nước (TC DLVN, 2000, 2006, 2007, 2013)- Một số các hướng nghiên cứu khác về du lịch như: + Hướng nghiên cứu về cụm ngành du lịch: mới được xây dựng thử nghiệm mô hình tại Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam, dựa trên việc phân tích định lượng các điều kiện về thương số định vị khu vực, thu nhập bình quân và tốc độ tăng trưởng để xác định các cụm ngành du lịch phục vụ cho phát triển kinh tế khu vực miền Trung (T.H.Trình, N.T.B.Thủy, 2008; N.T.Liêm, N.V.Long, 2010)... + Hướng nghiên cứu về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch. Phân tích hoạt động du lịch dưới góc độ kinh doanh, coi hướng dẫn du lịch là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch, thông qua các hướng dẫn viên và những người có liên quan để đón tiếp, phục vụ, hướng dẫn khách trong suốt quá trình thực hiện chuyến du lịch (Đ.T.Kiên, 1999; N.V.Đính, P.H.Chương, 2000); Nghiên cứu dưới góc độ kỹ năng nghiệp vụ, quy trình hướng dẫn, phương pháp thuyết minh và cách thức xử lý những tình huống khi hướng dẫn tham quan du lịch (N.C.Hiền, 1993, N.B.San và nnk, 2001, 2006), hoặc ứng dụng tâm lý học - xã hội trong kinh doanh du lịch với mục đích nhận biết tâm lý khách du lịch theo các tiêu thức khác nhau như theo quốc gia, nghề nghiệp... (N.V.Đính, N.V.Mạnh, 1996) + Hướng nghiên cứu về nguồn nhân lực du lịch. Xác định nguồn nhân lực trực tiếp và gián tiếp của hoạt động du lịch thông qua việc phân nhóm: nhóm nhân lực quản lý chung, nhóm nhân lực thuộc bộ phận quản lý chức năng, nhóm nhân lực bảo đảm điều kiện kinh doanh du lịch, nhóm nhân lực trực tiếp tham gia vào các quá trình kinh doanh du lịch (H.V.Hoan, 2006). 16 + Hướng nghiên cứu về kinh tế du lịch. Phân tích các mối quan hệ cung - cầu trên thị trường du lịch, phân loại thị trường du lịch theo khả năng kinh tế của bên bán, bên mua, theo thị trường nội địa, quốc tế, theo thị trường nhận khách, gửi khách... (N.V.Lưu, 2008; N.Đ.Phong, T.T.P.Thủy, 2009; B.X.Nhàn, 2009); Nghiên cứu về lữ hành du lịch, T.V. Mậu (1998) đã xác định rõ hoạt động lữ hành là loại hình hoạt động du lịch có ba thuộc tính: tổ chức - sản xuất, môi giới trung gian và khai thác; Các nghiên cứu về quản trị kinh doanh lữ hành phân tích hoạt động trung gian và mối quan hệ của công ty lữ hành với các nhà cung cấp sản phẩm du lịch, thông qua các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch, quảng cáo... (N.V.Đính, P.H.Chương, 1998) *Nhóm các công trình về phân vùng lãnh thổ tự nhiên Tại Việt Nam, các công trình về phân vùng lãnh thổ tự nhiên đã xuất hiện ngay từ quá trình xây dựng và mở mang đất nước, mỗi triều đại đều đã phân chia lãnh thổ thành những đơn vị nhiều cấp thuận tiện cho việc quản lý và quốc phòng. Từ thế kỷ XV, nước ta đã có những công trình nghiên cứu theo địa vực hành chính, tiếp cận với quan điểm dân tộc, độc lập và tự chủ của từng vùng. Tiêu biểu là công trình “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi đã đề cập tới vị trị địa lý, ranh giới, quy mô lãnh thổ, tổ chức xã hội, tình hình kinh tế với những nét đặc thù riêng. Giai đoạn 1930 - 1960, các công trình nghiên cứu phân vùng do một số người nước ngoài thực hiện trên cơ sở xác định sự phân hoá lãnh thổ theo hệ thống phân vị phân vùng địa lý tự nhiên: Robequain (1936) đã phân chia Đông Dương thuộc Pháp thành 8 vùng tự nhiên; Fridland (1956) trong luận án tiến sĩ của mình đã chia miền Bắc Việt Nam thành 3 miền, 8 khu và 37 vùng trên cơ sở phân tích các yếu tố đất và lớp phân hóa; T. N. Sêglova (1957) đã chia các khu vực tự nhiên của Việt Nam theo một hệ thống phân vị đơn giản gồm 2 cấp vùng và á vùng, trong đó vùng được phân chia theo yếu tố khí hậu có kết hợp với yếu tố địa hình, kiến tạo, thực vật, còn chỉ tiêu cấp á vùng chủ yếu dựa vào yếu tố địa mạo. 17 Từ sau năm 1960, các nghiên cứu tập trung theo hướng phân vùng tự nhiên và phân vùng cảnh quan. Hệ thống các cấp phân vùng địa lý tự nhiên trên lãnh thổ Việt Nam có thể kể đến như: Sơ đồ phân vùng của Tổ phân vùng thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước với hệ thống các đơn vị: Đới → Miền → Khu → Vùng địa lý tự nhiên; Vũ Tự Lập (1978) đưa ra sơ đồ phân vùng Việt Nam theo hệ thống: Đới → Miền → Khu địa lý tự nhiên và đã phân chia lãnh thổ Việt Nam thành 2 đới, 3 miền và 13 khu địa lý tự nhiên; Hệ thống các cấp phân vùng của Phòng Địa lý Thổ nhưỡng Trung tâm Địa lý Tài nguyên (1992) gồm: Đới → Á đới → Miền → Á miền → Vùng địa lý tự nhiên và theo đó lãnh thổ Việt Nam được chia thành 2 á đới, 9 miền, 2 á miền và 42 vùng địa lý tự nhiên... Những năm gần đây, nhiều công trình đã xây dựng các nguyên tắc phân vùng địa lý tự nhiên và các phương pháp nghiên cứu cảnh quan nhằm mục đích khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên phục vụ tổ chức lãnh thổ bền vững (P.H.Hải, N.T.Hùng, N.N.Khánh, 1997); Một số tác giả tiếp cận phân vùng theo các hướng mới như theo vai trò và đặc điểm tạo vùng (N.D.Vịnh, 2003); Theo quy mô lãnh thổ, đặc điểm tổng hợp và trình độ phát triển của lãnh thổ (T.T.Hanh, 2006) 1.1.3. Tại địa bàn nghiên cứu Nghệ An kí ( Ghi chép về xứ Nghệ An ) là bộ sách địa chí có tiếng của Việt Nam do Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757 - 1828) biên soạn ở đầu thế kỷ 19. Đây là bộ sách được biên soạn công phu, phản ánh khá đầy đủ về lịch sử, núi sông, nhân vật, thơ văn... của đất nước và con người ở trấn Nghệ An ( nay là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh), được giới nghiên cứu ( như Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giáp, Emile Gaspardone) đánh giá cao, chủ yếu về phương pháp biên soạn nghiêm túc, về nguồn sử liệu dồi dào và độc đáo Sách có 3 chương lớn là: Thiên chí (ghi về trời), Địa chí (ghi về đất) và Nhân chí (ghi về người). Đây là theo quan niệm "tam tài" (Thiên, Địa, Nhân) của Nho học. Đây là bộ sách được biên soạn công phu , có giá trị về nhiều mặt, nhất là mặt địa lí lịch sử. 18 Trong " Dư địa chí" của Nguyễn Trãi cho rằng Vinh là vùng đất hội tụ khí thiêng sông núi xứ Nghệ. Được UBND tỉnh phê duyệt thực hiện vào năm 2010, Dự án "Nghệ An toàn chí" là một công trình biên khảo tổng thể, toàn diện về Nghệ An lớn nhất từ trước đến nay, gồm 22 tập với gần 20.000 trang in. Đây được xem là công trình trọng điểm thuộc Chương trình khoa học xã hội và nhân văn, thu hút được đông đảo các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các soạn giả có uy tín tham gia sưu tầm, biên soạn. Sau gần 4 năm thực hiện, đến nay công trình Nghệ An toàn chí đã nghiệm thu 11 tập, trong đó đã phát hành được 7 tập, 03 tập đang làm thủ tục xuất bản và 01 tập Hội đồng khoa học nghiệm thu đạt loại khá. Công trình hệ thống hóa những tri thức cơ bản nhất về những giá trị văn hóa, văn nghệ, địa lý, lịch sử, con người, kinh tế, kỹ thuật, phong tục, tập quán... của tỉnh Nghệ An trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Xuân Đường, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Trưởng Ban chỉ đạo thực hiện công trình khẳng định, việc triển khai công trình "Nghệ An toàn chí" là nhằm bảo tồn, lưu giữ gia tài di sản của cha ông để lại. Đồng thời, đây là dịp quảng bá, giới thiệu rộng rãi với nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế về sự đặc sắc, phong phú, đa dạng của kho tàng văn hóa truyền thống, lịch sử và các giá trị nhân văn của các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Nghệ An mà các thế hệ nối tiếp nhau đã sáng tạo, lưu truyền, gìn giữ và phát huy cho đến ngày nay. Công trình "Nghệ An toàn chí" quy tụ những đặc trưng văn hóa của vùng đất và con người Nghệ An, góp phần làm phong phú thêm văn hóa dân tộc Việt Nam.Thông qua thực hiện công trình "Nghệ An toàn chí," thêm một lần nữa cho thấyNghệ An là vùng đất cổ, gắn liền với Tổ quốc Việt Nam từ thuở các vua Hùng dựng nước,là đất biêntrấn, viễn trấn, là căn cứ địa của nhiều triều đại. Nghệ An cũng là một vùng văn hóa đặc sắc với kho tàng văn hóa dân gian vô cùng 19 phong phú, phản ánh rõ sắc thái địa phương Nghệ An; đồng thời mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Bộ sách " Lịch sử Nghệ An" do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân nhân, Ủy ban nhân dân Nghệ An phối hợp với Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật tổ chức biên soạn và xuất bản. Đây là bộ sách nghiên cứu công phu, phản ánh đầy đủ lịch sử Nghệ An từ nguyên thủy đến năm 2005 trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; giúp cho bạn đọc có cái nhìn toàn diện về lịch sử ra đời, đấu tranh, xây dựng và phát triển của mảnh đất này; về những đặc trưng của mảnh đất và con người xứ Nghệ. Có thể khái quát cuốn sách qua những nội dung cơ bản sau: Nghệ An là một vùng đất cổ, gắn kết hữu cơ với tiến trình phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc. Các di tích khảo cổ học phát hiện được ở Thẩm Ồm (Quỳ Châu), đồi Dùng, đồi Dạng (Thanh Chương), Hang Chùa (Tân Kỳ),... đã minh chứng cho những đóng góp của cộng đồng cư dân nơi đây đối với sự hình thành nền văn hóa, văn minh đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Dấu tích kinh đô Vạn An (Nam Đàn), Phượng Hoàng - Trung Đô (Thành phố Vinh) còn lưu giữa đến ngày nay đã cho thấy vùng đất này từng trở thành trung tâm của quốc gia, nơi hội tụ tinh hoa và khí phách vươn lên của dân tộc. Nghệ An được coi là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam với đủ các vùng miền, từ miền núi, trung du, đồng bằng, cho đến ven biển và thềm lục địa. Mảnh đất này là nơi chịu tác động của thiên tai, khí hậu khắc nghiệt. Do vậy cộng đồng cư dân sinh sống trên mảnh đất này đã chung lưng đấu cật, hình thành nên truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, vật lộn để chinh phục, cải tạo tự nhiên, tổ chức xã hội để mưu cầu cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. 20 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Tài nguyên du lịch Tài nguyên theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin có trên Trái đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ cuộc sống và sự phát triển của mình. Tài nguyên bao gồm nhóm các tài nguyên hoàn lại (có thể phục hồi được), nhóm các tài nguyên không hoàn lại (không thể phục hồi được) và nhóm các tài nguyên vô tận. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung và là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổ chức lãnh thổ du lịch. Có rất nhiều quan niệm về tài nguyên du lịch, song nhìn chung có thể khái quát đó là những tổng thể tự nhiên, văn hóa lịch sử có khả năng đáp ứng cho các hoạt động du lịch. Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch . Về mặt cấu trúc tài nguyên du lịch được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau: phân loại theo nhóm cung cấp tiềm tàng, nhóm cung cấp hiện tại và nhóm tài nguyên kỹ thuật; Phân loại theo hệ thống với ba phụ hệ: thiên nhiên, nhân văn và dịch vụ; Phân loại theo ba nhóm: khí hậu, văn hóa xã hội, kinh tế hoặc tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn, tài nguyên kinh tế - kỹ thuật và bổ trợ Luận văn áp dụng hệ thống phân loại tài nguyên du lịch trong Luật Du lịch Việt Nam (2005) bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. (1) Điều kiện địa lý - Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch (Luật DLVN, 2005). Như vậy, riêng đối với tài nguyên du lịch tự 21 nhiên có thể hiểu là tất cả các điều kiện địa lý thuận lợi cho khai thác, phát triển du lịch. - Vị trí địa lý là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển du lịch nói chung cũng như tổ chức các điểm, cụm, tuyến du lịch nói riêng. Trong nghiên cứu của luận văn, vị trí địa lý không chỉ đơn thuần là vị trí hành chính của lãnh thổ mà được xem như một dạng tài nguyên du lịch tự nhiên - tài nguyên vị thế. Tài nguyên vị thế là những giá trị và lợi ích có được từ vị trí địa lý và các thuộc tính về cấu trúc, hình thể sơn văn, cảnh quan, sinh thái của một không gian, có thể sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Đối với phát triển du lịch, tài nguyên vị thế được xét dưới các góc độ: giá trị vị thế (địa) tự nhiên với các giá trị và lợi ích có được từ vị trí không gian, giá trị vị thế (địa) kinh tế với các giá trị và lợi ích có được từ các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của lãnh thổ, giá trị vị thế (địa) chính trị với lợi ích kết hợp của lợi thế về địa lý tự nhiên và nhân văn trong các bối cảnh chính trị của từng quốc gia, khu vực. - Địa hình. Sự phân hóa của địa hình góp phần tạo nên sự đa dạng của cảnh quan, tuy nhiên, đặc trưng hình thái và trắc lượng hình thái của địa hình cũng có thể là những yếu tố thuận lợi hoặc trở ngại cho các hoạt động du lịch. Ngoài ý nghĩa, bề mặt địa hình là nơi diễn ra các hoạt động của du khách, là địa bàn xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng - vật chất kỹ thuật thì đặc điểm của địa hình góp phần quyết định các loại hình du lịch, địa hình càng đa dạng thì càng có sức hấp dẫn du khách. Nhìn chung, địa hình miền núi thường có nhiều ưu thế hơn đối với hoạt động du lịch nhờ vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên (rừng, núi, thác, suối, hang động...) cùng với khí hậu mát mẻ, không khí trong lành. Ngoài ra còn có các dạng địa hình có giá trị cao cho các hoạt động du lịch như các hồ, đầm, các đảo và quần đảo, bãi biển ven bờ, các di tích tự nhiên... 22 - Khí hậu. Trong các chỉ tiêu về khí hậu, nhiệt độ và độ ẩm không khí là những yếu tố quan trọng nhất, ngoài ra, còn có các yếu tố khác như gió, áp suất khí quyển, ánh nắng mặt trời và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Các điều kiện khí hậu được xem như một dạng tài nguyên đặc biệt và được khai thác, phục vụ cho các mục đích du lịch, nghỉ dưỡng khác nhau. Nhìn chung, đối với nhu cầu nghỉ dưỡng, phục hồi sức khỏe và các hoạt động du lịch thuần túy, đòi hỏi nhiều các yếu tố thuận lợi về áp suất không khí, nhiệt độ, độ ẩm, ánh nắng, lượng ôxy và độ trong lành của không khí. Tuy nhiên, đối với các loại hình du lịch đặc thù như thể thao nhảy dù, tàu lượn, khinh khí cầu, thả diều, thuyền buồm... lại yêu cầu các yếu tố thời tiết thích hợp như hướng gió, tốc độ gió, quang mây, không có sương mù... Do các hoạt động du lịch, nghỉ dưỡng phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu nên tính mùa của khí hậu có ảnh hưởng rất rõ đến tính mùa vụ trong hoạt động du lịch. - Thủy văn. Tài nguyên nước bao gồm hệ thống nước mặt và nước ngầm được khai thác, sử dụng cho các mục đích tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng. Tài nguyên nước mặt bao gồm biển, sông, suối, hồ..., ngoài ý nghĩa khai thác cho các hoạt động dân sinh còn có vai trò điều hòa khí hậu, nhiều nơi tạo được cảnh quan đẹp đã trở thành những điểm đến hấp dẫn du khách. Một trong những dạng tài nguyên nước ngầm có giá trị cho hoạt động du lịch là các nguồn nước khoáng. Nhiều nguồn nước khoáng tự nhiên đạt tiêu chuẩn, được sử dụng trực tiếp làm nước uống, nước giải khát. Đối với mục đích chữa bệnh, nhiều nguồn nước khoáng có thành phần hoá học đa dạng, độ khoáng hóa và hàm lượng các vi nguyên tố khá cao như nhóm nước khoáng cacbonic, nhóm silic, nhóm brôm-iôt-bo, nhóm sunfua hydrô, nhóm phóng xạ, và nhóm nước khoáng nóng. Các nguồn nước khoáng này đáp ứng được nhu cầu an dưỡng, chữa bệnh, đặc biệt với một số bệnh về hệ vận động, thần kinh, tiêu hoá, da liễu và nội tiết. - Sinh vật. Tài nguyên sinh vật bao gồm toàn bộ các loài thực vật, động vật sống trên lục địa và dưới nước vốn có sẵn trong tự nhiên và do con người thuần 23 dưỡng, chăm sóc, lai tạo. Tài nguyên sinh vật vừa góp phần cùng với các loại tài nguyên khác tạo nên phong cảnh đẹp, hấp dẫn vừa có ý nghĩa bảo vệ môi trường như: bảo tồn các nguồn gen, che phủ mặt đất, chống xói mòn... Đối với một số loại hình như du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa quan trọng trước hết là tính đa dạng sinh học, đặc trưng của các loài quý hiếm, đặc hữu và các hệ sinh thái đặc thù thường tập trung tại các VQG, các khu rừng ngập mặn, các rạn san hô, sân chim... (2) Tài nguyên du lịch nhân văn Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. - Thành phần các dân tộc. Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học được khai thác là điều kiện sinh sống, đặc điểm văn hoá, phong tục, tập quán, hoạt động sản xuất với những sắc thái riêng của các dân tộc trên địa bàn cư trú cuả các dân tộc. Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có tới 53 dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống và cư trú ở các vùng miền núi xa xôi. Nhiều dân tộc vẫn giữ nguyên được những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của mình, đặc biệt là các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường ở miền Bắc; các dân tộc Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na ở miền Trung và Tây Nguyên; và các dân tộc Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long, đều có những truyền thống văn hoá có giá trị cao có thể khai thác phục vụ phát triển du lịch. - Các di tích lịch sử văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị nhiều mặt điển hình, do tập thể hoặc cá nhân con người sáng tạo ra trong lịch sử để lại. Việc xếp hạng và phân loại các giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học của các các di tích được quy định trong Luật Di sản văn hóa (2001) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo tồn, khai thác, sử dụng di tích phục vụ cho các mục đích nghiên cứu, du lịch Các di tích lịch sử văn hoá là một 24 nguồn tài nguyên du lịch quan trọng, giữ vai trò chính trong việc thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. - Các lễ hội truyền thống. Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp rất đa dạng và phong phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, là dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại như thờ cúng tổ tiên, ôn lại truyền thống, hoặc để giải quyết những lo âu, những khao khát ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được. Các lễ hội đặc biệt có sức hấp dẫn khách du lịch bởi các yếu tố: (1) biểu hiện sống động của nền văn hóa dân tộc, (2) thước đo sự phát triển của văn hóa dân gian, (3) đặc trưng của nền văn hóa nông nghiệp, (4) biểu hiện của tính cộng đồng. Lễ hội gồm hai phần: phần nghi lễ và phần hội + Phần nghi lễ là phần mở đầu cho các lễ hội với những nghi thức nghiêm trang, trọng thể. Phần nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại. Nghi thức tế lễ nhằm bày tỏ lòng tôn kính với các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi, nhân hòa và sự phồn vinh hạnh phúc. + Phần hội diễn ra những hoạt động tiêu biểu, điển hình cho tâm lý và văn hóa cộng đồng. Trong hội thường có các trò chơi dân gian. - Các làng nghề và sản phẩm thủ công truyền thống: làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf01050003389_1_1131_2002687.pdf
Tài liệu liên quan