MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài . 6
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . 7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu . 17
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu . 17
5. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu 18
6. Phương pháp nghiên cứu . 19
7. Hạn chế của nghiên cứu 20
8. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 21
9 Khung phân tích . 22
NỘI DUNG CHÍNH
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 23
1.1 Khái niệm công cụ của đề tài 23
1.1.1. Nhận thức 23
1.1.2. Thái độ 24
1.1.3. Người chuyển giới . 25
1.1.4. Một số khái niệm liên quan 27
1.2 Cơ sở lý thuyết . 29
1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa vai trò giới 29
1.2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của H.Mead và Blumer 31
1.2.3. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý . 32
1.3 Cơ sở thực tiễn của đề tài . 33
1.3.1. Sơ lược về cộng đồng chuyển giới tại Việt Nam 33
1.3.2. Một số văn bản pháp luật liên quan đến người chuyển giới
tại Việt Nam .
36
1.3.3. Một số kinh nghiệm quốc tế liên quan tới người chuyển giới 39
42 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 770 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhận thức, thái độ của người chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thu Nam năm 2012...
Có thể nói, cộng đồng LGBT nói chung đang đứng trƣớc rất nhiều khó khăn
và thách thức. Từ thách thức lớn nhất là thái độ định kiến và phân biệt đối xử từ
trong gia đình, trƣờng học, các cơ sở y tế và thậm chí trên truyền thông đại chúng
khiến ngƣời chuyển giới phải đối mặt với nhiều rủi ro nhƣ bị bạo hành cả thể chất
lẫn tinh thần, đối mặt với những khó khăn trong việc làm và các vấn đề pháp lý liên
quan... Các nghiên cứu Bạo lực với những người đồng tính nam và chuyển giới do
CCIHP và UNAIDS thực hiện năm 2011; Bạo lực và phân biệt đối xử với LGBT
trong trƣờng học của CCIHP năm 2012; Khát vọng được là chính mình: Những vấn
đề thực tiễn và pháp lý với người chuyển giới của nhóm tác giả Phạm Quỳnh
Phƣơng thực hiện năm 2012... đã chỉ ra những hình thức bạo lực dựa trên xu hƣớng
tính dục và bản dạng giới, phổ biến nhất là bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý, bạo lực
tình dục và các hình thức ép ngƣời chuyển giới đi chữa bệnh tâm thần.
Những rủi ro về sức khỏe của nhóm ngƣời chuyển giới chủ yếu đƣợc đề cập
đến trong những nghiên cứu của tổ chức phi chính phủ. Nếu nhƣ vấn đề sức khỏe
của ngƣời đồng tính thƣờng gắn với vấn đề phòng chống các bệnh lây nhiễm qua
đƣờng tình dục và HIV của nhóm SMS thì đối với ngƣời chuyển giới, sức khỏe là
vấn đề thật sự nghiêm trọng, liên quan tới nhu cầu phẫu thuật, chuyển đổi cơ thể
sinh học. Mặc dù hiện nay đã có nhiều cơ sở, trung tâm y tế cho nhóm đồng tính
nam về HIV và sức khỏe tình dục nhƣng với ngƣời chuyển giới, hiện nay vẫn chƣa
có cơ sở y tế nào quan tâm trực tiếp tới vấn đề này.
Nhiều khía cạnh và đối tƣợng là ngƣời chuyển giới vẫn bị lẫn vào trong các
nghiên cứu can thiệp dành cho MSM. Ngay bản thân những ngƣời làm về các
18
chƣơng trình phòng chống HIV cho MSM cũng không phân biệt rõ ràng về xu
hƣớng tình dục và bản dạng giới, giữa mại dâm nam, đồng tính nam và chuyển giới
mà gộp họ vào một nhóm MSM. Trong một chừng mực nào đó, từ MSM đã trở
thành một “bản dạng” trong khi nó chỉ nói về hành vi. Điểm đáng chú ý là hầu hết
các sản phẩm nghiên cứu này chỉ nằm trong khuôn khổ các dự án, chƣơng trình can
thiệp phòng chống bạo lực, sức khỏe cộng đồng, chủ yếu là chiến dịch nâng cao
nhận thức và phòng ngừa bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS của
nhóm MSM. Các nghiên cứu trƣớc đây coi MSM nhƣ nhóm co nguy cơ lây nhiễm
HIV cao do có nhiều bạn tình, ít sử dụng bao cao su và do nhận thức thấp về nguy
cơ lây nhiễm. Nhiều tổ chức coi đây là nhóm đối tƣợng chính trong truyền thông
phòng chống HIV. Các nghiên cứu tiêu biểu có thể kể tới nhƣ HIV knowledge ans
risk factors among men who have sex with man in Ho Chi Minh city của Colby năm
2003; Social contruction of male homosexual in Viet Nam – Some keys to
understand anh implications for HIV do Blanc thực hiện năm 2005; Men who have
sex with men in Hanoi: Social profile and sexual health isues của Khuất Thu Hồng
năm 2005; Đối mặt với sự thật: Tình dục đồng giới nam và HIV/AIDS của Vũ Ngọc
Bảo năm 2005 của Trƣơng Tấn Minh, Tôn Thất Toàn và Colby năm 2006...
Những trải nghiệm kỳ thị, định kiến đối với cộng đồng vƣợt giới cũng nhƣ
tính chủ thế của họ đƣợc thể hiện rất rõ qua nghiên cứu đánh giá gần đây của SC và
iSEE về nhóm trẻ đƣờng phố thiểu số tình dục (Nguyễn Thu Hƣơng và Nguyễn Thu
Nam, Thực trạng trẻ em đường phố LGBT, 2012). Nhiều cá nhân đƣợc phỏng vấn
trong nghiên cứu này có biểu hiện vƣợt khỏi các chuẩn mực tình dục cũng nhƣ
chuẩn mực hành vi giới nhƣng lại không biết thuật ngữ “chuyển giới”; thay vào đó,
các bạn trẻ tự nhận mình thuộc giới thứ ba. Báo cáo này cũng chỉ ra mối liên hệ
giữa hoàn cảnh đi bụi với bản dạng giới và xu hƣớng tình dục của trẻ em thiểu số
tình dục nói chung và chuyển giới nói riêng.
Có thể nói, cho đến nay, hiện tƣợng chuyển giới ở Việt Nam vẫn chƣa đƣợc
nghiên cứu một cách độc lập và đầy đủ. Đặc biệt khi quyền và nghĩa vụ của ngƣời
chuyển giới chính thức đƣợc Quốc Hội Việt Nam thông qua vào tháng 11 năm 2015
19
đã đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi, thực hiện
công bằng và bình đẳng xã hội đối với nhóm ngƣời từ trƣớc đến nay vốn đƣợc coi là
“ngƣời vô hình”. Vì thế, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề pháp lý cho
ngƣời chuyển giới nhằm cung cấp thêm tính thực tiễn cho lộ trình giúp việc công
nhận quyền chuyển giới đƣợc suôn sẻ trong quá trình hiện thực hóa luật. Nghiên
cứu về “Nhận thức, thái độ của người chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt
Nam” của tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong những nỗ lực lớn lao này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích tìm hiểu nhận thức, thái độ của ngƣời chuyển
giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam, từ đó đề xuất những khuyến nghị, những
kênh thông tin hiệu quả nhằm tuyên truyền Luật về quyền chuyển giới tại Việt Nam
cho đối tƣợng ngƣời chuyển giới nói riêng và cộng đồng nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu nhận thức, thái độ của ngƣời chuyển giới về quyền chuyển giới tại
Việt Nam qua việc hiểu về các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, cách thức thể hiện hay
thực thi các quyền của mình trƣớc và sau khi quyền chuyển giới đƣợc công nhận;
thái độ đồng tình hay phản đối khi quyền chuyển giới đƣợc thông qua, mong muốn
của ngƣời chuyển giới khi quyền chuyển giới đƣợc hiện thực hóa.
- Phân tích các kênh thông tin tác động đến nhận thức, thái độ của ngƣời
chuyển giới về quyền chuyển giới.
- Ảnh hƣởng của quyền chuyển giới tới các nhóm chuyển giới.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức, thái độ, hành vi của ngƣời chuyển
giới đối với quyền chuyển giới tại Việt Nam
4.2. Khách thể nghiên cứu: Ngƣời chuyển giới trong cộng đồng, những
thành viên của các Câu lạc bộ, các diễn đàn trên internet dành cho ngƣời đồng tính,
song tính và chuyển giới
20
- Đối tƣợng khảo sát: Ngƣời chuyển giới trong cộng đồng, thành viên của
Câu lạc bộ Hải Đăng, nhóm Ruby, I-Girl, các diễn đàn, trang mạng xã hội trên
internet dành cho ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới nhƣ:
+ Nhà Trọ Gay Hà Nội https://www.facebook.com/groups/1408239566086526/ ;
+ Gà Vàng https://www.facebook.com/groups/gavang69/ ;
+ Love Boy Hà Nội https://www.facebook.com/groups/394652447326380/ ;
+ VN MSM TG https://www.facebook.com/VNMSMTG?fref=ts .
4.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 2/2016 - 9/2016.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Liệu có phải tất cả ngƣời chuyển giới - đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng quyền lợi
từ việc công nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam - đều có nhận thức đúng về
quyền chuyển giới đƣợc quy định trong Luật?
- Phải chăng tất cả ngƣời chuyển giới đều đồng tình với việc Luật pháp công
nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam?
- Ảnh hƣởng của việc công nhận quyền chuyển giới tới các nhóm chuyển
giới liệu có giống nhau không?
- Những kênh thông tin nào giúp tuyên truyền luật về quyền chuyển giới tới
các nhóm chuyển giới?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Đa phần ngƣời chuyển giới đều có nhận thức đúng về quyền, nghĩa vụ của
mình khi quyền chuyển giới đƣợc Luật công nhận tại Việt Nam.
- Phần lớn ngƣời chuyển giới đều đồng tình với việc Luật pháp công nhận
quyền chuyển giới tại Việt Nam.
- Việc Luật công nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam có tác động nhiều tới
nhóm chuyển giới nữ hơn nhóm chuyển giới nam; nhóm mong muốn phẫu thuật
chuyển đổi giới tính hơn nhóm không có nhu cầu phẫu thuật.
21
- Các diễn đàn trên mạng, câu lạc bộ dành cho ngƣời đồng tính, song tính và
chuyển giới là những kênh thông tin chính ảnh hƣởng tới nhận thức, thái độ của
ngƣời chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu có tham khảo và sử dụng một số tài liệu liên quan đến cộng đồng
ngƣời chuyển giới nhằm thu thập những thông tin có tính khách quan, khoa học để
nhận diện một cách tổng quan về cộng đồng ngƣời chuyển giới trên thế giới và ở
Việt Nam, từ đó thiết kế những câu hỏi nghiên cứu phù hợp với đối tƣợng và mục
đích nghiên cứu.
6.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến
- Là phƣơng pháp định lƣợng, sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin. Thông
tin đƣợc thu thập bằng cả phƣơng thức trực tiếp và gián tiếp:
+ Gặp gỡ ngƣời chuyển giới và thu thập thông tin trực tiếp qua các diễn đàn,
hội thảo, các sự kiện dành cho LGBT.
+ Đăng trên các diễn đàn, các nhóm kín của cộng đồng LGBT hoặc thông
qua facebook gửi bảng hỏi đến các đối tƣợng khảo sát.
Phiếu thu về đƣợc làm sạch và xử lý bằng chƣơng trình SPSS 16.0.
- Số lƣợng mẫu: 62 phiếu.
- Phƣơng pháp chọn mẫu: mẫu đƣợc chọn ngẫu nhiên thuận tiện qua các sự
kiện, diễn đàn, hội thảo và các trang mạng xã hội của ngƣời đồng tính, song tính và
chuyển giới. Đây là cách chọn mẫu phù hợp với dạng nghiên cứu trƣờng hợp, thuận
tiện cho ngƣời nghiên cứu về mặt thời gian, chi phí và công tác thu thập thông tin
cũng đƣợc diễn ra dễ dàng hơn nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc tính đại diện của mẫu.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Số lƣợng mẫu: 12 ngƣời trong đó có 9 ngƣời hiện đang sinh sống, học tập
và làm việc tại Hà Nội, 01 ngƣời tại Hòa Bình, 01 ngƣời tại Lào Cai và 01 ngƣời tại
Thành phố Hồ Chí Minh. 12 ngƣời đƣợc phỏng vấn trong độ tuổi từ 19 đến 62,
trong đó 04 ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ, 04 ngƣời chuyển giới từ nữ sang
22
nam, 01 ngƣời yêu của ngƣời chuyển giới nam, 01 ngƣời yêu của ngƣời chuyển giới
nữ, 01 bố của ngƣời chuyển giới nữ và 01 mẹ của ngƣời chuyển giới nam. Trong số
04 ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ có 01 ngƣời đã phẫu thuật ngực, 01 ngƣời đã
phẫu thuật bộ phận sinh dục, 01 ngƣời đã dùng hooc-môn và 01 ngƣời chƣa có can
thiệp bằng phƣơng pháp y tế mà mới chỉ thay đổi ngoại hình cho phù hợp với giới
tính mong muốn. Với 04 ngƣời trong nhóm chuyển giới từ nữ sang nam thì mới chỉ
có 1 ngƣời đã sử dụng hooc-môn, còn chƣa ai phẫu thuật.
- Những ngƣời đƣợc chọn phỏng vấn chủ yếu theo phƣơng pháp trái bóng lăn
(snow-ball sampling), từ một ngƣời sẽ giới thiệu thêm những ngƣời khác. Việc lựa
chọn ngƣời phỏng vấn trên nguyên tắc tối đa hóa sự đa dạng về mạng lƣới, lứa tuổi,
cả phẫu thuật và chƣa phẫu thuật, cũng nhƣ sự sẵn lòng tham gia nghiên cứu.
- Cách thức phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp: 10 ngƣời và gián tiếp bằng cách
trò chuyện (chat) qua các ứng dụng nhƣ facebook, zalo: 02 ngƣời. Trong trƣờng hợp
phỏng vấn trực tiếp, địa điểm phỏng vấn đƣợc chọn tùy theo yêu cầu của ngƣời
đƣợc phỏng vấn, bất cứ nơi nào họ cảm thấy thoải mái và không bị áp lực nhất,
đƣợc ghi âm với sự cho phép của ngƣời đƣợc phỏng vấn. Với những trƣờng hợp
ngƣời phỏng vấn không muốn đƣợc ghi âm, tác giả sẽ ghi chép lại các thông tin hồi
cứ ngay sau buổi phỏng vấn.
6.4. Phương pháp quan sát
Tác giả sử dụng phƣơng pháp quan sát khi tham dự 04 sự kiện, hội thảo, tọa
đàm và các chƣơng trình liên quan đến ngƣời đồng tính và chuyển giới:
+ Hội thảo Quốc gia LGBT Q+ Việt Nam 2016 do iSEE tổ chức từ ngày 25-
27/3/2016
+ Hội thảo “Chia sẻ thông tin liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính phục
vụ cho việc xây dựng Luật chuyển đổi giới tính” do iSEE tổ chức ngày 24/5/2016
+ Chƣơng trình Viet Pride 2016 do iSEE tổ chức ngày 21/8/2016
+ Tọa đàm “Rào cản tiếp cận với quyền của cộng đồng LGBT tại Việt Nam”
do DNXH Hải Đăng tổ chức ngày 16/9/2016
23
Qua các chƣơng trình trê, tác giả có thêm thông tin và cách nhìn nhận sâu sắc hơn
về nhận thức cũng nhƣ nhƣ thái độ, nhu cầu, mong muốn của ngƣời chuyển giới khi
quyền chuyển giới đƣợc công nhận trong Luật Việt Nam.
7. Hạn chế của nghiên cứu
7.1. Về thời gian: Quá trình thu thập thông tin, xử lý số liệu và viết báo cáo
đƣợc tiến hành trong 8 tháng (không dài), vì vậy đây cũng chỉ là một nghiên cứu
khám phá bƣớc đầu về cộng đồng ngƣời chuyển giới vốn ít đƣợc biết đến trƣớc đây.
7.2. Về đối tượng phỏng vấn: Mặc dù đã cố gắng t ối đa hóa sự đa dạng
trong việc chọn mẫu, ngƣời nghiên cứu cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận với
các đối tƣợng phù hợp với yêu cầu của đề tài. Những ngƣời chuyển giới ở lứa tuổi
trẻ (18-30) sẵn lòng chia s ẻ và cởi mở hơn so với những ngƣời chuyển giới ở lứa
tuổi trung niên; khó tiếp cận những ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam hơn là từ
nam sang nữ, khó tiếp cận với ngƣời đã chuyển đổi giới tính hoàn toànVì vậy,
trong cơ cấu mẫu phỏng vấn sâu cũng chỉ mới có 1 ngƣời đã chuyển đổi giới tính
hoàn toàn. Đa số những ngƣời tham gia khảo sát định lƣợng và phỏng vấn sâu đều
nằm trong độ tuổi trẻ từ 18-30, không có ngƣời ở lứa tuổi trên 40; nên có thể những
kết quả nghiên cứu chỉ mới khái quát đƣợc những vấn đề chung nổi cộm mà chƣa
thể phản ánh một cách bao quát mọi khía cạnh trong nhận thức và thái độ của ngƣời
chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam.
8. Ý nghĩa nghiên cứu
8.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu này đƣợc tiến hành thông qua việc vận dụng một số khái niệm,
lý thuyết nhƣ lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết xã hội hóa vai trò giới, lý thuyết
sự lựa chọn hợp lý, khái niệm chuyển giới, quyền chuyển giới để tìm hiểu sâu
hơn nhận thức, thái độ cùng những mong muốn của những ngƣời chuyển giới -
nhóm ngƣời thiểu số vốn chƣa đƣợc xã hội công nhận và lƣu tâm - với việc bƣớc
đầu thực hiện quyền và nghĩa vụ dành cho họ.
24
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm góp phần làm rõ hơn nhận thức, thái độ,
mong muốn của ngƣời chuyển giới - đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng và chịu ảnh hƣởng
lớn nhất trong việc hợp pháp hóa quyền chuyển giới ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng
hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc phác họa đúng đắn chân dung về cộng
đồng ngƣời chuyển giới nói riêng và cộng đồng LGBT nói chung trong những nỗ
lực giảm thiểu yếu thế và tổn thƣơng mà cộng đồng này hiện đang gặp phải. Những
kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho các cá
nhân, tổ chức quan tâm khi nghiên cứu về ngƣời chuyển giới nói riêng và nhóm
LGBT nói chung.
9. Khung phân tích
Đặc điểm
cá nhân
Đặc điểm
gia đình
Kênh
truyền thông
Thái độ trong việc
thể hiện và sống
đúng với bản dạng
giới mong muốn
Môi trƣờng kinh tế - xã hội
Nhận thức về
quyền của ngƣời
chuyển giới tại
Việt Nam
Trƣớc
khi
đƣợc
Luật
công
nhận
Sau
khi
đƣợc
Luật
công
nhận
Trƣớc
khi
đƣợc
Luật
công
nhận
Sau
khi
đƣợc
Luật
công
nhận
Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
25
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức đƣợc định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con ngƣời, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. [4, tr 56]
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con ngƣời, nhờ đó con ngƣời tƣ duy
và không ngừng tiến đến gần khách thể. [15, tr 198].
Theo quan điểm của phép tƣ duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con
ngƣời đi từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, và từ tƣ duy trừu
tƣợng đến thực tiễn. Con đƣờng nhận thức đó đƣợc thực hiện qua các giai đoạn từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tƣợng, từ hình thức bên
ngoài đến bản chất bên trong, nhƣ sau:
+ Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con ngƣời sử dụng các giác quan để
tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức
là cảm giác, tri giác và biểu tƣợng.
+ Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh
gián tiếp trừu tƣợng, khái quát sự vật, đƣợc thể hiện qua các hình thức nhƣ khái
niệm, phán đoán, suy luận.
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức đƣợc bản chất thật sự của sự vật.
+ Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức đƣợc kiểm nghiệm là đúng hay
sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức đƣợc. Do
đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế
giới. [4, tr 58-60].
26
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài, Nhận thức đƣợc hiểu là những tri thức,
hiểu biết của cá nhân về một vấn đề, đƣợc hình thành một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp qua các hoạt động sống của con ngƣời.
1.1.2. Thái độ
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam, Thái độ đƣợc định nghĩa là: “Cách nhìn
nhận, hành động của cá nhân về một hƣớng nào đó trƣớc một vấn đề, một tình
huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình
cảm của cá nhân đối với con ngƣời hay một sự việc nào đó”. [15, tr 302].
Từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 1994 cũng nhấn
mạnh: “tâm thế-thái độ-xã hội đã đƣợc củng cố, có cấu trúc phức tạp, bao gồm các
thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”. [23, tr 287].
Còn trong từ điển các thuật ngữ Tâm lý và Phân tâm học xuất bản tại New
York năm 1996 thì lại cho rằng: "Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do
tiếp thu đƣợc từ bên ngoài, hƣớng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một
nhóm đối tƣợng nhất định, không phải nhƣ bản thân chúng ra sao mà chúng đƣợc
nhận thức ra sao. Một thái độ đƣợc nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng
đối với một nhóm đối tƣợng. Trạng thái sẵn sàng có ảnh hƣởng trực tiếp lên cảm
xúc và hành động có liên quan đến đối tƣợng”. [47, tr36].
Nhƣ vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “cách ứng
xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó đƣợc cấu thành
rất phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khi định
nghĩa về thái độ là khác nhau.
Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, Thái độ đƣợc xem nhƣ là một bộ phận
hợp thành, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động
của con ngƣời đối với đối tƣợng theo một hƣớng nhất định, đƣợc bộc lộ ra bên
ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của ngƣời đó trong những tình
huống, điều kiện cụ thể.
27
1.1.3. Người chuyển giới
Đầu thế kỷ 20, nhà tình dục học nổi tiếng ngƣời Đức, Magnus Hirschfeld
(1868-1935), khởi xƣớng hai thuật ngữ transvestites (ăn vận cải giới) và
transsexuals (chuyển đổi giới tính) Nhà tiên phong khác về chủ đề chuyển giới là
Havelock Ellis, ngƣời sử dụng thuật ngữ “sexo-aesthetic inversion” (tạm dịch: sự
đồng dâm thẩm mỹ) trong bài viết xuất bản năm 1913, thay vì từ „transvestism‟ của
Hirschfeld. Sau đó Ellis kết luận rằng từ „đồng dâm‟ (inversion) không chuẩn xác vì
gợi nghĩa đồng tính, trong khi các trƣờng hợp ông nghiên cứu thƣờng là dị tính hay
không hoàn toàn quan tâm đến giới nào. Thế nên ông quyết định rằng thuật ngữ
đúng nhất phải là “eonism”, dùng tên một ngƣời ăn vận cải giới sống ở thế kỷ 18,
Chevalier d‟Eon. Ellis biện luận rằng thuật ngữ này tránh đƣợc vấn đề cố hữu trong
các từ nhƣ “mặc khác giới” (Cross dressing). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sau
này lại chuộng từ “transvestism” và không mấy khi sử dụng khái niệm của Ellis.[29,
tr21].
Gần đây các nhà nghiên cứu giới phát triển bắt đ ầu chuộng thuật ngữ
“transgender” nhƣ là một thể loại rộng hơn nhiều so với “mặc khác giới” (cross
dressing) đơn thuần và cho phép gộp nhiều hành vi đa dạng. “Trans” đƣợc hiểu là
vƣợt quá và qua các biên định về̀ giới (gender) đƣợc xem là để làm bật một dạng
căn tính hoặc định dạng xã hội đặc biệt. Theo nghĩa rộng này vƣợt giới dƣờng nhƣ
thích hợp khi bàn đến những ngƣời đƣợc xem là các trung gian linh thiêng giữa vô
vàn các sinh thể.Một hƣớng phân tích khác lại cho rằng chính tiền tố “trans” theo
nghĩa nhƣ động từ “transgress” (xâm vƣợt) còn hàm chỉ một sự sai lệch (vƣợt khỏi
những biên định cố hữu) xã hội và đạo đức của hiện tƣợng vƣợt giới. Theo đó thuật
ngữ này giúp giải thích phần nào các trải nghiệm bị xã hội kỳ thị và phân biệt đối
xử của ngƣời vƣợt giới.
“Transgender” là một thuật ngữ đƣợc khởi đầu từ nƣớc Mỹ, đƣợc sử dụng
để chỉ chung những ngƣời có lối sống dƣờng nhƣ khác với những chuẩn mực về
giới trong xã hội. Nó đƣợc dùng để chỉ những ngƣời vƣợt ra khỏi biên giới bình
thƣờng về giới, trong cách ăn mặc, trong cách thể hiện bản thân, và cả những ngƣời
28
đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật để có đƣợc cơ thể nhƣ giới tính họ mong muốn.
“Transgender” bao gồm nội hàm rất rộng: cả những ai sẵn sàng tr ải qua phẫu thuật,
hoặc không muốn phẫu thuật nhƣng đơn thuần muốn thể hiện bản thân và sống cuộc
đời họ nhƣ một giới tính khác
Những ngƣời chuyển giới vẫn thƣờng đƣợc đồng nhất một cách sai lầm với
ngƣời đồng tính và chuyển giới tính. Tuy nhiên, “transgender” có thể tự xác
định/hoặc đƣợc xác định là ngƣời dị tính, đồng tính, hay lƣỡng tính. Thuật ngữ này
bao hàm từ cả những ngƣời ăn vận theo đúng giới tính sinh học của họ, cho tới
những ngƣời thể hiện phá cách nhƣ là các drag queen (nữ hoàng giả trang) và các
đồng tính nữ (lesbian) nam tính.
Cũng thuộc phạm trù “transgender” có cả những ngƣời dị tính - những ngƣời
đạt đƣợc cảm giác về một giới tính mới mẻ thông qua y phục (bao gồm trang sức,
hình xăm và các phục sức khác thƣờng gắn với giới tính đối lập) có thể một cách bí
mật hoặc công khai, có thể hoàn toàn hoặc chỉ phần nào. Có ba thuật ngữ thƣờng
đƣợc dùng để mô tả những ngƣời nhƣ vậy (trong tiếng Anh thƣờng đƣợc nhắc đ ến
là “trans people”): ngƣời ăn vận cải giới (transvestite), ngƣời chuyển giới
(transgender), và ngƣời chuyển giới tính (transsexual), tuy nhiên trên thực tế, ngƣời
có giới tính khác biệt với cơ thể sinh học có thể có những bản dạng giới rất phức
tạp, và họ có thể chuyển từ loại hình này sang loại hình khác trong suốt cuộc đời
[20, tr 12-13].
Ở Việt Nam, “transgender” là một thuật ngữ mới xuất hiện và gây khó khăn
trong khi sử dụng. Hiện nay có nhiều cách gọi ám chỉ thuật ngữ này, đó là “ngƣời
chuyển giới”, “ngƣời xuyên giới”, “ngƣời vƣợt giới”, trong khi khái niệm
“transexual” khá đƣợc thống nhất về cách hiểu - đó là “ngƣời chuyển đổi giới tính”
(mong muốn thay đổi cơ thể hoặc đã qua phẫu thuật). Cách gọi phổ thông thƣờng
đƣợc nhiều ngƣời nói đến đó là “ngƣời chuyển giới”, mặc dù nội hàm của thuật ngữ
này gây lúng túng khi phân tích từ nguyên nghĩa gốc cũng nhƣ trên thực tế. Bởi rất
nhiều ngƣời “chuyển giới” hoàn toàn không “chuyển” sang giới tính ngƣợc lại với
giới tính sinh học của họ, mà thƣờng có cảm giác về một bản dạng giới mơ hồ về
29
giới tính, hoặc chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, giới tính này sang giới
tính khác, tùy vào thời gian và bối cảnh. Họ thƣờng đƣợc phân làm hai nhóm: một
là nhóm từ nam qua nữ (MTF: Male to Female Transgender) và nhóm từ nữ qua
nam (FTM: Female to Male Transgender) [19, tr29].
Tuy nhiên, để dễ dàng hơn trong cách hiểu và sử dụng, cũng nhƣ giới hạn đối
tƣợng nghiên cứu, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tạm gọi những ngƣời có
những cảm nhận rõ ràng về giới tính thật của mình khác với giới tính sinh học, dù
phẫu thuật hay chƣa, là “ngƣời chuyển giới”.
1.1.4. Một số khái niệm liên quan
- Giới (Gender - Gọi đầy đủ là Giới tính xã hội): Giới của một ngƣời hình
thành trong quá trình trƣởng thành của ngƣời đó.Về cơ bản Giới cấu thành từ 3 góc
nhìn: Giới tính sinh học, Mong đợi xã hội (nhƣ văn hóa, truyền thống...), Bản dạng
giới (cảm nhận của mỗi cá nhân về giới tính của mình). [55, tr 1].Theo cách tiếp cận
về quyền con ngƣời, tác giả nhấn mạnh khía cạnh bản dạng giới khi xét đến Giới
tính xã hội của một ngƣời. Từ đây, chúng ta có ngƣời Nam hoặc Nữ - không chuyển
giới (Cisgender man/woman), ngƣời Nam hoặc Nữ - chuyển giới (Transgender
man/woman) và ngƣời Xuyên giới (có thể gọi chung bằng từ Transgender).
- Giới tính (Sex - Gọi đầy đủ là giới tính sinh học): dùng để nói về mặt cấu
tạo sinh học của một con ngƣời là chính. Bao gồm cả bộ phận sinh dục ngoài
(dƣơng vật, âm vật...) và bộ phận hay đặc điểm sinh dục bên trong (nhiễm sắc thể,
hoóc-môn, buồng trứng, tử cung...) Từ đây, chúng ta có ngƣời có giới tính Nam
(Male), giới tính Nữ (Female) hay ngƣời Liên giới tính (Intersex) - ngƣời cấu tạo
sinh học không điển hình là nam hay nữ. [55, tr 1]
- Bản dạng giới (gender identity): cảm nhận hoặc trải nghiệm mang tính chủ
quan của một cá nhân, cảm thấy mình thuộc về giới nam hay nữ. Nói cách khác, bản
dạng giới là do cá nhân tự xác định. Những cảm nhận này liên quan đến sự thể hiện
giới (gender expession) hay vai trò giới (gender role). Một ngƣời do đó có thể cảm
nhận vai trò giới của họ đi ngƣợc với cấu trúc sinh học. Thể hiện giới của một cá
30
nhân bao gồm nhiều yếu tố và có thể đƣợc thể hiện qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004767_1_5631_2002875.pdf