MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 5
1.1. Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội 5
1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta 19
Chương 2: PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN BẢO ĐẢM ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 42
2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta 42
2.2. Một số giải pháp nâng cao và phát huy vai trò nhân tố chủ quan nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay 60
KẾT LUẬN 84
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thành những nhu cầu, lợi ích đúng đắn, trên cơ sở đó hướng toàn bộ hoạt động của quần chúng của các thành phần kinh tế vào mục tiêu, lợi ích đã được xác định một cách khoa học, đồng thời phát huy khả năng sáng tạo của họ [48, tr. 35]. Do đó, Nhà nước cần hướng các chủ thể kinh tế vừa thực hiện lợi ích riêng có của mình; vừa thực hiện lợi ích chung cơ bản, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Chỉ có như vậy mới tạo ra điều kiện xã hội cần thiết cho sự phát triển kinh tế bền vững. Vì tiến bộ xã hội là kết quả của phát triển kinh tế nhưng phải coi tiến bộ xã hội cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế. Nhà nước trong quá trình điều tiết nền kinh tế cần phải thông qua vốn ngân sách và các nguồn khác, thực hiện các chương trình quốc gia về xã hội. Ví dụ như chương trình đầu tư, phát triển, chương trình giải quyết việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo, các chương trình bảo trợ xã hội. Có như vậy mới tạo được sự cân bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách chênh lệch xã hội về thu nhập, khoảng cách về kinh doanh, mức sống cũng như những điều kiện phát triển kinh tế giữa các bộ phận dân cư, vùng dân cư, xóa bỏ từng bước những bất công xã hội. Đối với nền kinh tế nước ta, khi kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chiếm tỷ lệ lớn, hạ tầng kinh tế nông thôn còn thấp, do đó trong việc xây dựng cơ chế chính sách tác động đối với nền kinh tế và sử dụng các công cụ kinh tế, Nhà nước cần lưu ý và chú trọng trong đầu tư phát triển khu vực kinh tế này theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba: Nhà nước phải tập trung xây dựng hệ thống kinh tế nhà nước mạnh, từng bước làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước chính là nền tảng vật chất của chế độ xã hội mới, là nơi thể hiện tính ưu việt của CNXH. Bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhà nước phải không ngừng tăng cường thực lực kinh tế nhà nước để bảo đảm ổn định, phát triển đời sống kinh tế - xã hội và làm công cụ, phương tiện để điều tiết các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN.
Thực tiễn đã cho thấy kinh tế nhà nước ở nước ta trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kích lệ. Chẳng hạn, thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế nhà nước nói chung của Đảng ta và qua việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trong gần 10 năm qua các đầu mối doanh nghiệp nhà nước đã thu hẹp (gần 50%) về số lượng. Nhưng nhìn chung doanh nghiệp nhà nước sau khi sắp xếp lại đã làm ăn có hiệu quả hơn. Trong 5 năm 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11,7%, gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh. Trong giai đoạn 1996-1999, do những nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thiên tai liên tiếp xảy ra (như lũ lụt ở miền trung...) tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế nói chung giảm dần. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung [1, tr. 11-12].
Song, cho đến nay kinh tế nhà nước vẫn còn nhiều mặt hạn chế, biểu hiện rõ nét nhất đó là, các doanh nghiệp nhà nước năng lực cạnh tranh còn yếu, hiệu quả kinh doanh chưa cao, năng suất còn thấp. Chẳng hạn, hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận tỷ lệ tương ứng năm 1998 là 2,9 và 0,14 đồng [1, tr. 26]. Có nhiều nguyên nhân cản trở tới sự phát triển của kinh tế Nhà nước ở nước ta thời gian qua. Nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản được Đảng ta đánh giá đó là "chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân" [13, tr. 65].
Từ thực tiễn trên đây, đòi hỏi để đảm bảo định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở thời gian tiếp theo, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chính sách kinh tế và các biện pháp kinh tế cụ thể, sao cho:
- Kinh tế Nhà nước, thực sự tiêu biểu cho năng suất, chất lượng, hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Thông qua đó để kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế Nhà nước có đủ điều kiện lôi cuốn chi phối các thành phần kinh tế khác.
- Kinh tế Nhà nước có đủ năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, nhằm ổn định đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế Nhà nước giữ được vai trò điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, tạo môi trường vĩ mô ổn định, bảo đảm tăng trưởng nhanh [35, tr. 99].
Sự tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng là sự thống nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan, giữa điều kiện khách quan và khu nhân tố chủ quan. Không xuất phát từ thực tế khách quan, điều kiện khách quan; hoạt động bất chấp các quy luật khách quan, các chủ thể sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí và sẽ không tránh khỏi sự trả giá. Nhưng ngược lại, thụ động trước điều kiện khách quan, không phát huy được vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của nhân tố chủ quan, của con người thì sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng và tụt hậu.
Trong thời đại ngày nay, đặc biệt trong điều kiện nước ta muốn tiến tới mục tiêu đã lựa chọn, phát triển rút ngắn, tạo lập một chế độ xã hội tốt đẹp phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay đang có những xu hướng biến động phức tạp, trong bản thân nó ẩn chứa những xu hướng phát triển tự phát lên TBCN. Đảm bảo định hướng XHCN nền kinh tế đó, đòi hỏi nhân tố chủ quan mà trước hết là Đảng và Nhà nước phải có sự nỗ lực cao. Thiếu sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, thiếu hiệu lực quản lý, điều tiết của Nhà nước XHCN, nền kinh tế đó sẽ không phát triển theo đúng định hướng đã lựa chọn.
Chương 2
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta - Thực trạng và giải pháp
2.1. Thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN là một chủ trương đúng đắn trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tuy nhiên để thực hiện thành công chủ trương đó là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có sự phát huy cao độ nhân tố chủ quan của đất nước, mà trước hết là hai chủ thể quan trọng: Đảng và Nhà nước. Qua thực tiễn của hơn 10 năm thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đáng khích lệ. Song chệch hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vẫn là một nguy cơ thực tế và không thể coi thường. Điều đó chứng tỏ, trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta bên cạnh những nỗ lực vẫn còn có những bất cập và hạn chế. Đòi hỏi chúng ta phải khắc phục những hạn chế đó để tiếp tục phát triển kinh tế theo đúng định hướng đã lựa chọn.
2.1.1. Những ưu điểm trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan ở nước ta nhằm bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhiều thành phần
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo con đường XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang có được những kết quả đáng khích lệ. Điều đó đã khẳng định những thành công trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo và quản lý đất nước, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.
Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. "Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam" [11, tr. 5]. Những thành tựu của cách mạng nước ta trước hết bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Là lực lượng tiền phong của giai cấp tiên tiến, của xã hội, Đảng đã thay mặt nhân dân lựa chọn đúng đắn con đường của cách mạng Việt Nam, và có trách nhiệm lãnh đạo đất nước, nhân dân tiến hành con đường cách mạng phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Trước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước, với thái độ và tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân, Đảng đã tự kiểm điểm, tự phê bình và khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm với những nhiệm vụ của giai đoạn mới" [9, tr. 123]. Từ đó Đảng chủ trương tự đổi mới, mà trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới tư duy chính trị về CNXH và nhất là tư duy kinh tế. Nét nổi bật trong đường lối đổi mới là Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN. Chủ trương đó như Đảng đã khẳng định lại trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: "Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần" và phải "Nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần" [13, tr. 91]. Chủ trương đó của Đảng là sự khái quát, tổng kết từ thực tiễn cách mạng của đất nước và là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về sự cần thiết phải bắc những chiếc cầu nhỏ đi lên CNXH từ một nước tiểu nông. Thông qua chiếc cầu đó chúng ta mới có khả năng để giải phóng năng lực sản xuất của xã hội; Khả năng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Như vậy, việc đổi mới nền kinh tế thuần nhất về sở hữu chuyển qua nền kinh tế bao gồm nhiều hình thức sở hữu khác nhau là một quyết định đúng đắn. Quyết định đó phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Bởi lẽ như chúng ta đã biết, sự phát triển của xã hội phải có điều kiện khách quan của nó, không một xã hội nào diệt vong khi tất cả những LLSX mà chế độ đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển vẫn còn chưa phát triển, và những QHSX mới, cao hơn, không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Điều đó cũng có nghĩa, LLSX chỉ phát triển khi nó phải có những điều kiện phát triển của nó, và khi đó mới có khả năng để thay đổi QHSX mới. Như vây, mục đích của sự chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là nhằm tạo ra những điều kiện để phát triển LLSX; khắc phục sự lạc hậu về kinh tế ở nước ta.
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do Đảng ta vạch ra là cách thức, con đường đúng đắn để đưa đất nước hướng tới mục tiêu XHCN. Nói cách khác Đảng ta đã sáng suốt trong lựa chọn những bước đi để sớm đến với mục tiêu đã lựa chọn. Khẳng định điều đó, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Đảng ta ghi rõ: "Trước sau như một nhân dân ta quyết tâm đi theo con đường XHCN. Đó là mục tiêu đấu tranh của Đảng và nhân dân ta trước đây cũng như về sau" [11, tr. 11].
Quán triệt mục tiêu, mục đích có tính nguyên tắc nêu trên, trong quá trình lãnh đạo việc tổ chức thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đảng đã không ngừng bổ sung; hoàn thiện bằng những chính sách và những giải pháp thiết thực nhằm giữ vững định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế của đất nước. Một mặt Đảng coi chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương nhất quán, có ý nghĩa chiến lược lâu dài và các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, các hình thức sở hữu vốn có bản chất riêng, nhưng không ngăn cản nhau, nhưng kinh tế quốc doanh phải được củng cố và phát triển, nắm vị trí then chốt trong nền kinh tế.
Chúng ta có thể khẳng định, những năm trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã nhận thức khá sâu sắc về đặc điểm khách quan nền kinh tế nước ta và yêu cầu định hướng XHCN trong kinh tế. Đó là, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần gắn liền với nhiều hình thức sở hữu, nhưng trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, quốc doanh và tập thể là nền tảng [31, tr. 10]. Điều đó đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng:
Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước [13, tr. 91-92].
Quan điểm trên đây của Đảng đã chỉ ra, yêu cầu phát triển nền kinh tế của đất nước trước hết phải chăm lo phát triển LLSX. Muốn vậy phải tạo ra những điều kiện để mọi người, mọi chủ thể kinh tế phát huy khả năng của mình trong sản xuất kinh doanh; phải phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, phải thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, vì đó là điều tất yếu khó tránh khỏi. Điều đó tuy thực tế đang diễn ra và tồn tại, nhưng không được thả nổi, phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, phải coi trọng việc xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Cùng với việc đổi mới cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta cũng đã kịp thời phát hiện và chỉ rõ phải đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế vận hành của nền kinh tế, vì đây là chìa khóa để phát huy và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Thực tiễn đã chỉ ra, Đảng ta đã tích cực lãnh đạo trong việc đổi mới cơ chế vận hành đối với nền kinh tế, cương quyết xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chuyển qua cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chủ trương đó, nhằm mục đích làm cho "thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch" và "thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh" [45, tr.67].
Chủ trương trên đây của Đảng đã thực sự phát huy được mọi năng lực sản xuất trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy các thành phần kinh tế không ngừng đầu tư phát triển sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, nhằm tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Trong những năm qua mức đóng góp vào ngân sách nhà nước của các thành phần kinh tế tăng lên rõ rệt, đời sống của xã hội từng bước được nâng cao và đi vào ổn định. Chẳng hạn ở Thanh Hóa, tổng sản phẩm (GDP) tăng liên tục trong nhiều năm qua (nhịp độ trung bình là 7%). Các thành phần kinh tế tiếp tục đầu tư nhằm khai thác các nguồn tiềm năng kinh tế hiện có. Kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp phát triển [55, tr. 16]. Do đó đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và kinh tế vùng, tạo ra nhiều mô hình kinh tế làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn đáng được quan tâm tổng kết và nhân ra diện rộng. Mô hình vùng mía đường Lam Sơn (Thọ Xuân) là một điển hình.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường được Đảng chủ trương xây dựng và phát triển không phải theo hướng bất kỳ mà theo định hướng XHCN. Do có sự nhận thức đúng đắn đặc điểm và điều kiện khách quan (cả trong và ngoài nước) với yêu cầu của quá trình phát triển rút ngắn, đi tắt, đón đầu nhằm sớm đến mục tiêu XHCN, Đảng đã phát hiện ra, tuy nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi chúng ta chuyển qua nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, là lúc thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, Đảng ta đã chủ trương đi thẳng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, không nhất thiết phải trải qua nền kinh tế hàng hóa giản đơn, bởi vậy tất yếu phải có sự tham gia quản lý của nhà nước với nhiệm vụ quản lý, giám sát và điều tiết nền kinh tế đó [47, tr. 29]. Do đó, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã ghi rõ: "Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước. Khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường" [13, tr. 93].
Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, từ sự vận động khách quan của nền kinh tế đó luôn có khả năng làm tăng mức độ phát sinh các mâu thuẫn, đó là những mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và sự phân tầng xã hội; giữa phát triển LLSX với việc xác lập QHSX mới; giữa mở cửa, hội nhập với việc giữa vững sự ổn định chính trị cho quá trình phát triển... Vì vậy Đảng ta đã xác định "Giữ vững ổn định chính trị và định hướng XHCN trong quá trình phát triển" [13, tr. 83]. Để bảo đảm giữ vững sự ổn định về kinh tế và khả năng định hướng kinh tế phát triển theo đúng hướng XHCN, Đảng ta luôn chú trọng phát triển hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác. Phấn đấu phát triển hai thành phần kinh tế này để thực sự trở thành nền tảng, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy Đảng đã chỉ đạo và định hướng cho Nhà nước tiếp tục bổ sung những cơ chế chính sách nhằm phát huy vai trò kinh tế nhà nước. Thực tế cho thấy, ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) Đảng ta đã chỉ rõ: "Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh tế XHCN, lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế" [9, tr. 53]. Quá trình thực hiện chủ trương đó, Đảng đã tiếp tục bổ sung và hoàn thiện đường lối định hướng đổi mới nhằm mở đường cho kinh tế nhà nước thực sự nắm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa VII, Đảng đã chủ trương cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước với mục đích chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần để thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất. Qua mấy năm thực hiện chủ trương đó, đến tháng 12/1999 cả nước đã cổ phần hóa được 370 doanh nghiệp (và bộ phận doanh nghiệp). Từ đó nhà nước đã rút ra được 441 tỷ đồng (tiền Việt Nam) để tiếp tục đầu tư phát triển vào các doanh nghiệp nhà nước khác, và đã thu hút 935 tỷ đồng ngoài xã hội đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần hóa [1, tr. 21]. Như vậy, việc cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng đắn, là cách thức nhằm phát huy nội lực cho quá trình phát triển kinh tế một cách có hiệu quả.
Đi cùng với việc xây dựng những chủ trương cho phát triển kinh tế, thời gian qua Đảng ta cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề xã hội; vấn đề xác lập và củng cố QHSX XHCN, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với định hướng XHCN trong quá trình phát triển đó; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh, để bảo đảm định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Đảng ta:
Không chỉ chủ động lựa chọn khai thác, liên kết các mặt thuận lợi của những điều kiện khách quan để tạo ra hợp lực cho kinh tế nhiều thành phần phát triển, mà còn chủ động đề ra chủ trương nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực của kinh tế nhiều thành phần [45, tr. 68].
Kinh nghiệm lịch sử mấy ngàn năm của ông cha ta là dựa vào sức dân mà dựng nước và giữ nước. Đúc rút kinh nghiệm quý báu đó, trước đây Bác Hồ cũng đã chỉ ra "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Với vị trí là chủ thể tự giác của tiến trình phát triển của dân tộc ta, Đảng đã có những biện pháp thiết thực để phát huy vai trò to lớn của nhân dân, từng bước động viên và thu hút nhân dân tham gia vào các phong trào thực tiễn nhằm bảo đảm định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Mới đây, bằng chủ trương xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở, Đảng đã đem lại những điều kiện cho quần chúng nhân dân thể hiện trên thực tế quyền làm chủ của mình về chính trị trong phát triển kinh tế. Từ đó làm cho quần chúng nhân dân ngày càng tin yêu Đảng và góp năng lực của mình cho sự phát triển đất nước và xây dựng chế độ xã hội mới. Phong trào thi đua sản xuất; nâng cao trách nhiệm và ý thức về quyền kiểm kê, kiểm soát quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân tăng lên rõ rệt.
Chúng ta có thể khẳng định, bằng năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức điều hành; bằng chính quá trình phát huy vai trò lãnh đạo của mình, những năm qua Đảng ta luôn chủ động đề ra những chủ trương, chính sách để ngay từ đầu gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đảng đã khéo léo nâng cao nghệ thuật lãnh đạo trong sự kết hợp giữa lợi ích riêng của các thành phần kinh tế với lợi ích chung vì mục tiêu XHCN. Những bước tiến đó chính là quá trình phát huy vài trò nhân tố chủ quan của Đảng nhằm giữ vững định hướng XHCN quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Đề ra mục tiêu chiến lược đúng đắn là quan trọng, nhưng thiếu những bước đi; thiếu sách lược thích hợp thì mục tiêu chiến lược cũng không thể đạt được trên thực tế. Định hướng và bảo đảm định hướng XHCN không chỉ thể hiện ở đường lối, cương lĩnh mà còn phải thể hiện cả ở kế hoạch, biện pháp và chính sách cụ thể [51, tr. 19]. Do vậy, ngoài phát huy vai trò nhân tố chủ quan của Đảng trong việc bảo đảm định hướng XHCN còn phải phát huy vai trò quản lý, điều tiết, định hướng của Nhà nước.
Phát triển nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần định hướng XHCN chính là sự kết hợp các lợi ích khác nhau, đối lập nhau bằng cách đặt phương thức thực hiện các lợi ích kinh tế đó trong một cán cân kinh tế và một cơ chế vận hành phù hợp với sự phát triển khách quan của nền kinh tế [56, tr. 18]. Nhưng để thực hiện được mục tiêu cuối cùng trong việc kết hợp giữa lợi ích riêng của từng chủ thể kinh tế trong các thành phần kinh tế với lợi ích chung vì mục tiêu XHCN là một vấn đề hết sức khó khăn. Nhằm thực hiện được vấn đề nêu trên, những năm qua Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách quan trọng làm công cụ điều tiết, điều chỉnh hợp lý các lợi ích kinh tế trong quản lý đất nước. Dựa trên đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN mà Đảng đề ra, Nhà nước từng bước cụ thể hóa thành các chính sách, thông tư, nghị định cụ thể phản ánh đúng đắn quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế. Từ đó, các thành phần kinh tế đã không ngừng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ về kinh tế - xã hội. Như vấn đề giải quyết việc làm, phần đóng góp vào ngân sách nhà nước v.v... Từ đó giúp cho nền kinh tế nước ta có bước tăng trưởng, bảo đảm sự ổn định xã hội.
Bằng luật doanh nghiệp và luật đầu tư nước ngoài đúng đắn, những năm qua chúng ta đã thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tích cực đầu tư phát triển sản xuất, vì vậy đã góp phần đáng kể cho việc tăng tiềm lực kinh tế của nhà nước; nhiều tiềm năng kinh tế của đất nước được khai thác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, từ thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa, với sự ra đời của Nhà máy đường liên doanh Việt Nam - Đài Loan (Việt - Đài) góp phần không nhỏ vào việc khai thác cả tiềm năng tự nhiên, cả nguồn lực lao động dư thừa vào quá trình phát triển kinh tế. Chính từ đó Nhà nước đã có thêm một nguồn thu khá lớn cho ngân sách và thu hút một số lượng lớn người lao động (phần lớn là nông dân trên địa bàn) có thêm việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống. Luật đầu tư nước ngoài đã làm cho nền kinh tế có những thay đổi rất cơ bản, tận dụng được lợi thế so sánh của nước ta so với thị trường thế giới, mặt khác thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Như mọi quốc gia trên thế giới, nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu ở nước ta, trong khi đó toàn cầu hóa đang kích thích và tác động đến mọi quốc gia. Vấn đề đặt ra là chúng ta có lợi dụng được điều kiện khách quan để phát triển kinh tế vì mục tiêu XHCN được không? Lịch sử đã chứng minh, không có một sự tăng trưởng nào của kinh tế mà không phải trả giá do sự thiếu hiểu biết của con người. Thực tiễn đã cho thấy, nhân loại đang phải đối đầu với những hậu quả sai trái về tăng trưởng kinh tế, như hủy hoại môi trường tự nhiên; băng hoại tới đạo đức và đời sống văn hóa xã hội v.v...
Một nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, cơ chế vận động của nền kinh tế đó theo cơ chế thị trường, vì vậy lợi ích kinh tế trong sản xuất kinh doanh luôn là nhân tố kích thích, là động lực thôi thúc các chủ thể kinh tế. Do đó về tất yếu khách quan nền kinh tế đó tự phát không thể phát triển theo hướng XHCN. Để phát triển theo hướng XHCN đòi hỏi phải có sự quản lý, định hướng và điều tiết của Nhà nước. Để Nhà nước trong việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế một mặt vừa bảo đảm cho các thành phần kinh tế được quyền tự chủ và bình đẳng trong sản xuất kinh doanh; mặt khác bảo đảm giữ vững định hướng phát triển của nền kinh tế theo hướng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh", không gì khác là phải có một kế hoạch tổng thể thực sự khoa học chỉ dẫn. Những năm qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVAN.doc
- MUCLUC1.doc