MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động XNK và đặc điểm của buôn bán biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
I. Những vấn đề lý luận cơ bản.
1. Tầm quan trọng của công tác XNK hàng hoá
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo- nền tảng của hoạt động xuất nhập khẩu
3. Các khâu kinh doanh XNK
4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác XNK
II. Sự hình thành tất yếu của buôn bán biên giới Việt - Trung
1. Khái quát mậu dịch biên giới trước khi bình thường hoá
2. Sự cần thiết phải mở cửa biên giới Việt - Trung và nối lại quan hệ buôn bán biên giới
3. Chủ trương của Chính phủ hai nước trong mậu dịch biên giới
4. Buôn bán biên giới Việt - Trung sau khi bình thường hoá
III. Đặc điểm buôn bán biên giới Việt - Trung
1. Các hình thức buôn bán biên giới Việt - Trung
2. Lực lượng tham gia buôn bán biên giới Việt - Trung
3. Các phương thức thanh toán
Chương II: Tình hình XNK hàng hoá của CEMACO với thị trường Trung Quốc
I. Giới thiệu về Công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển
2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động
II. Tình hình XNK hàng hoá của CEMACO với thị trường Trung Quốc
1.Tình hình XNK
2. Hình thức buôn bán
3. Phương thức thanh toán
4. Thuế XNK hàng hoá qua biên giới
5. Quản lý Nhà nước
6. Đánh giá hiệu quả hoạt động XNK qua biên giới Việt - Trung
7. Những kết luận chung về tình hình XNK của Công ty qua biên giới Việt - Trung
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động XNK của CEMACO với thị trường Trung Quốc
I. Phương hướng và nhiệm vụ của Công ty trong những năm tới
1. Phương hướng, mục tiêu kinh doanh
2. Các quan điểm cơ bản khi xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty
II. Phương hướng và triển vọng phát triển buôn bán biên giới Việt - Trung trong thời gian tới
1. Phương hướng phát triển
2. Triển vọng phát triển
II. Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động XNK của CEMACO với thị trường Trung Quốc
III. Những kiến nghị đối với Nhà nước
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Công ty Hoá chất -Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật với thị trường Trung quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạch của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đưa xuống, lời lỗ đều do Nhà nước chịu. Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh doanh chưa thực sự phát huy hết khả năng của mình, tuy vậy cũng góp phần to lớn trong việc thúc đẩy công tác XNK, tăng kim ngạch XNK của cả nước, đồng thời thúc đẩy các ngành công nghiệp có liên quan phát triển. Giai đoạn này, Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Công tyVật tư khoa học kỹ thuật gần như độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh XNK ngành hành của mình.
Quá trình đổi mới nền kinh tế Nhà nước từ năm 1999 đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các doanh nghiệp và đã không loại trừ hai Công ty này. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) khẳng định “ phải xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN “. Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, do đó hai Công ty đã không còn giữ vị trí độc quyền việc trong kinh doanh XNK các ngành hàng của mình mà thêm vào đó là hàng loạt các Công ty, tổng Công ty khác cũng tham gia cạng tranh. Hai Công ty lại đều đứng trước tình hình hoạt động kinh doanh không có lãi, kém hiệu quả, vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn phân tán, chất lượng và hiệu quả kinh doanh chưa vững chắc, trình độ quản lý, năng lực kinh doanh của một số cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Do vậy, sau một thời gian đánh giá, xem xét và cân nhắc, Bộ Thương mại đã quyết định hợp nhất Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Công ty Vật tư khoa học kỹ thuật làm một. Ngày 1.1.1999, Công ty hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ (CEMACO) bắt đầu chính thức hoạt động.
Cơ chế thị trường đã mở ra một môi trường làm ăn “thoáng” hơn, nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh nhạy linh hoạt hơn, có cạnh tranh được thì mới tồn tại. Đây là một môi trường mà tại đó các doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả sẽ sớm bị đào thải, đặc biệt là nhiều doanh nghiệp Nhà nước vốn trước đây chỉ quen làm ăn theo sự chỉ đạo cấp trên. Riêng với Công ty, vừa phải đối phó vừa phải đổi mới để thích ứng với cơ chế thị trường, những biến cả về kinh tế, chính trị,... trong nước, vừa phải chống chọi với những biến động lớn về kinh tế, chính trị trên trường quốc tế; Tuy vậy cũng phải kể đến những thuận lợi như việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ... mà chúng ta đang thực hiện, thêm vào đó khu vực Châu á -Thái Bình Dương, các nước ASEAN đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Đặc biệt, năm 2001 là năm được Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá VIII) xác định rõ những mục tiêu, kinh tế xã hội, những quyết sách mới nhằm phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những cơ chế chính sách mới như Luật Thương mại, Nghị định về chống trốn thuế, buôn lậu và gian lận thương mại... được ban hành tạo động lực mới cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong môi trường lành mạnh hơn, thuận lợi hơn.
Trước tình hình mới, Ban lãnh đạo Công ty đã kịp thời kiện toàn lại tổ chức, đổi mới và đầu tư xây dựng thêm các cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, uy tín của Công ty để cạnh tranh được trên thị trường. Cùng với việc tìm mọi cách vượt mọi khó khăn , Công ty đã phát huy được những thế mạnh, kinh nghiệm vốn có của mình. Nhờ đó, thời gian qua Công ty đã đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ mà Nhà nước giao, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty và chất lượng hoạt động, uy tín của Công ty ngày một được cải thiện, thị trường được mở rộng với phong phú chủng loại mặt hàng. Công ty đã và đang chứng tỏ khả năng, sức mạnh của mình trên thương trường, ngày càng có uy tín cả trong và ngoài nước.
2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt của Công ty
Để phù hợp với điều kiện kinh doanh trong cơ chế mới, Công ty đã sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, hoàn thiện bộ máy quản lý, phát huy tính sáng tạo độc lập tự chủ của từng đơn vị trực thuộc đồng thời tạo ra mối quan hệ chặt chẽ, hiệp đồng tương trợ lẫn nhau giữa các bộ phận.
Công ty hiện có 19 đơn vị trực thuộc gồm một loạt các cửa hàng,xí nghiệp, chi nhánh, trung tâm, tổng kho, kho, trạm thực hiện tiếp nhận, dự trữ vật tư, hàng hoá, kinh doanh, mua bán, sản xuất chế biến (gỗ, than hoạt tính...). Ngoài các đơn vị trực thuộc nói trên, bản thân Công ty cũng là một đơn vị trực tiếp kinh doanh.
Công ty có Giám đốc và các phó giám đốc giúp việc với 3 phòng XNK: Phòng XNK 1 chuyên kinh doanh ngành hàng hoá chất, phòng XNK 2 chuyên kinh doanh vật liệu điện, phòng XNK 3 kinh doanh ngành hàng về vật tư khoa học kỹ thuật cùng một số các phòng hành chính khác. Văn phòng và các phòng chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham gia giúp việc cho Giám đốc trong quản lý điều hành công việc. Bên cạnh đó, các phòng chuyên môn nghiệp vụ còn thực hiện nhiệm vụ quản lý, hướng dẫn các đơn vị cơ sở đồng thời trực tiếp kinh doanh XNK theo ngành hàng và nhóm hàng được phân công.
Mỗi đơn vị trực thuộc cũng là một bộ phận của Công ty được thành lập theo quyết định của Giám đốc Công ty. Ngoài chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ quy định cho từng đơn vị, các đơn vị trực thuộc đều có những quyền hạn giống nhau trong phạm vi sau:
Chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về từng công việc được đảm nhiệm, có quyền tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến tại các cuộc họp của Công ty liên quan đến phạm vi công tác và trách nhiệm của đơn vị mình.
Bố trí, sắp xếp lao động phù hợp với trách nhiệm được giao trên cơ sở trách nhiệm công tác, tinh giảm biên chế, kiến nghị nâng bậc lương, khen thưởng - kỷ luật cán bộ nhân viên trong đơn vị mình.
Chỉ đạo, kiểm tra cán bộ công nhân viên thực hiện kế hoạch và nhiệm vụ công tác, quản lý chặt chẽ kỷ luật lao động, đồng thời chịu trách nhiệm về sai trái của đơn vị mình.
Xây dựng và bảo vệ trước Giám đốc Công ty chương trình công tác và biện pháp thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch thuộc phạm vi của mình.
Các đơn vị trực thuộc có nghĩa vụ phối hợp chặt chẽ trong công việc, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Trong các bộ phận của Công ty, các xí nghiệp thành viên là bộ phận trực tiếp sản xuất, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, được Giám đốc uỷ quyền, có tư cách pháp nhân, hạch toán nội bộ, được sử dụng con dấu để giao dịch và mở tài khoản chuyên dùng tại ngân hàng. Các xí nghiệp thành viên chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty các chỉ tiêu kế hoạch được giao (doanh thu, sản lượng, quỹ lương, lợi nhuận, khấu hao tài sản cố định, trích nộp Công ty...) và được phép ký các hợp đồng kinh tế, tổ chức sản xuất khai thác thị trường, kinh doanh các mặt hàng do Công ty quy định trên cơ sở bảo đảm có lời. Ngoài các mặt hàng theo truyền thống của Công ty, các đơn vị được phép sản xuất kinh doanh các mặt hàng khác khi có phương án kinh doanh được duyệt. Đồng thời họ có toàn quyền quyết định việc mua bán nguyên liệu, vật tư phục vụ cho sản xuất của mình nếu không ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất.
Các phòng kinh doanh XNK, các trung tâm giao dịch cũng hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, có chức năng tham mưu, tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh. Theo uỷ quyền của Giám đốc, các bộ phận này được phép ký kết các hợp đồng kinh tế, đàm phán, ký tắt các văn bản thoả thuận với khách hàng trong giao dịch kinh doanh, tổ chức thực hiện các thương vụ khi được phép và cũng được phép mở rrộng mặt hàng, sản phẩm sau khi có phương án trình Giám đốc phê duyệt.
Ngoài ra còn có một bộ phận không có chức năng kinh doanh, chỉ có chức năng quản lý và phục vụ là phòng tổ chức, phòng hành chính, phòng bảo vệ, phòng tài chính kế toán, ...
Cao hơn, Công ty giao kế hoạch, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, áp dụng các biện pháp khoán, thưởng và chế độ trách nhiệm đối với đơn vị trực thuộc, đảm bảo quyền lợi vật chất và tinh thần cho mọi cán bộ công nhân viên như chế độ chính sách Nhà nước quy định.
II. Tình hình XNK hàng hoá của CEMACO với thị trường Trung Quốc.
1. Tình hình XNK
Thị trường Trung Quốc có tiềm lực lớn về khoa học kỹ thuật, dân số, gần Việt Nam nên thuận tiện cho giao nhận vận chuyển hàng hoá song đó lại chưa phải là thị trường chủ yếu, lớn mạnh nhất của Công ty. Trị giá hàng nhập từ thị trường này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng trị giá nhập từ các thị trường, năm 1999 là 3,6% và năm 2000 là 7,4%.
Bảng 1: Tình hình nhập khẩu từ các thị trường nước ngoài hai năm đầu thành lập
Đơn vị: USD
Thị trường
Năm1999
Năm 2000
Kim ngạch NK
Tỷ trọng %
Kim ngạch NK
Tỷ trọng %
Tổng trị giá nhập
Nga
Trung Quốc
Đức
Hàn Quốc
Singapo
Thái Lan
Hà Lan
Nhật
Đài Loan
Việt Nam
Hồng Kông
ấn Độ
Pháp
ý
Anh
Tây Ban Nha
12.953.360,7
800.496,0
476.683,4
973.874,0
3.512.406,7
1.509.088,5
463.356,0
65.282,8
4.861.686,8
153.977,0
31.916,6
104.672,9
_
_
_
_
_
100
6,18
3,68
7,52
27,11
11,65
3,58
0,50
37,53
1,19
0,25
0,81
_
_
_
_
_
12.967.711,5
279.769,0
956.981,7
220.509,0
3.531.243,0
1.592.916,4
430.875,0
_
2.930.055,8
491.680,0
_
1.503.577,6
24.393,0
166.145,0
263.387,0
16.271,0
105.704,0
100
2,16
7,38
1,70
27,23
12,28
3,32
_
22,60
3,79
_
11,59
0,19
1,28
2,03
0,13
0,82
Bảng 1 cho thấy trị giá hàng nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2000(956.981,7 USD) tăng hơn hai lần so với năm 1999 (476.683,4 USD). Nếu năm 1986, Trung Quốc đứng hàng thứ 6 các nước xuất khẩu (bán) hàng sang cho Công ty thì năm 2000, Trung Quốc đứng thứ 5. Điều đó chứng tỏ, quan hệ bạn hàng giữa Công ty với thị trường TrungQuốc đã bắt đầu được mở rộng và phát triển.
Với ba tháng đầu năm 2001, tổng giá trị hàng mà Công ty mua của Trung Quốc là 376.680,36 USD đã bằng 44% của năm 2000. Tuy vậy, nếu xét theo từng tháng, giá trị đó có phần giảm xút, tháng 1 là 237.186,13 USD, tháng 2 là 102.544,23 USD và tháng 3 chỉ còn 36.954 USD. Tình hình này diễn ra một phần do tình hình chung trong khu vực, sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh trong nước, các doanh nghiệp sợ rủi ro trong kinh doanh nên đã giảm chi phí đầu tư, thu hẹp sản xuất, ngoài ra một phần cũng là do trên thị trường xuất hiện những sản phẩm cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới làm giảm nhu cầu về hàng hoá Trung Quốc.
Bảng 2: Tình hình nhập khẩu từ các thị trường nước ngoài ba tháng đầu năm 2001
Đơn vị: USD
Thị trường
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tổng trị giá nhập
Hồng Kông
Đài Loan
Nga
Trung Quốc
Singapo
Hàn Quốc
Thái Lan
Nhật
Pháp
Đức
1.442.434,63
75.816,00
48.895,00
154.500,00237.186,13172.967,5053.050,00
13.980,00
641.340,00
12.200,00
32.500,00
1.123.686,48
334.530,00
11.160,00
103.000,00
102.544,23
37.674,00
361.280,00
91.347,00
45.732,00
14.000,00
22.419,25
759.987,95
78.628,95
27.930,00
_
36.950,00
110.354,00
375.770,00
7.175,00
123.180,00
_
_
Bên cạnh đó, hàng xuất khẩu của Công ty sang Trung Quốc chỉ tập trung vào hai ngành hàng: hoá chất và vật liệu điện, trong đó ngành vật liệu điện đã giữ được thế ổn định, hai năm đầu đều xuất khẩu được hơn 1 tỷ đồng mỗi năm (hơn 100 nghìn USD), còn với hàng hoá chất, sang năm 2000 mới xuất được. Riêng ngành hàng vật tư khoa học kỹ thuật tính từ khi thành lập đến ba tháng đầu năm 2001 vẫn chưa khai thác được thị trường Trung Quốc. Tình hình xuất khẩu này, ta có thể thấy qua bảng sau:
Bảng 3: Tình hình xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc hai năm đầu thành lập
Đơn vị: USD
Ngành hàng
1999
2000
Tổng trị giá xuất
1. Hoá chất
2. Vật liệu điện
3. Vật tư KHKT
126.513,2
_
126.513,2
_
453.614,4
301.026,9
152.587,5
_
Bảng 3 cho thấy rằng tổng trị giá xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc tăng lên rất nhiều, gần 4 lần (3,59 lần). Điều đó có nghĩa là cơ chế hoạt động mới đã bắt đầu có hiệu quả và sự tăng lên đó về giá trị hàng xuất là sự nỗ lực rất lớn của phòng XNK 1, từ chỗ chưa xâm nhập được vào thị trường TrungQuốc vào năm đầu thành lập nhưng năm 2000 đã bước đầu thành công trong việc tìm bạn hàng.
So sánh với tổng trị giá nhập khẩu hai năm đầu thì kim ngạch xuất khẩu mới chỉ là con số nhỏ bé, chưa tương xứng. Điều đó một phần do các mặt hàng thuộc lĩnh vực Công ty quản lý có nhu cầu nhiều hơn ở thị trường trong nước, ngoài các nguồn cung cấp khác còn cần tới hàng Trung Quốc, một phần giá hàng Trung Quốc rẻ hơn, trong khi hàng xuất khẩu của Công ty không cạnh tranh được trên thị trường Trung Quốc, không ký được hợp đồng và ngoài ra, đó còn do Công ty chưa khai thác hết thế mạnh của mình, chưa mạnh dạn tìm ra các khả năng hợp tác mới trong quan hệ với vùng phía nam Trung Quốc.
Nhìn chung, cơ cấu XNK của Công ty giống cơ cấu XNK thuộc cùng lĩnh vực của Trung Quốc, cái gì Công ty có khả năng cung cấp thì Trung Quốc cũng có, cái gì Công ty cần thì các doanh nghiệp Trung Quốc cũng cần. Điều này đã làm hạn chế mối quan hệ kinh doanh của Công ty với thị trường này, khả năng khai thác thị trường của nhau bị giới hạn, tăng tính cạnh tranh trong quan hệ buôn bán.
Nếu xét theo ngành hàng thì hàng vật liệu điện giữ vị trí ổn định nhất trong quan hệ XNK với Trung Quốc, xuất khẩu năm 1999 là 126.513,2 USD, năm 2000 là 152.587,5 USD, nhập khẩu năm 1999 là 193.242,3 USD, năm 2000 là 421.537 USD. Bên cạnh đó là hàng hoá chất, nếu năm 1999 không xuất khẩu được thì năm 2000 có bước nhẩy vọt, xuất khẩu với trị giá là 301.026,9 USD ( chiếm 66% tổng trị giá xuất khẩu của 3 ngành chính sang Trung Quốc ) và nhập khẩu cũng với giá trị tương tự như hàng vật liệu điện. Trong ba ngành thì ngành vật tư khoa học kỹ thuật có trị giá XNK nhỏ nhất và đặc biệt chưa xuất khẩu được, nguyên nhân do ta chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng hay nhiều khi do giá cả chưa thuyết phục.
Bảng 4:Tình hình nhập khẩu từng ngành hàng.
Đơn vị: USD
Ngành
Năm 1999
Năm 2000
1/2001
2/2001
3/2001
Tổng trị giá nhập
1.Hoá chất
2.Vật liệu điện
3.Vật tư KHKT
476.683,4
173.854,3
193.242,3
109.586,8
956.981,7
382.243,5
421.537,0
153.201,2
237.186,13
40.017,20
55.672,13
141.496,80
102.544,23
63.147,60
15.175,00
24.221,63
36.950
16.000
20.950
_
Dù cho kim ngạch XNK của Công ty với thị trường Trung Quốc còn thấp so với tổng kim ngạch XNK của Công ty ( năm 1999 là 4%, năm 2000 là 8% ) nhưng nó cũng có tác dụng to lớn làm tăng lợi nhuận của Công ty, góp phần giải quyết nhu cầu trong nước về những mặt hàng thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Đồng thời, ta cũng thấy rằng nó còn có nhiều triển vọng tốt đẹp. Năm 1999, kim ngạch XNK với thị trường TrungQuốc là 603.196,6 USD, năm 2000 là 1.410.596,1 USD tăng hơn 2,3 lần.
Về vấn đề xuất khẩu, có thể nói còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Việc đưa hàng hoá vươn ra thị trường nước ngoài là một việc rất khó, nhất là với một nước có trình độ khoa học kỹ thuật hơn nước ta. Hàng phải bảo đảm được yêu cầu kỹ thuật, chất lượng nếu không thì khó tìm được chỗ đứng. Mặt khác, thị trường Trung Quốc lại là thị trường lớn với hơn 1,2 tỷ người, nhiều nước, nhiều doanh nghiệp khác nhận thức được điều này cũng tìm mọi cách xâm nhập nên đã tạo ra sự cạnh tranh lớn với Công ty. Trong khi đó, Công ty vẫn chưa có phương thức kinh doanh phù hợp, hiệu quả nhất, mặt hàng còn đơn điệu, chưa phát triển thêm mặt hàng mới. Do vậy, khả năng cạnh tranh có phần bị thua kém. Một số trường hợp, có yêu cầu từ phía doanh nghiệp Trung Quốc, Công ty không có sẵn phải đi mua nội, tập trung hàng lại từ nhiều nguồn, nhưng giải quyết mất nhiều thời gian, không đợi được, họ phải tìm bạn hàng khác. Nói chung, chỉ tiêu xuất khẩu mới thực hiện được 54% kế hoạch, nguyên nhân chính là do Công ty chưa tìm được bạn hàng, hoạt động xuất khẩu thời gian qua lại có nhiều diễn biến phức tạp, không lường hết được hậu quả, vì chưa chắc chắn nên Công ty cũng chưa mạnh dạn đầu tư để tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Về nhập khẩu, hàng Trung Quốc là một trong những nguồn chính cho kinh doanh của Công ty. Để hoạt động nhập khẩu hàng từ Trung Quốc có hiệu quả, tức là vừa đem lại lợi nhuận cho Công ty, vừa đáp ứng nhu cầu xã hội, Công ty đã tham gia tìm hiểu, lựa chọn bạn hàng kỹ lưỡng. Những sự lựa chọn này là thông qua sự giới thiệu của nhiều tổ chức có uy tín, qua chào hàng, qua các hội chợ triển lãm... Trong nhập khẩu, Công ty không bị ép giá do cạnh tranh quốc tế diễn ra gay gắt và Công ty giữ quan hệ tốt với bạn hàng nên bảo đảm cung cấp đủ hàng nhập khẩu theo nhu cầu của thị trường, bảo đảm hàng chất lượng cao, đáp ứng đúng và kịp thời yêu cầu của sản xuất và tiêu dùng.
2. Hình thức buôn bán
Hai hình thức buôn bán phổ biến mà Công ty áp dụng trong quan hệ kinh tế với thị trường Trung Quốc là tiểu ngạch và chính ngạch. Chúng được phân biệt tương đối rõ ràng mà ta có thể thấy ngay qua bảng sau:
Bảng 5: Sự khác nhau giữa XNK tiểu ngạch và XNK chính ngạch
Tiểu ngạch
Chính ngạch
Giấy phép
Của Sở Thương mại Tỉnh
Của Bộ Thương mại
Đối tượng tham gia
Các Tỉnh biên giới
Các Tỉnh trong và ngoài khu vực biên giới
Trị giá lô hàng
Không quá 500.000 VND
Không có giới hạn
Hợp đồng
Hầu như không có
Có hợp đồng
Phương thức thanh toán
Trực tiếp theo biên mậu
Qua Ngân hàng
Cửa khẩu
Tất cả các cửa khẩu và đường mòn quy định
Cửa khẩu quốc gia và quốc tế
Kiểm tra chất lượng và số lượng
Đơn giản, thiếu chặt chẽ
Chặt chẽ hơn so với tiểu ngạch
Nhưng thực tế không dễ phân biệt đâu là lô hàng chính ngạch, đâu là lô hàng tiểu ngạch bởi hai hình thức này ngày càng có nhiều điểm giống nhau. Trị giá lô hàng tiểu ngạch lớn hơn nhiều so với quy định (thậm chí có những lô hàng trị giá hàng chục, hàng trăm triệu đồng), nhiều khi cũng không kém gì một lô hàng chính ngạch. Thanh toán trong chính ngạch hiện nay theo phương thức " tiền trao cháo múc", hàng đổi hàng, còn thanh toán qua ngân hàng như yêu cầu trong Hiệp định Thương mại lại rất ít chỉ chiếm 1/10 tổng kim ngạch XNK chính ngạch hàng năm. Các phương thức, quy trình kiểm tra, giao nhận hàng hoá ở hai hình thức cũng tương tự nhau... Như vậy, căn cứ cuối cùng để phân biệt là theo giấy phép từng lô hàng qua biên giới. Nếu lô hàng có giấy phép do Bộ Thương mại cấp thì gọi là XNK chính ngạch, còn nếu do Uỷ ban Nhân dân các tỉnh biên giới cấp (hoặc các ngành chức năng của tỉnh được uỷ quyền cấp) thì gọi là XNK tiểu ngạch.
Thế nhưng, do phía Trung Quốc áp dụng chính sách ưu đãi với XNK tiểu ngạch với mức thuế suất ưu đãi nên Công ty đã lựa chọn hình thức XNK tiểu ngạch là chủ yếu trong kinh doanh, một số lô hàng chính ngạch cũng đã được chuyển qua cửa khẩu dành cho buôn bán tiểu ngạch, lúc này giấy phép của Bộ Thương mại sẽ không được xuất trình mà thay vào đó là giấy phép của Tỉnh nhằm đi qua cửa khẩu. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân nữa cho sự lựa chọn này là thủ tục ngắn gọn, đỡ phiền hà, thời gian thực hiện thương vụ nhanh, thanh toán linh hoạt.
Cùng với hai hình thức trên, do đòi hỏi của thị trường Công ty còn tiến hành kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất song phương thức này mới chỉ được tiến hành ở quy mô nhỏ, không đáng kể.
3.Phương thức thanh toán.
CEMACO cũng như các doanh nghiệp khác sử dụng các phương thức thanh toán trong công tác xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Trung hết sức linh hoạt nhưng ít tuân thủ theo thông lệ quốc tế.
Hiện nay trên thực tế, các ngân hàng vẫn chưa kiểm soát và cũng chưa có biện pháp tổ chức tốt công tác thanh toán XNK với Trung Quốc nói chung, thanh toán XNK tại khu vực biên giới Việt - Trung nói riêng. XNK biên giới Việt Trung mang tính tự phát, không có một đầu mối chung kiểm soát và điều hành, Bộ thương mại chưa có quy chế về XNK, Ngân hàng Nhà nước chưa có thông tư hướng dẫn về công tác thanh toán. Do vậy, CEMACO vẫn tiến hành hoạt động XNK và thanh toán trực tiếp với doanh nghiệp Trung Quốc không theo những quy định của ngân hàng. Thanh toán XNK qua ngân hàng thương mại chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thanh toán XNK ( khoảng 10%). Thanh toán XNK với Trung Quốc của Công ty dưới hình thức L/C được thực hiện chủ yếu thông qua Ngân hàng Ngoại thương. Đây là một trong những ngân hàng thương mại bắt đầu chuyển mình và trực tiếp tham gia vào công tác thanh toán trong buôn bán biên giới sau khi Hiệp định thanh toán và hợp tác được ký kết giữa Ngân hàng Trung Ương hai nước( 26/5/1996) và cũng là một trong những Ngân hàng thương mại quốc doanh sớm khôi phục lại các quan hệ đaị lý với các Ngân hàng của Trung Quốc đã bị gián đoạn trong chiến tranh biên giới.
Tại khu vực biên giới, thanh toán giữa Công ty với bên Trung Quốc cũng không qua hệ thống Ngân hàng, chủ yếu thông qua hình thức hàng đổi hàng, bằng tiền mặt USD, NDT, VND. (Khi thu tiền mặt ( VND và USD ), Công ty phải nộp tiền vào tài khoản của mình ở Ngân hàng thương mại (Ngân hàng ngoại thương) để nhờ chuyển hộ về trụ sở chính của Công ty hoặc chuyển tới các địa phương trong cả nước theo nhu cầu.). Do đó, hình thành nên một nhu cầu đổi tiền tại khu vực này. ở đây, một số Ngân hàng thương mại cũng đã triển khai bàn thu đổi ngoại tệ nhưng chỉ dừng lại ở phạm vi thu đổi ngoại tệ cho người qua lại vùng biên giới, chưa mở rộng phạm vi kinh doanh ngoại tệ, cho nên việc kinh doanh mua bán ngoại tệ đều do tư thương thực hiện. Mặt khác, cơ chế kinh doanh mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại nặng nề, dễ xảy ra rủi ro (như tiền giả, lừa đảo) mô hình kinh doanh cồng kềnh, kém hiệu quả, thiếu linh hoạt, các Ngân hàng thương mại chỉ đạo không kịp thời tỷ giá trao đổi, do không nắm vững tình hình cung cầu trên thị trường dẫn đến khó cạnh tranh được với các bàn thu đổi tư nhân. Hơn nữa, trình độ, năng lực của cán bộ còn yếu kém, nghiệp vụ về kinh doanh ngoại hối còn chưa thành thạo, kinh nghiệm kinh doanh cũng như kinh nghiệm xác định tiền thật tiền giả còn thiếu và yếu kém, vì vậy nhiều quầy đổi tiền “lỗ” phải đóng cửa.
Một thị trường chợ đen buôn bán tiền ( VND, NDT, USD ) được hình thành công khai ở khu vực biên giới giữa hai bên và thị trường đó ngày càng lan rộng. Tại các địa điểm này, người ta có thể mua bán trao đổi các loại tiền VND, NDT, USD với số lượng không hạn chế. Thị trường này đã có những tác động tích cực góp phần đẩy mạnh các quan hệ giao lưu đi lại và lưu thông hàng hoá giữa hai bên khi mà Ngân hàng thương mại chưa thực hiện được chức năng của mình. Tuy nhiên, việc thả nổi hoạt động của thị trường tiền tệ đã gây ra các hiện tượng tiêu cực tự phát như làm tăng vọt giá cả hàng hoá một cách giả tạo do giá cả chuyển đổi giữa các loại tiền tăng vọt. Hơn nữa, việc thả nổi thị trường đã là môi trường thuận tiện cho phía Trung Quốc thực hiện chủ trương hạ thấp tỷ giá đồng NDT đối với đồng VND - một trong những nguyên nhân khiến cho hàng hoá Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt nam với giá rẻ hơn nhiều so với hàng hoá nội địa, gây khó khăn cho các nhà sản xuất Việt nam. Mặt khác, vì Ngân hàng vẫn chưa tham gia tích cực vào quá trình thanh toán nên trong XNK tiểu ngạch, Công ty gặp phải một khó khăn trong việc thu tiền từ người mua phía Trung Quốc .
Ngay cả khi thanh toán được thực hiện qua ngân hàng, nhưng vẫn chưa áp dụng các phương thức thanh toán theo thông lệ quốc tế nên quá trình thanh toán rất phức tạp, tốn thời gian. Có thể lấy ví dụ về một giao dịch:
Bước 1: Công ty tìm một thương nhân Trung Quốc có nhu cầu mua hoá chất. Sau khi đàm phán đi đến thoả hiệp và cuối cùng ký kết một hợp đồng.
Bước 2: Thương nhân Trung Quốc đặt cọc tại Ngân hàng đại diện cho phía Trung Quốc . Ngân hàng này có quan hệ đại lý với Ngân hàng của Công ty nhờ đó báo cho Công ty trở hàng lên biên giới.
Bước 3: Phía Trung Quốc sẽ cử người kiểm tra hàng liệu có đúng như yêu cầu không, nếu đồng ý nhận hàng họ sẽ nộp tiền vào ngân hàng.
Bước 4: Công ty chở hàng hoá sang.
Bước 5: Sau đó Công ty mới nhận tiền từ Ngân hàng đại diện của mình.
Như vậy, trong quá trình này, ngân hàng hoàn toàn thụ động chưa phát huy được vai trò của mình, không bảo đảm được việc thanh toán cho phía Việt nam mà cụ thể là CEMACO ( giả sử trong trường hợp nếu phía Trung Quốc cố tình không muốn nhận hàng, tìm mọi cách từ chối hoặc ép giá). Đồng thời qua giao dịch này, ta nhận thấy ngân hàng chỉ làm dịch vụ thu hộ hoặc chuyển tiền và trên thực tế ngân hàng cũng chưa tham ra trong các hoạt động này là chủ yếu.
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong công tác thanh toán này có rất nhiều và có thể kể đến như:
Do phía Trung Quốc áp dụng chính sách ưu đãi đối với XNK tiểu ngạch cho các tỉnh biên giới nên cùng một loại hàng hoá nếu mua bán theo đường tiểu ngạch sẽ rẻ hơn nhiều, từ đó dẫn đến các đơn vị đều muốn mua bán, thanh toán với nhau theo đường tiểu ngạch, CEMACO cũng vậy bởi lợi nhuận là mục tiêu đầu tiên trong kinh doanh. Trong khi đó, Bộ Thương mại chưa có quy chế XNK tại khu vực biên giới Trung Quốc, do đó Ngân hàng Nhà nước chưa xây dựng được thông tư hướng dẫn thanh toán XNK tại biên giới để phục vụ cho doanh nghiệp Việt Nam đối với việc XNK tiểu ngạch.
Trong quan hệ thanh toán biên mậu, phía Trung Quốc chủ trương không dùng ngoại tệ tự do chuyển đổi trong thanh toán. Họ sử dụng đồng NDT trong thanh toán biên giới đối vơí tất cả các nước có chung biên giới nhằm mục tiêu nâng cao vai trò, vị trí và phạm vi ảnh hưởng của đồng NDT trên thị trường quốc tế và khu vực. Trung quốc dự kiến đến năm 2003 sẽ biến đồng NDT thành đồng tiền chuyển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11867.DOC