rang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
NƢỚC TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN.8
1.1. Kiểm soát quyền lực là biểu hiện cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền .8
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền.8
1.1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước là biểu hiện cơ bản của nhà nước
pháp quyền.16
1.2. Vai trò, ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc.21
1.3. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp quyền .24
1.3.1. Chủ thể, đối tượng, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước.26
1.3.2. Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền.39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC.52
2.1. Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .52
2.2. Phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản đổi mới và tăng cƣờng kiểm soát
quyền lực nhà nƣớc .61
2.2.1. Hoàn thiện cơ chế phân công phối hợp kiểm soát quyền lực nhà nước.61
2.2.2. Hoàn thiện cơ chế giám sát của Đảng .64
2.2.3. Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan Nhà nước. .67
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế giám sát xã hội .77
KẾT LUẬN .85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.88
59 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhà nước pháp quyền và vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào một
nhánh quyền lực nào theo kiểu phân lập quyền lực mà là sự thống nhất ở mục tiêu
chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc.
Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quan điểm về quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ
sở phân công và phân phối trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công phối hợp là phương
thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
- Dựa trên sự bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhâṇ,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
- Thiết lập trong cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đảng
duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những
không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là
điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, Nhà nước
pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nƣớc
Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền
lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân không
trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho Nhà nước thay
mình thực hiện, tuy nhiên khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại
thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình
lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển sang số ít của một nhóm người hoặc
22
của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước
nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà
nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho
cùng là giao cho những con người cụ thể thực thi. Mà hành động của con người thì
luôn luôn chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục vọng khiến cho lý tính đôi
khi bị chìm khuất. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay
tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với
đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn
làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền.mặt khác quyền lực nhà nước
không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm xác định được một cách
chính xác, để có thể giao quyền một cách cụ thể. Chính vì vậy mà kiểm soát quyền
lực nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sự lộng quyền, lạm
quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà
nước giữa các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực
nhà nước bị hạn chế.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta coi
là nhiệm vụ quan trọng và đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhiệm vụ đó được Đảng
đặt trong định hướng chung của việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo,
bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Vị trí, vai trò của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ý nghĩa lớn trong việc khẳng tính thống nhất về bản
chất của quyền lực Nhà nước ở nước ta. Quyền lực Nhà nước là quyền lực thống
nhất của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể hơn, quyền lực Nhà nước đó
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Bản chất Hiến định của Nhà nước ta là như vậy. Nhưng để
duy trì được sự thống nhất về bản chất cũng như sự thống nhất về mục tiêu, định
hướng của quyền lực Nhà nước là giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính
23
nhân dân của quyền lực Nhà nước thì phải luôn bảo đảm cho quyền lực Nhà nước ở
trong quỹ đạo nhất định. Vì vậy, phải có giám sát, thiếu giám sát sẽ có nguy cơ
quyền lực Nhà nước đi chệch khỏi quỹ đạo về bản chất giai cấp. Cho nên, để đạt
được các mục tiêu mà quyền lực Nhà nước của chúng ta phải phụng sự thì nhất thiết
phải duy trì giám sát, phải có cơ chế giám sát hữu hiệu
Vai trò trong việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Nếu trước đây,
quyền lực Nhà nước phong kiến là quyền lực tập trung trong tay vua chúa, không có
sự phân chia nào thì trong Nhà nước hiện đại, việc phân công, phân quyền là một
trong những phương thức quan trọng để thực hiện quyền lực Nhà nước. Hiện nay,
chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định sự hiện diện của việc phân quyền ở những
mức độ nhất định trong các Nhà nước hiện đại. Ở nước ta, chúng ta đã có công thức
hoàn chỉnh trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là sự phân công giữa
các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở phối hợp
để bảo đảm quyền lực Nhà nước thống nhất. Đã là phân công quyền lực thì phải
thấy được hai mặt của nó: phân công và phối hợp. Về sự phân công, chúng ta xác
định trong bộ máy Nhà nước có quyền lập pháp, hoạt động lập pháp, có quyền hành
pháp và hoạt động hành pháp, có quyền tư pháp và hoạt động tư pháp. Mỗi thứ
quyền đó và mỗi phạm vi hoạt động của quyền lực Nhà nước có những đặc điểm và
đòi hỏi riêng, nhiệm vụ riêng. Nếu tất cả các quyền lực đó trong phạm vi của mình,
đều thực hiện đúng các mục tiêu thì sẽ tạo nên hiệu quả hoạt động chung của bộ
máy Nhà nước và của việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Khi đã có sự phân công
thì phải theo dõi, kiểm tra bảo đảm cho các cơ quan đó làm đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình, không vượt ra khỏi phạm vi, thẩm quyền, tính chất và chức năng được
xác định. Ngoài sự phân công như trên còn phải kể đến vấn đề phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương. Sự phân cấp quản lý này cũng cần được thực hiện
một cách hợp lý, sao cho trên không can thiệp sai trái xuống dưới, dưới không vượt
quyền, thực hiện đúng thẩm quyền của mình trong sự chủ động tối đa. Vì thế, mọi
sự phân công, phân quyền, phân cấp đều phải gắn liền với sự kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quyền lực.
24
Có thể nói hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước
là một hoạt động tất yếu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm để duy
trì bản chất, định hướng chung thể hiện qua nhiệm vụ chung của quyền lực Nhà
nước và để bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện một cách khoa học,
hiệu quả. Xã hội càng phát triển, quá trình dân chủ hóa trong xã hội càng được mở
rộng thì yêu cầu kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước càng cao. Điều này lý giải
bởi sự tăng cường của phạm vi tác động của quyền lực, bởi tính phức tạp trong tổ
chức và thực hiện quyền lực, bởi sự đan xen, giao thoa và mâu thuẫn trong việc sử
dụng quyền lực.
1.3. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp quyền
Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa, tùy vào hoàn cảnh và
lĩnh vực. Theo từ điển tiếng Việt: “Cơ chế là cách thức, sắp xếp tổ chức để làm
đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”. Theo quan điểm của GS.TS triết học
Phạm Ngọc Quang: “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên
kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy mục tiêu được thực hiện”. Vì vậy,
tác giả cho rằng, theo nghĩa chung nhất thì cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
được hiểu là phương thức, quy trình, quy định và các thiết chế có liên quan đến việc
kiểm soát quyền lực nhà nước, gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể,
thông qua đó việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện, nhằm ngăn ngừa,
loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên
nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền
lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng các quy định của Hiến pháp,
pháp luật, đúng mục đích mong muốn và có hiệu quả.
Kiểm soát quyền lực nhà nước luôn gắn với một chủ thể, đối tượng nhất định
với nội dung và hình thức khác nhau
Thực chất của quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là tổng hợp
các công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, của các cơ quan trong hệ thống chính trị
và của nhân dân
25
Cụ thể:
Cơ chế giám sát của Đảng
Cơ chế giám sát tối cao của Quốc Hội
Cơ chế giám sát của chính phủ
Cơ chế giám sát của TAND, VKSND
Cơ chế giám sát của MTTQ
Cơ chế giám sát của chính quyền địa phương (UBND, HĐND)
Cơ chế giám sát của Nhân dân
Quá trình kiểm tra, giám sát được thể hiện bằng các quy định của Đảng
Báo cáo chính trị đại hội IX chỉ rõ
Lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và
các cơ quan hành pháp; phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, theo đúng chức năng và thẩm quyền
của các cơ quan đó. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy, của Ủy ban kiểm tra
các cấp tập trung vào các nội dung chủ yếu: Thực hiện các nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và qui
chế làm việc, củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên [17, tr. 146].
Có thể nói, sự vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển của Đảng ta về công
tác kiểm tra, kiểm soát thể hiện ở mấy điểm chủ yếu sau:
Một là, Đảng ta đã cụ thể hóa rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, tầm quan trọng của
công tác kiểm tra - đã xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo chủ
yếu của Đảng; một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Có
lãnh đạo thì phải có kiểm tra. Lãnh đạo cũng có nghĩa là kiểm tra. Công tác kiểm tra
là của toàn Đảng, các cấp ủy Đảng và người đứng đầu cấp ủy có trách nhiệm lãnh
đạo và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Hai là, xác định rõ ràng và cụ thể hóa nội dung, nhiệm vụ kiểm tra của cấp
ủy và của Ủy ban kiểm tra. Trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng, Đảng
ta đều có sự sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung mới, phù hợp với hoàn cảnh
26
thực tiễn. Việc xác định chủ thể, khách thể kiểm tra trong từng nhiệm vụ cũng rõ
ràng hơn. Điều này có ý nghĩa thiết thực - khắc phục được tình trạng buông lỏng,
khoán trắng, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra của một số cấp ủy.
Việc Ủy ban kiểm tra các cấp chuyển từ kiểm tra chấp hành sang kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm đã khắc phục được tình trạng kiểm tra tràn lan, không trúng đối
tượng, thiếu trọng điểm nên kém hiệu quả. Nhiều trường hợp kết luận của kiểm tra
chấp hành không nói lên đúng thực trạng của tình hình vi phạm, tiêu cực trong các
tổ chức đảng.
Nhờ sự vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh mà công tác kiểm tra của Đảng ta trong gần 74 năm qua đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt trong hơn một thập niên đổi mới,
công tác kiểm tra của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, hoàn
thiện, bảo vệ đường lối, chính sách, quan điểm, các nguyên tắc của Đảng, thúc đẩy
thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần tăng cường sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng.
Các tổ chức đảng đã nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về công tác
kiểm tra. Nhiều cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo công tác kiểm tra, xây dựng chương
trình kế hoạch và trực tiếp kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới theo quy định của Điều lệ
Đảng, bước đầu có kết quả thiết thực.
1.3.1. Chủ thể, đối tượng, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định,
tức là phải trả lời câu hỏi: ai (người, hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện nhiệm
vụ kiểm soát và đối tượng nào sẽ là đối tượng chịu tác động của kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Giám sát được tiến hành bởi chủ thể là:
- Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay nhiều cơ quan nhà
nước khác. Ở nước ta đó là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), là
27
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (HĐND) đối với
các cơ quan nhà nước ở địa phương và còn là hoạt động giám sát của Tòa án đối với
bộ máy nhà nước thông qua hoạt động xét xử. Các phương pháp, cách thức mà loại
hình giám sát này áp dụng luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước.
- Ngoài ra chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước còn.Giám sát không mang
tính quyền lực nhà nước (còn gọi là giám sát mang tính nhân dân) bao gồm các hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể nhân dân,
thanh tra nhân dân và công dân hay còn gọi là Giám sát không mang tính quyền lực
nhà nước (giám sát mang tính nhân dân)
1.3.1.1. Kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra của Đảng là toàn diện, kiểm tra công việc, kiểm tra tổ chức
và cá nhân đảng viên. Trong bộ máy nhà nước ta ở tất cả các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp từ Trung ương đến cơ sở hầu hết các chức vụ quan trọng đều
do đảng viên đảm nhận. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng được chia thành ba
khâu chủ yếu: ra quyết định, tổ chức thực hiện quản lý và kiểm tra sự thực hiện.
Kiểm tra nhằm phát hiện ưu, khuyết điểm, uốn nắn, bổ sung hoàn chỉnh quyết định,
hoàn thiện quy trình lãnh đạo, giáo dục và bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tạo
nên sự thống nhất giữa ý chí và hành động.
Công tác kiểm tra của Đảng: là xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận
xét các hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên, hướng vào việc xây dựng và thực
hiện các quyết định, giải quyết các vấn đề trong sinh hoạt và nội bộ Đảng, hoàn
thiện quy trình lãnh đạo giữ vững kỷ luật với mục đích bảo đảo cho các quyết định
đã đề ra được thực hiện nghiêm túc và có kết quả cao.
Về chủ thể công tác kiểm tra của Đảng: Công tác kiểm tra là của toàn đảng
trong đó nổi bật hai chủ thể cấp ủy và Ủy ban kiểm tra. Ngoài ra còn có các chủ thể
khác là các ban tham mưu của cấp ủy, cá nhân đảng viên... mỗi chủ thể có khách thể
và nội dung kiểm tra riêng.
Về đối tượng: Kiểm tra mọi tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vị lãnh
đạo và quản lý của cấp ủy trước hết là tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và đảng viên
28
thuộc diện cấp ủy mình quản lý, nhất là cán bộ tham gia các cương vị chủ chốt hoặc
được giao các nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước ở các địa bàn trọng điểm
dễ phát sinh vi phạm.
Thực tế các tổ chức đảng vừa là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành
công tác kiểm tra) vừa là đối tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có
thẩm quyền cấp trên) gồm có: chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trong đảng bộ cơ sở, chi
bộ trong Đảng bộ bộ phận) đảng ủy bộ phận, Đảng ủy cơ sở, cấp ủy, Ban thường
vụ cấp ủy các cấp, Ủy ban kiểm tra các ban đảng, văn phòng cấp ủy, ban cán sự
đảng, đảng đoàn).
Về nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và của cấp mình về mọi lĩnh vực hoạt
động. Kiểm tra việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định của cấp mình
và cấp dưới. Các nguyên tắc tổ chức của Đảng trước hết là nguyên tắc tập trung dân
chủ và quy chế làm việc. Gìn giữ đoàn kết nội bộ, giáo dục rèn luyện nâng cao
phẩm chất cán bộ đảng viên. Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Việc thực hiện chính sách và pháp luật của nhà nước. Căn cứ vào tình hình thực
hiện nhiệm vụ chính trị và thực tế của Đảng bộ mà cấp ủy lựa chọn và quyết định
nội dung kiểm tra cho phù hợp.
Cho đến nay công tác kiểm tra của Đảng phải tập trung giải quyết những vấn
đề còn nan giải, nổi cộm trong bộ máy nhà nước ta đó là:
Khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở, ngăn chặn và đẩy
lùi nạn tham nhũng, xảy ra trong bộ máy nhà nước, nhất là đảng viên có chức có
quyền; kiên quyết loại bỏ tình trạng đảng viên và tổ chức đảng coi thường pháp luật,
đứng trên pháp luật, hạn chế tệ tranh giành quyền lực phe cánh, cục bộ địa phương
trong Đảng hiện nay dẫn đến mất đoàn kết nghiêm trọng trong Đảng và Nhà nước.
Đẩy lùi bệnh hình thức, phô trương lãng phí làm thất thoát công quỹ tổn hại đến lợi
ích của nhân dân, làm tha hóa đạo đức công chức góp phần rèn luyện đào tạo đội
ngũ cán bộ công chức vững về chính trị, giỏi về chuyên môn. Có như vậy mới phát
huy được quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững bản chất cách mạng của một nhà
nước XHCN của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân.
29
1.3.1.2. Giám sát tối cao của Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội do vị trí vai trò
của quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên
hoạt động giám sát của Quốc hội có tính chất là giám sát tối cao; như vậy:
Chủ thể hoạt động giám sát tối cao là của Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc
hội (UBTVQH), Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu và
đại biểu Quốc hội nhằm theo dõi, xem xét kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong các
văn bản pháp luật, trong hoạt động của chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC và toàn bộ hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo sự tuân thủ hiến pháp,
pháp luật và hiệu lực tham gia hoạt động của các cơ quan này. Xử lý vi phạm theo
quy định của pháp luật, kịp thời bổ sung sửa đổi hoàn chỉnh hiến pháp, pháp luật.
Đối tượng chịu giám sát tối cao là toàn bộ hoạt động của nhà nước, mà trước hết
là: Chủ Tịch nước, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Chủ tịch Quốc hội, UBTVQH.
Nội dung:
Một là, theo dõi, trong xem xét, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với các
văn bản quy phạm pháp luật và các hoạt động của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính
phủ, TANDTC và VKSNDTC.
Hai là, xử lý các hành vi vi phạm Hiến pháp và luật bằng các chế tài bãi
nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn trong bộ máy nhà
nước, đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái với hiến pháp, luật và ra các nghị quyết khi
xét thấy cần thiết.
1.3.1.3. Giám sát của Chính phủ, Chủ tịch nước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có chức năng kiểm tra, giám sát trước hết
thông qua những thẩm quyền được Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, cơ chế kiểm tra thường xuyên và chuyên nghiệp của Chính phủ là cơ chế
thanh tra của Chính phủ. Nội dung chủ yếu của hình thức thanh tra Chính phủ là
kiểm tra các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực thi pháp luật mà hậu quả là
kiến nghị về các biện pháp xử lý cho các cơ quan quản lý hoặc các cơ quan tư pháp,
bị ràng buộc và chế ước trong khuôn khổ và chức năng của cơ quan quản lý cùng cấp.
30
Cùng với hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các hoạt
động kiểm tra, giám sát khác, công tác kiểm tra, thanh tra của Chính phủ giữ vị trí
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, kỷ cương của nền hành chính. Hoạt động
kiểm tra, thanh tra của Chính phủ là một loại tự kiểm soát quyền lực trong nội bộ hệ
thống, do các cơ quan chuyên trách (Thanh tra nhà nước) thực hiện đối với các bộ
phận của hệ thống hành chính từ trên xuống dưới. Sự thiết lập hệ thống kiểm tra,
thanh tra này bên cạnh các cơ chế kiểm tra, giám sát khác đối với hoạt động hành
chính nhà nước là hết sức cần thiết vì so với các hệ thống cơ quan thực hiện quyền
lực nhà nước khác thì nguy cơ lạm quyền từ phía các cơ quan của Chính phủ là rất
lớn. Hiện nay có nhiều quan điểm về vị trí của kiểm tra, thanh tra nhưng xét về bản
chất, trong quản lý nhà nước cần phải có thanh tra, kiểm tra các hoạt động hành
chính như một tác nhân tất yếu để hạn chế, khắc phục các khiếm khuyết của bộ máy
nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nói riêng.
Nội dung:
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện thể chế hành chính
- Kiểm tra, thanh tra bộ máy hành chính
- Kiểm tra, thanh tra tính chính xác của quyết định hành chính và hành vi
hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền
- Kiểm tra, thanh tra người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý (công
chức, viên chức nhà nước).
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phải tạo ra một sự chuyển biến
mạnh mẽ trong công tác kiểm tra, thanh tra của Chính phủ về tổ chức hệ thống
cơ quan thanh tra, xác định chức năng, thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của Chính
phủ. Theo hướng đó, cần hoàn thiện mô hình kiểm tra, thanh tra của Chính phủ
trên những vấn đề sau:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi và thẩm quyền. Hoạt động kiểm tra, thanh tra
của Chính phủ trong tình hình mới phải bao quát những nội dung sau:
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ. Trong bất kỳ quốc gia nào, hoạt
31
động công vụ cũng được xem là đối tượng của thanh tra, kiểm tra. Mặc dù có sự
gắn bó giữa hoạt động công vụ và kiểm tra, thanh tra như là điều kiện và kết quả
của nhau, nhưng đến lượt mình, kiểm tra, thanh tra như một công cụ thiết yếu làm
cho hoạt động của công chức, viên chức có hiệu quả hơn: nâng cao chất lượng
công việc, tính siêng năng, khả năng trung thành, sự tận tụy trong công việc, đạo
đức nghề nghiệp đến mối quan hệ của họ với các chủ thể khác trong bộ máy nhà
nước.... Có thể nói, kiểm tra, thanh tra là sự kiểm nghiệm, đánh giá nội dung hoạt
động công vụ.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện thể chế hành chính.Thể chế hành chính
được thể hiện thông qua hệ thống các quy định của pháp luật và dưới góc độ quản
lý, tất cả các lĩnh vực đó cần được kiểm tra, thanh tra một cách nghiêm ngặt. Việc
kiểm tra phải thể hiện ở các mặt: kiểm tra tính thống nhất của hệ thống văn bản do
Chính phủ và các cơ quan hành chính ban hành; kiểm tra thẩm quyền của các cơ
quan hành chính quy định trong pháp luật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan đó; kiểm tra việc ban hành các quy chế nhằm phân công, phân cấp trong
hoạt động của các cơ quan hành chính phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiểm tra tính minh bạch của pháp luật
trong điều kiện hòa nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới; kiểm tra việc
pháp luật đi vào cuộc sống.
- Kiểm tra, thanh tra bộ máy hành chính. Trong điều kiện cải cách hiện nay,
việc kiểm tra bộ máy là hết sức quan trọng. Kiểm tra bộ máy ở đây không chỉ dừng
lại ở chỗ bộ máy có bao nhiêu cơ quan, hoạt động như thế nào mà cần tiếp cận cơ sở
khoa học của việc hình thành bộ máy. Kết quả kiểm tra bộ máy mang tính khoa học
là ở chỗ: chỉ ra cho những người có thẩm quyền nhận thức được rằng bộ máy của
chúng ta hoạt động vì lợi ích của đại đa số những người lao động, và từ đó thiết kế
bộ máy không phải vì quyền lợi của cá nhân này hay cá nhân khác. Đây là vấn đề
hết sức khó khăn, cần có sức mạnh không chỉ trí tuệ của những người làm chính
sách mà còn cả trí tuệ của những người làm công tác kiểm tra, thanh tra.
- Kiểm tra, thanh tra tính chính xác của quyết định hành chính và hành vi
32
hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền. Theo pháp luật hiện hành, chúng ta
chỉ có "cơ chế tĩnh" tức là cấp trên phát hiện thấy sai trái thì có quyền đình chỉ, hủy
bỏ... chứ không có cơ chế tự kiểm tra và kiểm tra, thanh tra trước và sau khi ban
hành (cơ chế động), trừ trường hợp quyết định hành chính và hành vi hành chính
bởi Tòa án và các cơ quan thanh tra của chúng ta hiện nay cũng còn nhiều bất cập,
đặc biệt là ở thẩm quyền xử lý. Để cơ quan hành chính tự kiểm tra tính chính xác
của các quyết định hành chính và hành vi hành chính cần có thiết chế tài phán hành
chính ở ngay trong Chính phủ, có thể theo hai hướng: Một là, thành lập cơ quan tài
phán hành chính thuộc Chính phủ; Hai là, xây dựng lại hệ thống cơ quan thanh tra
Chính phủ tập trung vào thanh tra trách nhiệm hành chính của người, cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động công vụ. Trước mắt, cần phân định rõ hơn trách nhiệm
của cơ quan thanh tra và Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện đối
với các cơ quan và cán bộ, công chức hành chính, tạo điều kiện để các Tòa hành
chính phát huy đúng chức năng và thẩm quyền.
- Kiểm tra, thanh tra người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý (công
chức, viên chức nhà nước). Việc kiểm tra con người trong hoạt động công vụ thể
hiện ở hai mặt: kiểm tra nhằm khắc phục tình trạng thiếu trật tự, kỷ cương nhằm
ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi trái pháp luật của công chức, viên
chức nhà nước; kiểm tra nhằm nâng cao trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể
trong từng cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, tiếp tụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008266_368_2002957.pdf