LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN.ii
MỤC LỤC.iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT . v
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. 6
1.1. Những nghiên cứu về đại đoàn kết trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. 6
1.2. Những nghiên cứu về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. 21
1.3. Những nghiên cứu về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nói
chung và nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết nói riêng . 28
1.4. Một số vấn đề đặt ra, luận án cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. 30
Tiểu kết chương 1. 32
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUYÊN
TẮC, PHưƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT. 33
2.1. Các khái niệm cơ bản. 33
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp
đại đoàn kết. 42
Tiểu kết chương 2. 60
Chương 3. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA Tư TưỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ NGUYÊN TẮC, PHưƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT . 62
3.1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết . 62
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc đại đoàn kết . 71
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp đại đoàn kết . 84
48 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa quê hương, gia đình, dân tộc. “Ngọn cờ ĐĐK mà Hồ Chí
Minh giương cao xuất phát từ tình cảm tương thân, tương ái, độ lượng, bao dung mà
14
Người đã hấp thụ được từ trong truyền thống văn hóa gia đình, quê hương, dân tộc,
được nuôi dưỡng, bồi đắp và phát triển suốt cả thời kỳ tuổi trẻ. Từ dân tộc đến quốc
tế, từ truyền thống đến hiện đại, mà sự kiện tác động, ảnh hưởng có vị trí quan trọng
nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã đem đến cho Hồ Chí Minh một phương pháp tư
duy mới, cách mạng và khoa học về vấn đề đoàn kết lực lượng trong cuộc chiến đấu
chống kẻ thù của dân tộc và nhân loại vì sự nghiệp giải phóng con người và mưu
cầu hạnh phúc cho mọi người” [10, tr.33-34]. Các tác giả khẳng định, ĐĐKDT là
một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh “...tư tưởng ĐĐK của Hồ Chí Minh
đã trở thành chiến lược đoàn kết của Đảng ta. Tư tưởng đó luôn luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, bám sát mục tiêu chiến lược của cách mạng được cụ thể hóa
sinh động ở mỗi thời kỳ cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết là ngọn cờ
đoàn kết dân tộc, đoàn kết lâu dài toàn dân, trở thành một trong những nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam” [10, tr.63]. Các tác giả cũng đã
làm rõ: Tư tưởng ĐĐK của Hồ Chí Minh là một nhân tố cực kỳ quan trọng, góp
phần tạo nên thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập, tự do, kháng chiến kiến quốc và
xây dựng đất nước. Tư tưởng đó không chỉ có giá trị đối với dân tộc mà “đang được
nhân loại tiến bộ khai thác, vận dụng và phát triển như là một vũ khí tinh thần sắc
bén trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng loài người trên hành tinh chúng
ta” [10, tr.132]. Các tác giả cho rằng: Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cộng
sản và lãnh tụ cách mạng của dân tộc Việt Nam. “Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là
người đầu tiên mở cửa nước ta với bên ngoài, thiết lập sự hiểu biết giữa nhân dân ta
với các lực lượng cách mạng, hòa bình và dân chủ trên thế giới” [10, tr.67]. Các tác
giả đã đi sâu phân tích điều kiện hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT và
đưa ra những quan điểm về ĐKQT của Hồ Chí Minh, đó là: Xây dựng khối liên
minh chiến đấu giữa nhân dân chính quốc và nhân dân thuộc địa. Kêu gọi lao động
tất cả các nước đoàn kết lại. Đoàn kết với các nước láng giềng ở châu Á, Đông Nam
Á. Đoàn kết với các nước XHCN anh em. Làm bạn với tất cả các nước dân chủ.
Trong cuốn “Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh”, GS.
Đinh Xuân Lâm tìm hiểu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Con đường cứu nước của
15
Hồ Chí Minh. Việc truyền bá CNMLN vào Nghệ Tĩnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục. Đoàn kết dân tộc, tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh... Công trình của GS đi
nghiên cứu theo những lát cắt khác nhau, giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc đời và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong công trình này, GS đã nêu lên: Đoàn kết dân tộc là
một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam, “chính
nghĩa sống còn của các quốc gia dân tộc trên thế giới, đó chính là tư tưởng của hội
tụ thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh” [55, tr.151]; tác giả
khẳng định: “Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, lúc nào thực hiện đúng chiến lược
ĐĐK của Hồ Chí Minh là lúc đó dân tộc thống nhất về một mối” [55, tr.151].
Trong cuốn “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán
bộ, đảng viên hiện nay” PGS. TS. Hoàng Trang và PGS. TS. Phạm Ngọc Anh cho
rằng: Sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân được Hồ Chí Minh sử dụng vào mục đích
nhân văn cao cả: Chống giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt, chống thù trong, giặc
ngoài đem lại độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân và nhân phẩm cho
mỗi người. Các tác giả khẳng định: “...tư tưởng và chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh đã
đạt tới sự hoàn chỉnh. Đó là sự kết hợp chặt chẽ nhân văn truyền thống với nhân văn
hiện đại, cách mạng và khoa học, dân tộc và quốc tế... Nếu đoàn kết là nhân tố chi
phối tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa nhân văn
lại là nhân tố xuyên suốt và xâm nhập toàn bộ tư tưởng, chiến lược ĐĐK Hồ Chí
Minh” [120, tr.64]. Các tác giả đề cập đến tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh, từ sự
khoan dung mà Hồ Chí Minh luôn biết mềm dẻo, ôn hòa trong việc tìm ra cái
chung, cái thống nhất từ những cái khác biệt với mục đích phục vụ lợi ích quốc gia
dân tộc. “Chính sách ĐĐKDT và tấm lòng khoan dung, độ lượng của Hồ Chí Minh
đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đã cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí
thức có tên tuổi, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, một lòng một dạ đi theo
cách mạng đến cùng,...” [120, tr.153].
Trong công trình này, các tác giả chủ yếu đề cập đến: 1).Cơ sở hình thành và
vị trí tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; 2).Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh; 3).Giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
16
Đây không phải là công trình nghiên cứu trực tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐK,
song qua toàn bộ công trình ta cảm nhận được giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh ảnh hưởng chi phối của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đến đời sống
hoạt động của con người. Điều liên quan đến đề tài mà người viết luận án tiếp nhận
được trong “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh” là sự khoan dung. Đối với Hồ Chí
Minh, khoan dung cũng chính là một biểu hiện sức mạnh của cách mạng. Như vậy,
“khoan dung, độ lượng là để cảm hóa lòng người, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
tạo thành sức mạnh chiến thắng kẻ thù và xây dựng đất nước” [120, tr.157].
PGS.TS. Trần Hậu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu về đại đoàn kết dân tộc”,
đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề: Bối cảnh đất nước và những vấn đề đặt ra cho việc
khơi dậy động lực đại đoàn kết dân tộc, phát huy mạnh mẽ động lực đại đoàn kết dân
tộc. Nghiên cứu thực trạng khối liên minh công, nông, trí thức và việc củng cố khối
ĐĐKDT, tác giả khẳng định: “Chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh là kết tinh những tinh
hoa của dân tộc và thế giới, là cơ sở vững chắc bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách
mạng nước ta, trong cách mạng dân tộc dân chủ và cả trong cách mạng XHCN” [43,
tr.25]. Tác giả nhấn mạnh: ĐĐKDT là một đường lối đúng đắn không thể nào phủ
nhận và xuyên tạc được, “Nhờ có đoàn kết đồng lòng mà 54 dân tộc anh em cùng
chung sống trên mảnh đất của Tổ quốc Việt Nam đã vượt qua bao gian lao thử thách,
chống chọi được với thiên tai địch họa, bảo vệ được giang sơn, bờ cõi, thống nhất trọn
vẹn...” [43, tr.26]. Tác giả đã lý giải ĐĐKDT là một đường lối đúng đắn và là động lực
phát triển trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam. ĐĐK đã khơi dậy, nuôi dưỡng và phát
huy được tính tích cực của con người, hướng tính tích cực của con người hành động
theo quỹ đạo của quy luật phát triển khách quan của công cuộc đổi mới.
Trong cuốn “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh”, GS.TS. Hoàng Chí Bảo cho
rằng: ĐĐKDT không chỉ là tư tưởng chiến lược của Hồ Chí Minh mà Hồ Chí Minh còn
là hiện thân của sự đoàn kết. GS khẳng định: “Đoàn kết và ĐĐK là một tư tưởng
chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Người đã thực hành tư tưởng đó một cách mẫu
mực và công phu gây dựng chăm lo, phát triển sức mạnh đoàn kết từ trong Đảng,
trong Nhà nước, nhân dân và xã hội” [9, tr.260].
17
Trong cuốn “Toàn dân đoàn kết chống Mỹ cứu nước dưới ngọn cờ tư tưởng
Hồ Chí Minh (1954 - 1975)”, PGS. TS. Hoàng Trang đã trình bày cơ sở hình thành
tư tưởng ĐĐK Hồ Chí Minh; tác giả đề cập đến vấn đề tăng cường ĐKDT, mở rộng
ĐKQT để đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược. Trong công trình này, PGS. TS. Hoàng
Trang đi sâu phân tích vấn đề: Thực hiện đoàn kết dân tộc, mở rộng ĐKQT, đánh bại
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. “Tư tưởng ĐĐK Hồ Chí Minh
soi sáng chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng, trong đó
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một điểm sáng chói lọi, đã đưa cuộc
kháng chiến đến thắng lợi và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho ngày nay” [119,
tr.214]. Tác giả đã dùng thực tiễn kháng chiến chống Mỹ của dân tộc (1954-1975)
với sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh cách
mạng nước ta đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định: “Tư
tưởng ĐĐK Hồ Chí Minh đã đáp ứng được đòi hỏi khách quan của dân tộc và nhân
loại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc đi lên CNXH” [119, tr.213].
Tham gia Hội thảo quốc tế về “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội”, PGS.TS. Phạm Văn Đức với bài viết “Vai trò và cơ sở của đoàn
kết xã hội ở Việt Nam hiện nay” đã nêu lên quan điểm của Hồ Chí Minh về
ĐĐKDT: Đó là một chính sách dân tộc, đó là sự đoàn kết rộng rãi, là sức mạnh của
nhân dân không phân biệt lương, giáo hay Mường Mán. Đoàn kết trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự đồng thuận xã hội để xây dựng đất nước [123, tr.412-413]. GS.TS.
Hoàng Chí Bảo có bài viết “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội” đã nhấn
mạnh vai trò của dân chủ đối với việc thực hiện đoàn kết. GS nhận định: Dân chủ
gắn liền với đoàn kết, đồng thuận nó hợp thành hệ giá trị của phát triển, văn hóa của
phát triển; “Dân chủ là cơ sở, là điều kiện và tiền đề của đoàn kết và đồng thuận xã
hội. Chỉ khi nào dân chủ là thực chất (chứ không phải hình thức, giả hiệu, mị dân -
mà những biểu hiện này vẫn thường thấy xuất hiện trong đời sống, nó đi liền với sự
vi phạm dân chủ, những đối lập với dân chủ) thì khi đó mới có đoàn kết thực sự,
thực chất, mới tăng cường được đồng thuận” [123, tr.442].
18
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” do TS. Đặng Văn Thái chủ biên, các tác giả
phân tích rõ vấn đề: Đoàn kết, hợp tác quốc tế được Hồ Chí Minh quan tâm chỉ đạo
và trực tiếp thực hiện từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, nhằm mục tiêu phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh là người đã gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Các tác giả đi đến
kết luận “Tư tưởng hợp tác, đoàn kết các lực lượng của dân tộc với lực lượng cách
mạng thế giới đã từng bước được Người hiện thực hóa” [98, tr.30], “Có thể nói, Hồ
Chí Minh là một trong những người Việt Nam sớm nhận biết lợi ích của việc mở
rộng giao lưu quốc tế” [109, tr.68].
PGS.TS. Lê Văn Yên trong cuốn “Hồ Chí Minh với chiến lược ĐKQT trong
cách mạng giải phóng dân tộc”, tác giả đã làm rõ quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng mối quan hệ ĐKQT. Tác giả khẳng định: “Người đầu tiên đưa
khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đời sống quốc tế, biến nó thành
hiện thực sinh động là Hồ Chí Minh. Đây là một cống hiến lớn lao đối với cách mạng
thế giới làm giàu chủ nghĩa Mác - Lênin và đoàn kết quốc tế” [126, tr.256].
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho sinh viên các trường Đại học,
Cao đẳng khối chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), đã dành một
chương riêng “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT và ĐKQT” trong môn học:
Về ĐĐKDT, Giáo trình đã nêu những nét cơ bản của “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về ĐĐKDT” như: ĐĐKDT có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng,
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. ĐĐKDT là đại đoàn kết toàn dân,
không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo. Hình thức của ĐĐKDT là Mặt trận
dân tộc thống nhất, nơi hội tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước hoạt động theo nguyên
tắc hiệp thương dân chủ vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Về ĐKQT, Giáo trình nêu: Vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT. Lực
lượng và hình thức ĐKQT. Nguyên tắc ĐKQT.
PGS.TS. Đinh Xuân Lý trong bài viết “Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập
tự chủ trong đoàn kết, hợp tác quốc tế và sự vận dụng của Đảng”, đi sâu phân tích
19
độc lập tự chủ trong đoàn kết, hợp tác quốc tế là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh “Nhờ kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình hữu nghị với các nước theo quan điểm Hồ Chí Minh, trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Việt Nam đã tranh thủ được sự
ủng hộ của phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi” [67, tr.10].
Tìm hiểu vấn đề dân tộc và quốc tế trong tư duy đối ngoại của Hồ Chí Minh,
TS. Nguyễn Đình Luân đề cập đến vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm
nhiều nội dung: Lợi ích dân tộc; đoàn kết dân tộc, độc lập dân tộc, sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia dân tộc. Tác giả cho rằng: Quan điểm “bốn bể một nhà” của
Hồ Chí Minh là một sự minh triết, “sự phụ thuộc lẫn nhau” và “bốn bể một nhà” là cơ
sở lý luận quan trọng để Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chính sách mở cửa hợp tác quốc
tế, với các nước không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị [66, tr.26-29].
Hồng Hà với bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại cảm nhận và thực
hiện” đăng trên Tạp chí Đối ngoại số 1 tháng 5 -2009, đã trình bày nguồn gốc tư
tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại: Đặt
lợi ích dân tộc lên trên hết, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thực
hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác, kiên định về nguyên tắc
đồng thời mềm dẻo về sách lược. Tác giả khẳng định: Nhờ có đường lối ngoại giao
tài tình, khéo léo của Hồ Chí Minh mà cách mạng nước ta thu được nhiều thành tựu.
“Công tác đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn,
hết sức quan trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã có quan hệ ngoại giao
rộng rãi với các nước trên thế giới và các tổ chức thương mại - tài chính - tiền tệ,
quốc tế vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Tất cả
những thành tựu đó đều là kết quả vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại, mang đậm nét và dấu ấn của Người” [40, tr.5].
Trong luận án tiến sĩ: “Quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí
Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)” [47], tác giả
Khuất Thị Hoa đã phân tích rõ: Chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh trước nhiệm vụ mới
của cách mạng Việt Nam; Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện chiến
20
lược ĐĐK giai đoạn 1945 - 1954; Tác giả đưa ra một số bài học kinh nghiệm của
quá trình thực hiện chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945 - 1954.
Các luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng liên quan đến đề tài: Tư
tưởng Hồ chí Minh và sự thể hiện trong cách mạng Việt nam (1945-1954), của
Nguyễn Xuân Thông; Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện chiến lược
ĐĐK Hồ Chí Minh giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), của
Hoàng Trang. Nhìn chung, các luận án trên đã tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về ĐĐKDT, ĐKQT và sự kết hợp sức mạnh ĐĐKDT và ĐKQT trong các
giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Trọng Khuê đưa ra một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về ĐĐKDT trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự, đăng trên Tạp chí Công an
nhân dân số 4 tháng 5 – 2002.
Trần Duy Hiển với bài “Đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2008, cho rằng: Trong tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh, tư tưởng đoàn kết tôn giáo là một bộ phận không thể
tách rời. Học tập và làm theo tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Người giúp tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân. Tác giả khẳng định: “Tín ngưỡng tự do, lương
giáo đoàn kết là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo, là biểu hiện sinh động của đoàn kết tôn giáo trên nền
tảng ĐĐKDT” [46, tr.28].
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT và ĐKQT được đề cập đến trong
nhiều công trình, nhiều bài viết ở nhiều dạng thức khác nhau. Phần lớn các công
trình đề cập đến cơ sở, nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐĐKDT, nhưng chưa đề cập đến cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về nguyên tắc phương pháp ĐĐK. Một số công trình khác nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về ĐĐKDT trong các giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam:
1930-1945; 1945-1954; 1954-1975. Và có những công trình nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về ĐKQT, về hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh Các công
21
trình đó cung cấp cho tác giả luận án cái nhìn toàn diện về ĐĐKDT và ĐKQT trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để người viết luận án này đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc và phương pháp ĐĐK.
1.2. Những nghiên cứu về nguyên tắc, phƣơng pháp đại đoàn kết trong
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Trong cuốn “Nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong
tư tưởng Hồ Chí Minh” (2010), TS. Lương Thùy Liên khẳng định: Nguyên tắc thống
nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là một
nguyên tắc có tính phương pháp luận mácxít, là nguyên tắc thống nhất giữa tinh
thần nhân văn và lập trường cách mạng triệt để. Tác giả đã chỉ ra nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, xét cho cùng là nhằm thực
hiện mục tiêu cao nhất là giải phóng và phát triển toàn diện con người, mang lại cho
mỗi cá nhân, con người sự tự do hạnh phúc đích thực. Theo TS. Lương Thùy Liên:
Nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện ở việc Người luôn nhận thức và giải quyết mối quan hệ dân tộc, giai
cấp, nhân loại trên lập trường của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh giải quyết mối
quan hệ dân tộc, giai cấp, nhân loại trên quan điểm tôn trọng lẫn nhau, chấp nhận sự
khác biệt. TS. Lương Thùy Liên nhận xét: Việc Hồ Chí Minh giải quyết mối quan
hệ dân tộc, giai cấp, nhân loại “thể hiện bản lĩnh của một con người đã khéo léo, tài
tình vượt lên những hạn chế của hoàn cảnh, của thời đại để kiên định lý tưởng nhân
văn cao đẹp của nguyên tắc (lý tưởng )” [62, tr.42].
Trong công trình “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” (2005), GS.TS. Hoàng
Chí Bảo mang lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về phương pháp, phong cách của
Hồ Chí Minh. Giáo sư cho rằng: Nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh không thể
tách rời tư tưởng với phong cách, đạo đức, lối sống của Người. Phương pháp Hồ Chí
Minh là phương pháp ở tầm tư tưởng và hành động, ở sự gắn liền khoa học, cách mạng
và nhân văn là những thuộc tính bản chất trong tư tưởng của Người, trong sự thống
nhất hữu cơ giữa tư tưởng và hành động của Người. Nghiên cứu phương pháp Hồ Chí
Minh là nghiên cứu phương pháp luận cách mạng được thể hiện trong: Tư tưởng quân
22
sự, tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức nhân văn của Người. GS đã nhấn mạnh đến tư
tưởng, ý nghĩa phương pháp luận toát lên từ tư tưởng cứu nước, cứu dân, giải phóng
dân tộc của Hồ Chí Minh. GS nhận định: Phương pháp Hồ Chí Minh còn thể hiện tư
tưởng của Người về đạo đức và tu dưỡng đạo đức cách mạng, về tinh thần khoan dung
nhân ái, là phương pháp thực hành dân chủ, đoàn kết và ĐĐK toàn dân, củng cố mối
quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân... Những phương pháp của Người không chỉ nhằm
nâng cao nhận thức tư tưởng mà còn thể hiện sâu sắc những phương pháp để thực hành
trong cuộc sống. GS khẳng định: Phương pháp Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể
thống nhất giữa phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy và phương pháp hành
động. Nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh là nghiên cứu những vấn đề đặt ra từ lý
luận đến thực tiễn, dùng lý luận để chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, đường lối cách mạng phải
dựa trên cơ sở lý luận cách mạng, từ đó chỉ đạo thực tiễn, chỉ rõ con đường cách mạng
mà dân tộc phải đi và mục tiêu phải lựa chọn. Hồ Chí Minh bám sát thực tiễn, phân tích
thực tiễn với sự am hiểu sâu sắc và làm chủ lý luận, kết hợp thực tiễn với lý luận, lý
luận với thực tiễn. GS. TS. Hoàng Chí Bảo nhận xét: “Với Hồ Chí Minh, lý luận được
tiêu hóa, thấm vào trong thực tiễn, biến thành phương pháp, trở thành tư tưởng nhờ
năng lực tư duy khoa học, độc lập sáng tạo của Người. Người đề cập tới lý luận, trình
bày các vấn đề lý luận một cách thực tiễn, linh hoạt, uyển chuyển tự nhiên, bởi Người
nắm lấy thực chất của lý luận ở tinh thần và phương pháp của nó để soi sáng thực
tiễn...” [4, tr.33].
Trong cuốn “Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” [117], GS.TS. Phạm
Ngọc Quang với bài Nêu cao chữ “đồng” đã khẳng định: Hồ Chí Minh đã hóa giải
một cách khôn ngoan những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh
nhất định, nêu cao sự tương đồng để tập trung cao nhất mọi lực lượng, mọi trí tuệ
cho toàn cục.
Nguyễn Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang, trong cuốn “Một số nội
dung cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, đã phân tích tư tưởng Hồ
Chí Minh về ĐĐKDT và ĐKQT, chưa đề cập đến nguyên tắc đại đoàn kết và
phương pháp đại đoàn kết của Hồ Chí Minh,
23
GS. Phùng Hữu Phú (chủ biên), trong tác phẩm "Chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh", đã khẳng định: Vấn đề ĐĐK trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một
chiến lược. Chiến lược đó là sản phẩm của cả một quá trình học hỏi, tiếp thu,
khảo nghiệm, đúc kết, sáng tạo, tiếp thu một cách có chọn lọc truyền thống dân tộc
và tinh hoa văn hoá nhân loại. ĐĐK trong nhận thức của Hồ Chí Minh không chỉ là
phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng mà nó là một bộ phận hữu cơ,
một tư tưởng xuyên suốt đường lối chiến lược cách mạng. ĐĐK trong nhận thức
của Hồ Chí Minh, không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất phát từ sự cần
thiết, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo cách mạng mà xuất phát từ nhu
cầu của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành. Hồ Chí Minh đã giải quyết
tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế; đã khơi dậy và phát
triển đến đỉnh cao sức mạnh của cả cộng đồng xã hội. GS. Phùng Hữu Phú đưa ra
nhận xét: "Chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm, nguyên
tắc, phương pháp và biện pháp giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực
lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh
quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"
[97, tr.132-133]. Trong công trình này các tác giả đi sâu phân tích “nội dung chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, gồm 3 nguyên tắc và 3 phương pháp ĐĐK:
Nguyên tắc: 1).ĐĐK phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích
tối cao của dân tộc và những quyền lợi của nhân dân lao động. 2).Tin vào dân, dựa
vào dân là một nguyên tắc cơ bản trong chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh. 3).ĐĐK
một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; ĐĐK lâu dài, bền vững - nguyên tắc nhất
quán của Hồ Chí Minh.
Phương pháp: 1).Muốn xây dựng khối ĐĐK, trước hết phải có phương pháp
tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng thật sự khoa học để mọi người tự mình
nhận thức được sự cần thiết phải tập hợp lại, từ đó tự giác tham gia công việc cách
mạng. 2).Phương pháp tổ chức. 3).Phương pháp ĐĐK Hồ Chí Minh là sự kết hợp đồng
bộ, hiệu quả các giải pháp ứng xử sao cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến
cách mạng và thu hẹp đến mức tối đa trận tuyến thù địch [97, tr.133-167].
24
Trong công trình này, ngoài những vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo
ĐKDT các tác giả còn đề cập đến ĐKQT. Các tác giả cho rằng: “Đồng thời với
việc nhận thức, giải quyết đúng quan hệ giai cấp - dân tộc, trong nguyên tắc
chiến lược ĐĐK Hồ Chí Minh còn bao hàm sự kết hợp chặt chẽ ĐKDT với
ĐKQT” [97, tr.140]. Theo các tác giả, đối tượng ĐKQT là phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình thế giới,
trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược
nước ta; Trong mối quan hệ đối ngoại, Hồ Chí Minh kết hợp chặt chẽ việc giữ vững
độc lập tự chủ với việc tăng cường đoàn kết quốc tế.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” do TS. Đặng Văn Thái (chủ biên), các tác
giả đã đề cập đến quan điểm của Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế. Khi Người hoạch
định, xây dựng chính sách quan hệ, hợp tác với các nước thì nguyên tắc đặt ra là
phải khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt, đồng thời phải giữ vững lập trường theo mục
tiêu của cách mạng, giữ vững độc lập tự chủ, không dao động trước bất cứ áp lực
nào. Các tác giả nêu lên một số quan điểm mang tính nguyên tắc chỉ đạo hoạt động
hợp tác quốc tế và phương pháp trong quan hệ hợp tác quốc tế của Hồ Chí Minh
mà Đảng, Nhà nước ta cần tuân thủ.
Về nguyên tắc: 1).Sẵn sàng mở rộng hợp tác với tất cả các nước, trên nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. 2).Hợp
tác trên cơ sở tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau. 3).Các nước trên thế giới tăng
cường trao đổi, hợp tác với nhau, giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, tranh chấp thông
qua đối thoại, đàm phán không dùng vũ lực. 4).Thiết lập mối quan hệ hữu nghị và
hợp tác bền chặt với các nước láng giềng và trong khu vực. 5).Xử lý mềm dẻo, linh
hoạt trong quan hệ hợp tác với các nước lớn.
Về phương pháp: 1).Phân tích, nhìn nhận, đánh giá tình hình thế giới, khu
vực để xây dựng chiến lược, sách lược đối ngoại, hợp tác quốc tế phù hợp. 2).Trong
q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004302_1_1218_2002766.pdf