Luận văn Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán

Một mình nơi chân trời, thân bịmột chức quan cột chặt, chốn quan trường lắm nhiễu nhương,

hiện thực đầy những cảnh đau lòng, chừng ấy tâm sựngổn ngang khiến nhà thơkhông lúc nào vui.

Giữa chốn quan trường hiện lên hình ảnh của một vịquan thâm trầm, lặng lẽ, ôm mối cô độc, u uất

trong lòng mơ ước có được cuộc sống tựdo tựtại chốn quê nhà.

Nỗi buồn và sựcô độc đã xuất hiện từnhững ngày đầu làm quan nay tràn ngập ởtập Nam trung:

ông đóng cửa phòng văn, tạtừkhông tiếp bạn thân; đêm nằm lắng tiếng mưa rơi, lấy nỗi buồn mà

chống chọi với cái rét đêm xuân. Bài thơ Ngẫu thưcông quán bíchnói lên tình cảnh thật đáng thương:

Xuân tòng giang thượng lai hà xứ,

Nhân ỷthiên nhai trệnhất quan.

Mãn địa phồn thanh văn dạvũ,

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn.

pdf111 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giàu mạnh, để thực thi tư tưởng nhân nghĩa đưa lại thanh bình và yên vui cho mọi người, một con người giàu nghị lực và ý chí như Nguyễn Trãi thì ẩn dật không phải lẽ sống của ông. Vì vậy khi nhà vua Lê Thái Tông trưởng thành, bắt đầu nắm triều chính, trừng phạt một số quyền thần, năm 1439 mời Nguyễn Trãi trở lại giữ chức vụ trong triều; lúc bấy giờ tuy đã tuổi 60, ông vẫn hăm hở đem tài sức ra cống hiến cho đất nước với niềm hi vọng lớn lao. Hai tác phẩm, hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều toát lên tấm lòng đáng qúy của hai bậc đại quan với dân với nước. Hình ảnh con ngựa già nhưng vẫn chưa muốn nghỉ ngơi, sức tàn nhưng vẫn ôm lòng báo quốc mãi về sau còn làm xúc động lòng người. Ở một bài thơ khác, thay lời người đi lính thú lâu năm, vị quan cũng bày tỏ tấc lòng: Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu, Phong trần vạn lí quốc vong gia. Nguyệt trung hoành địch thái vô lại, Bán dạ giang thành xuy “Lạc hoa”. (Đại tác cửu thú tư quy II) (Một thân trong trời đất lấy trung đổi hiếu, Muôn dặm gió bụi vì nước quên nhà. Cầm ngay chiếc sáo thổi dưới trăng, buồn thiu, Nửa đêm bên giang thành, thổi khúc hoa mai rụng.) Cũng giống như người xưa đi lính thú lâu năm, vị quan thấy mình đành phải lấy trung đổi hiếu, vì nước quên nhà, chỉ biết mượn khúc Mai hoa lạc để giải tỏa bớt nỗi sầu cảm nhớ quê hương. Như vậy, dù không thiết tha với lợi danh, bất đắc chí với chốn quan trường, u uẩn trước cuộc đời nhưng Nguyễn Du vẫn luôn cố gắng giữ tấm lòng trong sạch, giữ trọn tâm hồn trong sáng như vầng trăng. Ông luôn cố gắng hoàn thành mọi chức phận, không cầu tiếng tăm, sống giản dị, thanh bần, được nhân dân và sĩ phu yêu mến. CHƯƠNG 3: CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ VỚI NỖI BĂN KHOĂN VỀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI Đang làm cai bạ doanh Quảng Bình, tháng 9 năm 1812 Nguyễn Du lại xin về nghỉ. Nhưng vừa được hai tháng thì lại có chỉ triệu vào Kinh để sửa soạn đi sứ Thanh. Sau chuyến đi này, ông mang về một tập thơ: Bắc hành tạp lục. Đó là những bài thơ ông làm khi ngồi thuyền, ngồi xe, cốt để cho qua thì giờ. Điều đặc biệt là trong tập thơ này không có bài nào là thơ xướng họa, thù tạc; cũng không có những bài in dấu ấn những cảnh sắc thiên nhiên diễm lệ, hùng tráng của đất nước Trung Hoa như trong thơ đi sứ của các vị sứ thần khác. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ, được sáng tác trong hành trình đi sứ của Nguyễn Du (từ 1813 đến 1814). Đây là tập thơ được sáng tác trong thời gian ngắn nhất song lại có số lượng nhiều nhất, đó là điều đáng lưu tâm. Có lẽ đúng như giáo sư Nguyễn Lộc nhận xét : Khi có dịp đi sứ Trung Quốc, nhà thơ tìm thấy một nguồn đề tài vô tận để nói những điều mình muốn nói (…) mỗi một cảnh, mỗi một di tích, mỗi một con người của quá khứ và hiện tại trên đất nước Trung Hoa như xác nhận thêm một lần nữa những điều nhà thơ từng nghiền ngẫm, nung nấu [24, tr.315]. Cái tâm sự sâu thẳm như nước sông Lam dưới chân núi Hồng mà khi còn ở nhà, Nguyễn Du không thể bộc bạch, không thể giải tỏa thì nay được giãi bày tự nhiên, chân thật trên trang giấy. Những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ đã thấm nhuần trong bề rộng cảm xúc và chiều sâu chiêm nghiệm, được thể hiện bằng ngòi bút trác tuyệt của vị quan - bậc đại thi hào cho nên Bắc hành tạp lục vượt lên trên những tập thơ đi sứ khác về độ chín của cảm xúc và sự tài hoa. Trên con đường đi sứ, tâm sự của Nguyễn Du trước hết là nỗi nhớ nước, nhớ nhà, nhớ núi Hồng Lĩnh; là tư tưởng muốn về ở ẩn, nhớ chuyện đi săn hươu nai. Càng xa nước, càng vất vả, càng nhiều tuổi thì tư tưởng ấy càng đậm nét, hơn cả thời kì mười năm gió bụi hay thời kì làm quan ở đất Bắc Hà, ở Phú Xuân, Quảng Bình. Cho nên, trên con đường Bắc hành, ta thường bắt gặp cái ngoảnh nhìn, ngoảnh trông, ngoảnh lại đầy lưu luyến của vị chánh sứ: Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu, Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm. (Trấn Nam Quan) (Quay đầu nhìn về cửa khuyết ở ngoài mây biếc, Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.) Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn Thùy gia hoành địch bằng lan can. Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ Cố hương dĩ cánh vạn trùng san. (Thái Bình thành hạ văn xuy địch) (Nước sông gợn sóng trăng sông lạnh, Nhà ai có người tựa lan can thổi sáo? Cả hai mươi bảy người trên thuyền đều quay đầu nhìn lại, Quê nhà đã cách muôn trùng núi.) Biệt phố phân tân sắc, Dao không thất cố hương. Hạc lai nhân bất kiến, Vãn thu uất thương thương. (Tương giang dạ bạc) (Bến biệt nhau đã chia màu sắc mới, Vời trông phía trời xa chẳng thấy quê hương. Hạc đến, người không thấy đến, Cây trong chiều hôm cứ xanh ngăn ngắt.) Thu phong lạc nhật giai hương vọng, Lưu thủy phù vân thất bá đồ. (Sở vọng) (Gió thu bóng xế là lúc ngóng trông về quê nhà, Nước chảy mây trôi cuốn sạch mọi mưu đồ bá chủ.) Vạn lí hương tâm hồi thủ xứ Bạch vân nam hạ bất thăng đa! (Ngẫu hứng) (Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại, Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết.) Trong cái ngoảnh đầu nhìn lại đó có tình dân tộc, tình quê hương, tình nhà nhưng ẩn sâu bên trong cũng vẫn là niềm ao ước được quay trở về với cuộc sống thanh thản chốn núi Hồng: Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên. (Hàm Đan tức sự) (Trong mơ núi Hồng vắng những cuộc đi săn, Đầu bạc rồi mà dấu chân còn in khắp núi sông.) Và cũng trên con đường đi sứ này, tận mắt chứng kiến nhiều sự việc, ôn lại nhiều tấm gương lịch sử, Nguyễn Du càng thấm thía cái phù hoa hư ảo của lợi danh – những điều ông đã sớm nhận ra từ những ngày còn làm một Hồng Sơn liệp hộ ở quê nhà. Vì vậy, mong muốn được trở về bên cây tùng tảng đá ở núi Hồng, bên đàn chim âu trắng ở sông Lam càng tha thiết, trở thành một âm điệu xuyên suốt toàn bộ tập thơ. Thế nhưng, đặc biệt, ở chặng đường làm quan này, không có bài nào vị quan Nguyễn Du chỉ viết riêng về mình. Các hình ảnh thơ phản chiếu bi kịch trong tâm hồn ông cũng giảm đi đáng kể so với hai tập thơ đầu. Còn lại, hầu hết là các bài thơ viết về con người và cuộc sống bên ngoài - tái hiện và bình luận vạn sự cổ kim. Tâm hồn Nguyễn Du giờ đây đã rộng mở để đón nhận những vang động của cuộc đời. Hiện lên trên con đường hoạn lộ vẫn là hình ảnh người lữ khách mang nặng mối sầu tha hương song không nhuốm tủi hờn, đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng về nỗi nhớ nhung da diết... Nhưng hành trình đi sứ ấy còn mang đến cho Nguyễn Du một cơ hội quí giá để mở rộng tầm nhìn. Bao nhiêu kiến thức thu nhận từ sách vở và những số phận con người từng ám ảnh tâm hồn nhà thơ - giờ đây đang hiện lên ngay trước mắt: Du du trần tích thiên niên thượng Lịch lịch quần thư nhất vọng gian (Thương Ngô tức sự) (Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi Điều sách chép rành rành nay hiện rõ trước mắt.) Cũng trên con đường đi sứ, Nguyễn Du đã phát hiện nhiều điều mới mẻ về thiên nhiên, con người và cuộc sống trên đất nước Trung Hoa. Có lúc nhà thơ không khỏi bàng hoàng trước cảnh sóng thác gầm thét dữ dội: Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình Trung Hoa đạo trung phù như thị Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý (Ninh Minh giang chu hành) (Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này Sâu hiểm quanh co giống lòng người Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời.) Có lúc, ông thảng thốt trước những điều trông thấy hoàn toàn tương phản với những gì mình hằng nghe nói: Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão Trung Hoa diệc hữu như thử nhân (Thái Bình mại ca giả) (Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này.) Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa, Như hà hương hỏa thái thê lương. (Quế Lâm Cù các bộ) (Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này?) Đặc biệt, Nguyễn Du đã tìm thấy trên những nẻo đường đầy cố cảnh, cựu tích kia lời giải đáp cho nhiều câu hỏi lớn về cuộc đời, về thân phận con người từng khiến ông day dứt... Ông không ngợp mắt trước phồn hoa, không đắm mình vào cảnh đào hồng, liễu lục nơi xứ lạ mà thường kiếm tìm dấu cũ, bia xưa... của những con người có phẩm cách phi thường, có số phận bất hạnh. Dường như với Nguyễn Du, Trung Hoa trước hết là đất nước của những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Dự Nhượng, Nhạc Phi... Cho nên, cái nhìn của ông đã xuyên qua lớp vỏ của thực tại kia để thấu suốt bản chất của hiện thực - một hiện thực được phản chiếu rõ nét qua từng dấu tích đau thương, oan trái từ quá khứ. Để rồi từ đó, vị quan cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con người trên suốt dòng thời gian kim cổ. Cái tôi trữ tình Nguyễn Du luôn xuất hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương cảm: liên, sầu, bi, cảm, ai, thán, trướng, bồi hồi, thương tâm, kham ai... Vì vậy, khả năng khái quát hiện thực của Bắc hành tạp lục là rất to lớn - vượt xa tất cả các tập thơ đi sứ thời trung đại. Đồng thời, tập thơ này còn thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo, cao cả của vị quan chánh sứ. Nguyễn Du đã đi từ cõi lòng ngổn ngang những thất vọng, khổ đau của riêng mình để đến với bao nhiêu khắc khoải của nhân sinh và cõi người. Trong đó, cung bậc buồn thương, đau đớn nhất chính là nỗi tiếc hận muôn đời trước số phận của những kiếp tài hoa, trung nghĩa. Bên cạnh đó là nỗi xót lòng trước những mảnh đời cơ cực, phiêu giạt giữa gió bụi cuộc đời để tìm kế sinh nhai. Song song với âm hưởng đau đớn, xót xa ấy là nỗi căm phẫn, khinh bỉ đối với những kẻ độc ác, bất nghĩa, xấu xa chỉ biết mưu cầu danh lợi phú quý cho bản thân, chà đạp lên tài hoa, nhân cách của con người một cách tàn bạo, phũ phàng. Có thể nói, các bài thơ chữ Hán đã lưu giữ lại cho chúng ta diện mạo tâm hồn của chính Nguyễn Du. Ông đã tự họa chân dung của chính mình như một con người lẻ loi, nếm trải nhiều cay đắng, thất vọng song cũng thật cứng cỏi, kiêu hãnh khi gìn giữ sự trong sạch, thanh cao của lòng mình. Và giữa bao nhiêu ngổn ngang, bế tắc vẫn thấy ngời lên ánh sáng của một trái tim chưa bao giờ nhầm lẫn trong yêu thương, đau đớn, phẫn nộ... Hình tượng con người tự họa của Nguyễn Du không chỉ thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một tâm hồn lớn mà còn có khả năng phản ánh và khái quát hiện thực sâu sắc. Bởi vì, ông đã không hề tách rời cuộc đời mình khỏi số phận của một lớp người, một thời đại. Trái lại, mọi đau buồn, phẫn uất mà Nguyễn Du bộc lộ đều gắn liền với những nỗi đau thương bao trùm lên thân phận con người lúc bấy giờ. Chúng bắt nguồn từ bao nhiêu biến cố của lịch sử. Trong những giọt lệ âm thầm thấm trên trang thơ chữ Hán có nước mắt Nguyễn Du khóc cho Tố Như, có nước mắt Tố Như khóc cho con người, cho cuộc đời trong cơn hưng phế. 3.1. SỐ PHẬN NHỮNG CON NGƯỜI NGHÈO KHỔ Theo chân vị đại quan trong hành trình của sứ bộ, ta khắc khoải nghe thấy tiếng sáo não nề vang vọng trên thành Thái Bình, bâng khuâng trước một nhánh tường vi nhỏ báo tin xuân về, man mác nhìn áng mây hồng u hoài trên bầu trời Hoàng Hạc. Ta cũng xúc động trước tấm lòng vượt vạn trùng san để hướng về cố quốc của vị sứ quan và tự hào biết bao khi nghe những lời khẳng định biên giới nước nhà, lời ngợi ca bậc thánh nhân đất Việt! Nhưng thơ đi sứ của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở đó. Nó giàu chất trữ tình đồng thời cũng giàu tính hiện thực. Nó toát lên những âm điệu xốn xang, chua xót đến thấm thía về thân phận con người: Hà Nam thu bát nguyệt Tàn thử vị tiêu dung Lộ xuất lương phong ngoại Nhân hành liệt nhật trung Đồ trường tê quyện mã Mục đoạn diệt quy hồng Hà xứ thôi xa hán? Tương khan lục lục đồng. (Hà Nam đạo trung khốc thử) (Tiết thu, tháng tám ở Hà Nam Khí nóng tàn vẫn chưa tan hết Chỗ đường ra không có gió mát Người đi giữa nắng gay gắt Đường dài, ngựa mệt hí vang Mỏi mắt trông bóng chim hồng bay mất Quê ở đâu hả anh đẩy xe? Nhìn nhau thấy vất vả như nhau.) Qua vùng Hà Nam, gặp ngày nắng dữ, Nguyễn Du đã viết nên bài thơ này. Một vị chánh sứ. Một anh chàng đẩy xe. Tình người đã xóa nhòa khoảng ngăn dân tộc, giai cấp. Điều còn lại là những nỗi niềm đồng cảm sâu xa! Nhìn nhau thấy vất vả như nhau – lời thơ nghe nhẹ mà tình ý sâu nặng biết nhường nào! Nếu không có tấm lòng yêu thương mở rộng đến sáu cõi thì làm sao một vị quan chánh sứ có thể thấy mình và người phu xe là “như nhau” cho được! Đọc thơ đi sứ Nguyễn Du không thấy có những bài xướng họa ngâm vịnh với những bậc tao nhân mặc khách xứ Trung Hoa. Ẩn hiện trên trang viết là những sắc mặt ốm đói xanh xao, là cảnh loạn lạc của nhân dân cùng khổ: Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn Chỉ hữu xuân tác vô thu thành Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ Tự xuân tồ thu điền bất canh Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc Khang tì vi thực lê vi canh Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo Hoài trung táo tử thân biên khuynh Không ốc bích thượng hữu "tra" tự Sổ bách dư hộ giai cơ linh Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ Cầu đồ bão úc thân vi khinh. (Trở binh hành) (Ta nghe dân trong vùng nhiều năm khổ đại hạn Chỉ có cầy cấy mà không có thu hoạch Hồ Nam, Hà Nam đã lâu không mưa Từ xuân tới thu ruộng bỏ không cày Trai lớn gái nhỏ vẻ ốm đói Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh Tận mắt thấy người đói chết trên đường Hột táo trong bọc lăn bên mình Nhà bỏ không, có chữ "tra" (xét) trên vách Mấy trăm nhà đều trôi giạt vì đói Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân.) Trên con đường Bắc hành, gặp việc binh biến làm nghẽn đường, vị quan chánh sứ không khỏi thương cảm cho số phận của nhân dân trong vùng. Ông quan tâm, hiểu rõ tình cảnh của họ: đã mấy năm qua thời tiết hạn hán, nhân dân ra sức cày cấy mà không có thu hoạch cho nên ai nấy đều mang sắc mặt ốm đói, chỉ biết lấy tấm cám, rau lê thay cơm canh. Đau xót hơn, ông tận mắt thấy người chết đói bên đường, hột táo trong bọc còn lăn bên mình! Hình ảnh một người dân chết đói bên vệ đường, có lẽ không có gì đáng lưu tâm đối với bọn quan quân triều đình, và cũng không có gì là lạ đối với những người trong sứ bộ bởi lẽ cả mấy trăm nhà dân trong vùng đều trôi giạt vì đói. Nhưng với vị quan chánh sứ thì khác, hình ảnh ấy hiện lên đầy ám ảnh. Ông không chỉ thấy người chết nằm đó, mà còn thấy những hột táo rơi ra từ trong túi của họ - thấy được nỗi đói khát, khổ sở, tội nghiệp của họ trước khi chết. Cái nhìn ấy, rõ ràng không phải cái nhìn thương hại của một vị quan, cái nhìn hời hợt của một người khách qua đường mà là cái nhìn xuất phát từ một tấm lòng trắc ẩn mênh mông đối với mọi kiếp người. Nếu không có tấm lòng trắc ẩn mênh mông ấy, mấy cái hột táo nhỏ nhoi nằm lăn lóc bên vệ đường kia hẳn không hiện diện trên trang thơ! Và cũng chính qua mấy cái hột táo nhỏ nhoi ấy, vị chánh sứ nhìn ngay ra căn nguyên của việc binh biến, chẳng qua tại: Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân. Từ đó ông cất lời mỉa mai lũ quan binh: Dân tử tại tuế bất tại ngã. (Dân chết vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta.) Điển trên lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy dân đói thì đổ tội cho trời làm mà chẳng chịu nhận là mình không mang lại hạnh phúc cho dân. Những lời lẽ ấy khiến vị quan chánh sứ không khỏi phẫn nộ, buông lời vạch tội: Vật đắc khi tâm tế thánh minh. (Chớ nên dối lòng mà che mắt vua thánh.) Con đường đi sứ của Nguyễn Du là thế, không có những bức tranh xa hoa tráng lệ; không có khoảng cách địa vị, dân tộc giữa ông với những người dân nghèo Trung Quốc. Vị đại quan đã dụng công vẽ nên những bức tranh tả thực đầy xúc động về tình cảnh những người dân nghèo trên bước đường tha phương. Trong mỗi bức tranh tả thực, vị quan chánh sứ lại dựng lên hai cảnh đối lập nhau gay gắt. Bức tranh thứ nhất là bức tranh về ông cháu người hát rong mù ở thành Thái Bình. Và đây là hoàn cảnh tội nghiệp của họ: Thái Bình cổ sư thô bố y Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi Vân thị thành ngoại lão khất tử Mại ca khất tiền cung thần xuy. (Thái Bình mại ca giả) (Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô, Có em bé dắt ra bến sông. Bảo rằng đó là ông già ăn xin ở ngoài thành, Hát rong xin tiền để kiếm cơm.) Chỉ vài dòng giới thiệu ngắn ngủi nhưng cũng thấy được cái tâm lớn lao của người làm thơ. Vì nếu không quan tâm, tìm hiểu về hoàn cảnh của họ, thì một sứ giả phương Nam đến Bắc quốc như ông làm sao biết được những điều tưởng chừng nhỏ nhoi đó. Bắt gặp một cảnh đời đáng thương nào ông cũng dừng lại, cố công tìm hiểu về hoàn cảnh của họ, và mau chóng thấu hiểu được hoàn cảnh đó. Không chỉ biết họ, ông còn để tâm quan sát họ, lắng nghe họ. Cho nên bài thơ đậm đà tính chất tự sự, đã thuật lại đầy đủ, chi tiết về một màn biểu diễn của ông cháu người hát rong mù. Bất đầu từ khi họ xuất hiện: Lân chu thời hữu hiếu âm giả Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ. (Thuyền bên cạnh lúc đó có người thích nghe hát, Dắt tay ông già xuống thuyền, đến bên cửa sổ.) Cảnh trong thuyền: Thử thời thuyền trung ám vô đăng Khí phạn bát thủy thù lang tạ. (Lúc này trong thuyền tối không có đèn, Cơm thừa canh cặn đổ rất bừa bãi.) Những động tác đầu tiên của ông lão: Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung Tái tam cử thủ xưng đa tạ. (Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc, Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn.) Và rồi ông chính thức bắt đầu màn biểu diễn: Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh Thả đàn thả ca vô tạm đình. (Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát, Vừa múa vừa hát không ngừng nghỉ.) Tiếng hát của ông khiến cho: Quan giả thập số tịnh vô ngữ, Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh. (Hơn chục người xem đều im lặng lắng nghe, Chỉ thấy gió trên sông vi vu và trăng trên sông vằng vặc.) Như vậy, trình tự, diễn biến những hoạt động của ông cháu người hát rong mù đã được vị sứ thần miêu tả, kể lại một cách tỉ mỉ. Điều đáng nói là họ xuất hiện ở thuyền bên cạnh, chứ không phải trực tiếp xuống thuyền quan sứ. Thuyền bên lại tối tăm không có đèn. Cho nên có thể thấy ánh mắt, tâm hồn vị quan không đặt ở nơi ông đang ngồi nữa mà luôn dõi theo ông cháu người hát rong tội nghiệp. Và vì luôn dõi theo đau đáu như thế nên mới thấy được: Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc, Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc. Đàn tận tâm lực cơ nhất canh, Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục. Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai, Do thả hồi cố đảo đa phúc. (Miệng sùi bọt, tay rã rời, Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong. Dốc hết tâm lực gần một trống canh, Mà chỉ được năm sáu đồng tiền. Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền, Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”.) Hình ảnh ông cháu người hát rong mù làm ta nhớ đến hình ảnh cảm động về hai ông cháu ăn xin: lão Arkhip và bé Lionka trong truyện ngắn của văn hào Nga M.Gorki. Thời đại nào cũng vậy, những tâm hồn lớn thường gặp nhau ở điểm nhìn. Người già và em nhỏ - đối tượng của sự nâng niu, trìu mến và trân trọng. Vậy mà ở đây, họ bị xô đẩy vào những ngõ hẻm lầy lội của cuộc đời. Hình ảnh ông lão “miệng sùi bọt, tay rã rời” mà cuối cùng “chỉ được năm sáu đồng tiền” mãi ám ảnh tâm trí người đọc. Vậy mà sau khi ra khỏi thuyền còn quay lại chúc “đa phúc”. Có cái gì đó tội nghiệp, tội nghiệp đến chua xót. Ông lão chúc “đa phúc” cho người đời, liệu ông có được chút phúc phần nào từ người đời chăng? Lẽ thường người có áo cừu chăn bông làm sao biết lạnh! Lão Arkhip và bé Lionka bị xua đuổi đã chết tức tưởi trong một đêm mưa lạnh ghê người. Vậy thì đâu là kết cục của ông cháu người hát rong mù? Không ai có thể trả lời câu hỏi ấy, chỉ biết đây là tâm trạng của nhà thơ: Ngã sạ kiến chi, bi thả tân Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần. Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão Trung Hoa diệc hữu như thử nhân. (Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót, Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo. Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm, Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này.) Buồn, đau, xót cho thân phận con người! Ở Trung Nguyên to lớn này cũng có người đói khổ như vậy. Thì ra ở nơi đâu cũng có người đói khổ, đáng thương. Lời thơ giản dị, nhưng lại chứa đựng một phát hiện mang tính bản chất của cuộc sống, xã hội đương thời. Những phát hiện mang tính quy luật như thế, nếu không có con mắt trông khắp sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến nghìn đời thì sao có được! Một bức tranh hiện thực có sức khái quát cao nữa là bức tranh về mấy mẹ con người ăn xin bên đường: Hữu phụ huề tam nhi, Tương tương tọa đạo bàng. Tiểu giả tại hoài trung, Ðại giả trì trúc khuông. Khuông trung hà sở thịnh? Lê hoắc tạp tì khang. Nhật án bất đắc thực, Y quần hà khuông nhương! (Có người đàn bà dắt ba đứa con, Cùng nhau ngồi ở bên đường, Ðứa bé thì ẵm trong lòng, Ðứa lớn xách giỏ tre. Trong giỏ đựng những gì? Rau hoắc, rau lê lẫn với cám. Quá trưa rồi vẫn chưa có gì ăn, Áo quần sao mà rách rưới quá!) Những hình ảnh về mấy mẹ con ăn xin tội nghiệp lần lượt hiện lên như trong một đoạn phim quay chậm: hình ảnh người đàn ba dắt ba đứa con, họ ngồi xuống bên đường, đứa bé còn phải ẵm ngửa, đứa lớn xách cái giỏ tre, nhìn vào giỏ tre không thấy có cơm, chỉ có rau lê, rau hoắc lẫn tấm cám; áo quần của họ thì vô cùng rách rưới. Những hình ảnh chân thực, kĩ lưỡng ấy là kết quả của một quá trình để tâm quan sát. Điều đáng nói, vị chánh sứ ở đây không chỉ quan sát, như một kẻ bề trên rủ lòng thương hại những kẻ bần cùng dưới đáy xã hội, mà đó là cái nhìn đầy thương cảm: quá trưa rồi vẫn chưa có gì ăn. Hơn thế nữa, là cái nhìn đồng cảm, nhập thân: Kiến nhân bất ngưỡng thị, Lệ lưu khâm lang lang. Quần nhi thả hỉ tiếu, Bất tri mẫu tâm thương. (Sở kiến hành) (Thấy người không dám ngước nhìn lên, Nước mắt chảy ròng ròng trên vạt áo. Bầy con vẫn cười vui, Không biết lòng mẹ đau.) Người mẹ đói rách khổ sở cùng ba đứa con lê la khắp đầu đường xó chợ. Khổ sở hơn khi thấy người mà chẳng dám ngước nhìn lên. Không dám ngước mắt vì biết mình đói, mình rách, mình hèn kém. Thân phận kẻ nghèo, Nguyễn Du từng thốt lên chua chát: “Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo”. Không muốn nhưng vẫn phải chịu. Vì vậy mà tủi, mà nghẹn ngào nước mắt rơi ướt vạt áo. Bên cạnh nước mắt đắng cay của người mẹ, bầy con vẫn hồn nhiên cười vui. Nụ cười trẻ nhỏ thơ ngây, trong sáng quá đỗi nhưng không khỏi làm người ta thắt lòng. Trẻ thơ như lá biếc chồi non, vậy mà chưa kịp hưởng mùa xuân cuộc đời, mẹ của các em đã nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rảnh, máu thịt nuôi sài lang. “Thân mẹ”chết cũng không đáng tiếc. Tấm lòng người mẹ, từ ngàn xưa vẫn là biển cả. Nhưng còn các con, những nụ cười hồn nhiên kia đâu có tội tình gì? Lại là một câu hỏi lớn về số phận con người. Ai là người có thể trả lời? Chỉ biết rằng, ở phía tây, “mặt trời cũng vì người mà vàng úa”. Nếu ở “Thanh Hiên thi tập” và “Nam trung tạp ngâm”, Nguyễn Du còn hoang mang giữa lẽ đổi thay chóng vánh của cuộc đời thì ở “Bắc hành tạp lục”, vị quan băn khoăn về số phận của con người. Phải chăng số mệnh tại trời? Nhà thơ không trả lời nhưng tự thân hiện thực trong tác phẩm có thể cất lên tiếng nói. Bên cạnh hai ông cháu hát rong đáng thương là cảnh: Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ. Hành nhân bão thực tiện khí dư, Tàn hào lãnh phạn trầm giang để. (Thái Bình mại giả ca) (Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt. Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt, Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông.) Bên cạnh bốn mẹ con đói rách phiêu giạt là cảnh: Tạc tiêu Tây Hà dịch, Cung cụ hà trương hoàng! Lộc cân tạp ngư xí, Mãn trác trần trư dương. Trưởng quan bất hạ trợ, Tiểu môn chỉ lược thường. Bát khí vô cố tích, Lân cẩu yếm cao lương. (Sở kiến hành) (Ðêm qua ở trạm Tây Hà Mâm cỗ cung đốn sao mà linh đình! Nào là gân hươu, vây cá, Ðầy bàn thịt lợn, thịt dê. Quan lớn không chọc đũa, Người tùy tùng chỉ nếm qua.) Đồ bỏ không hề tiếc, Chó hàng xóm cũng chán thức ngon.) Nguyễn Du không bình luận gì cả. Chỉ cần hạ một câu: “chó hàng xóm cũng chán cao lương” đã đủ thấy một sự đối lập đến gay gắt. Sự đối lập ấy bộc lộ hết cái chua xót của kiếp người và cái bất công của lẽ đời. Một chút phẫn nộ, một chút châm biếm sâu cay ẩn đằng sau những câu thơ: Thuỳ nhân tả thử đồ Trì dĩ phụng quân vương? (Sở kiến hành) (Ai vẽ bức tranh này, Đem dâng lên nhà vua!) Lại một câu hỏi lớn được ném vào giữa cuộc đời. Ai là người có thể trả lời? Sẽ chẳng là ai giữa xã hội này – xã hội phong kiến Trung Hoa vốn “ăn thịt người’ ngọt ngon, vốn coi người “tỉnh” là điên. Xã hội ấy có gì khác với xã hội Việt Nam thời Nguyễn Du đâu. Dân nghèo thì vẫn bỏ cửa nhà quê hương dắt díu nhau đi phiêu bạt. Vua chúa thì vẫn đắm chìm trong tửu sắc, trong việc xây dựng cung điện đền đài. Có lẽ chưa bao giờ như bây giờ, Nguyễn Du hiểu rõ nhân tình thế thái đến vậy! Ở đâu thì người dân lao động cũng cùng cực và họ dù là dân Trung Quốc hay dân Việt Nam cũng đều đáng thương như nhau! Và Nguyễn Du đã nắm bắt được hiện tượng rất đắt, rất tiêu biểu ấy, để dựng lên thành côn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHPPDH033.pdf