Luận văn Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại ngân hàng công thương chi nhánh An Giang

Hiện nay, ngành thủy sản mà đặc biệt là chăn nuôi cá tra-basa (cá tra-basa: một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá) là một trong những thế mạnh của ĐBSCL nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng và được các nước trên thế giới biết đến, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam vừa gia nhập WTO thì việc mở rộng phát triển sản lượng cá tra-basa cả về lượng và về chất là rất cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Để làm được điều này cần phải có sự phối hợp tốt giữa 04 nhà, trong đó nhà nông là lực lượng nồng cốt trong việc phát triển ngành nghề này, còn ngân hàng là một trong các nhà doanh nghiệp hỗ trợ về vốn tốt nhất cho nhà nông vì đa số những người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho một chu kỳ nuôi. Tuy nhiên, một mặt mở rộng tín dụng cho những người chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác phải đảm bảo chất lượng tín dụng bằng những biện pháp giảm thiểu rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa, hạn chế phát sinh NQH đến mức thấp nhất.

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2142 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại ngân hàng công thương chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 46% 82,000 tấn 45% Trong đó : + Nuôi cá tra-basa 25,000 tấn 21% 97,000 tấn 81% 72,000 tấn 50% Bảng 4 : Sản lượng chế biến, xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 + Sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa 54,900 tấn 104.000 tấn 125,000 tấn + Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa 123 triệu USD 255 triệu USD 335 triệu USD (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % + Sản lượng cá tra-basa chế biến và xuất khẩu 49,100 tấn 89% 70,100 tấn 128% 21,000 tấn 20% + Kim ngạch xuất khẩu cá tra-basa 132 triệuUSD 107% 212 triệuUSD 172% 80 triệuUSD 31% (Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động ngành Thủy sản An Giang năm 2005, 2006 và 2007 của Sở Thủy sản An Giang) Trong năm 2007, tỉnh tiếp tục quy hoạch lại các vùng sản xuất nguyên liệu chủ yếu, chủ động trong khâu sản xuất con giống, mở rộng thị trường xuất khẩu, sản phẩm chế biến đa dạng và được khách hàng nhiều nước ưa chuộng. Sản xuất ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu được cải thiện đáng kể dần dần khắc phục được những rào cản kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các thành tựu kỹ thuật vào sản xuất, quan tâm đầu tư con giống, thức ăn, phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ môi trường đã phần nào tạo được nguồn nguyên liệu sạch, không sử dụng hóa chất giúp cho uy tín của thương hiệu cá tra-basa Việt Nam ngày càng được nâng lên. Từ đó ngày càng mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu với các sản phẩm cá tra-basa đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được tiêu thụ tốt ở tất cả các thị trường quốc tế đã làm nên thắng lợi của ngành chăn nuôi cá tra-basa trong năm 2007. Cụ thể là sản lượng chế biến và xuất khẩu cá tra-basa giai đoạn 2005 – 2007 tăng 128% về sản lượng (70.100 tấn) và 172% về giá trị (212 triệu USD) (bảng 4). Qua việc phân tích những số liệu trên cùng với thực tế phát triển ngành chăn nuôi cá tra-basa từ năm 2005 đến năm 2007 cho thấy ngành chăn nuôi cá tra-basa đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, tuy nhiên cũng gặp không ít những khó khăn như : - Thị trường xuất khẩu chưa thật ổn định do gặp khó khăn trong việc đối phó với những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu thủy sản. - Thời tiết diễn ra bất thường : nắng nóng, khô hạn, thời tiết lạnh, nguồn nước bị ô nhiễm,…làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng, gây thiệt hại không nhỏ cho đời sống nông – ngư dân. - Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành, tỉnh,... Những khó khăn trên xảy ra đối với người chăn nuôi cá tra-basa là do nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, từ đó cũng gây ra không ít khó khăn và rủi ro trong hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa. 2.4 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NHCT CHI NHÁNH AN GIANG 2.4.1 Một số đặc điểm chủ yếu của hộ chăn nuôi cá tra-basa Hộ chăn nuôi cá tra-basa có những đặc điểm chủ yếu sau : - Chăn nuôi tập trung thành vùng : Vùng chăn nuôi cá tra-basa tập trung ở những vùng đất ven sông Hậu và sông Tiền hoặc trên các tuyến sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng tháp, Cần thơ, Bến tre,…của khu vực ĐBSCL. - Chăn nuôi theo tính chất cha truyền con nối : Nghề chăn nuôi cá tra-basa xuất phát từ làng bè Thị xã Châu Đốc, được truyền từ đời này sang đời khác nên thường chỉ nuôi theo những kinh nghiệm có được mà ít áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hoặc tìm hiểu thêm những thông tin hoặc những kinh nghiệm bên ngoài. - Chăn nuôi phát triển rất tự phát : Người chăn nuôi cá tra-basa có thói quen sản xuất tự phát, chưa tuân thủ quy hoạch và kế hoạch phát triển NTTS của ngành và của tỉnh. - Hộ chăn nuôi thường thiếu những kinh nghiệm khoa học : Đây là đặc điểm phổ biến nhất của những người chăn nuôi cá tra-basa. Hầu hết những người chăn nuôi cá tra-basa là những người nông dân, bên cạnh những ngư dân chăn nuôi cá tra-basa truyền thống như ở Làng bè Châu Đốc, Phú Tân là những ngư dân có tính chất “cha truyền con nối” thì còn lại là những nông dân chuyển đổi từ các ngành nghề khác hoặc những người có vốn thậm chí không có vốn và ít có am hiểu về con cá tra-basa cũng đào ao nuôi cá vì thấy việc nuôi cá tra-basa đã làm cho không ít người trở thành những tỷ phú nghề cá. Chính những nguyên nhân đó mà nhiều người dù thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết khoa học thậm chí không có kinh nghiệm cũng đã kéo nhau đào ao nuôi cá mong kiếm được lợi ích từ nghề này mà không lường trước được những rủi ro tiềm ẩn trong tương lai. - Chỉ thấy lợi ích trước mắt : Trên lý thuyết người chăn nuôi cá tra-basa và các nhà máy chế biến thủy sản phải luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng để phát triển, cùng nhau chia sẻ lợi ích đôi bên cùng có lợi nhưng thực tế không phải như vậy mà họ luôn “rình rập” nhau. Nếu thị trường có khuynh hướng có lợi cho ai thì người đó sẽ cố gắng khai thác tối đa lợi ích về phía mình sao cho thu về lợi nhuận cao nhất. Đơn cử như khi giá cá nguyên liệu tăng thì người chăn nuôi ghim hàng không chịu bán cho các nhà máy chế biến để mong chờ giá sẽ tăng hơn nữa, còn khi giá cá giảm thì các nhà máy chế biến viện đủ lý do để không thu mua hoặc có mua nhưng không thu mua theo giá đã ký trong hợp đồng mà mua với mức giá thấp hơn. Cả người nuôi và người thu mua đều vi phạm hợp đồng chỉ vì lợi ích trước mắt. - Vốn tự có ít so với tổng nhu cầu vốn : Nhu cầu vốn cho việc chăn nuôi cá tra-basa rất lớn, nhất là các chi phí cho việc mua thức ăn (chiếm khoản 70% đến 80% nhu cầu vốn). Các loại chi phí đó rất lớn mà không phải riêng một cá nhân nào cũng có thể đáp ứng được. Vì vậy, phần lớn người chăn nuôi cá tra-basa đều thiếu vốn cho 1 chu kỳ nuôi nên phải vay vốn ngân hàng và vay thêm bên ngoài. Trường hợp nếu không bán được cá tiếp tục nuôi thì chí phí lại càng tăng thêm nhất là chi phí thức ăn để tiếp tục nuôi cá. Từ đó phải vay thêm tiền, nợ càng tăng (nợ ngân hàng, nợ vay bên ngoài, nợ tiền mua thức ăn – xăng – dầu,…) nhưng cá lại càng khó bán hơn do vượt tiêu chuẩn mà những NMCB cần. - Lợi nhuận từ ngành chăn nuôi cá tra-basa thường cao hơn những ngành khác nhưng bấp bênh : Lợi nhuận từ hoạt động chăn nuôi thủy sản nói chung và chăn nuôi cá tra-basa nói riêng là rất cao so với các ngành nghề khác hiện nay. Trong khoảng thời gian 6 tháng chăn nuôi có người trở thành tỷ phú và cũng trong khoảng thời gian này có người từ tỷ phú mất hết vốn, nợ nầng “bao vây”. Vì vậy, nghề chăn nuôi cá tra basa chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đặc điểm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đào ao nuôi cá hàng loạt, một số người giàu lên nhanh chóng và cũng không ít người bị phá sản. Trên đây là một số đặc điểm chủ yếu của những hộ chăn nuôi cá tra-basa, những đặc điểm trên đã gây ra không ít khó khăn cho ngành chăn nuôi cá tra-basa. Từ đó làm cho hoạt động cho vay đối với lĩnh vực chăn nuôi cá tra-basa cũng gặp không ít rủi ro. 2.4.2 Thực trạng rủi ro tín dụng trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Với tình hình kinh tế xã hội của tỉnh năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 17 năm qua kể từ năm 1990 do nhu cầu và sức mua của người dân tăng đã kích thích sản xuất phát triển, kéo theo nhu cầu vốn của nền kinh tế cũng tăng theo nên trong năm 2007 dư nợ tín dụng trong hạn của Chi nhánh cũng đạt ở mức cao (cao nhất từ trước tới nay). Cụ thể nhìn vào bảng số liệu 5 cho thấy : Bảng 5 : Dư nợ trong hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ trong hạn 723,268 659,782 839,723 1. Dư nợ ngắn hạn. Trong đó : 636,206 551,668 669,059 DNNN 46,826 37,716 57,043 Thành phần kinh tế khác : 589,380 513,952 612,016 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 57,148 45,801 83,552 + Các ngành khác 532,232 468,151 528,464 2. Dư nợ trung-dài hạn. Trong đó : 90,040 110,863 173,187 DNNN 40,914 60,702 82,346 Thành phần kinh tế khác 49,126 50,161 90,841 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 12,847 4,582 6,728 + Các ngành khác 36,279 45,579 84,113 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Dư nợ tín dụng trong hạn năm 2007 tăng cao so với năm 2005 và năm 2006, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân giai đoạn 2005 – 2007 đạt 16%: dư nợ cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 63.486 triệu đồng. Nguyên nhân là do vào tháng 06 năm 2006 Chi nhánh NHCT Thị xã Châu Đốc nâng lên thành Chi nhánh cấp I trực thuộc NHCT Việt Nam tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang nên Chi nhánh giảm dư nợ trong hạn là 136.421 triệu đồng (dư nợ trong hạn cuối năm 2005 là 723.268 triệu đồng trong khi dư nợ đầu năm 2006 chỉ còn 586.847 triệu đồng) . Nếu loại trừ phần dư nợ của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NHCT Chi nhánh An Giang cũng có bước tăng trưởng tín dụng là 72.935 triệu đồng (dư nợ trong hạn đầu năm 2006 là 586.847 triệu đồng, dư nợ trong hạn cuối năm 2006 là 659.782 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng trưởng tín dụng là trên 12%. Bảng 6 : Dư nợ quá hạn theo ngành kinh tế tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn 2,975 2,749 1,977 Ngắn hạn 2,671 2,546 1,977 DNNN 0 0 0 Thành phần kinh tế khác : 2,671 2,546 1,977 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 259 197 + Các ngành khác 487 2,287 1,780 Trung-dài hạn. 304 203 0 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Dư nợ quá hạn đến 31/12/2006 là 2.749 triệu đồng giảm so với năm 2005 là 226 triệu đồng do trong năm 2005, thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam, NHCT chi nhánh An Giang đã chủ trương không tăng trưởng tín dụng nóng mà tập trung sàn lọc khách hàng để cho vay, chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ đạo về cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giảm dư nợ cho vay DNNN, đẩy mạnh thu hồi nợ và kiềm chế không để nợ quá hạn phát sinh. Từ đó đã làm giảm NQH của năm 2006 so với năm 2005. Cũng do trong năm 2006 Chi nhánh NHCT Châu Đốc đã tách ra khỏi NHCT chi nhánh An Giang nên NQH của Chi nhánh năm 2007 giảm 2.503 triệu đồng. Nếu loại trừ phần dư nợ quá hạn của Chi nhánh NHCT Châu Đốc từ đầu năm 2006 thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng 2.277 triệu đồng (dư nợ quá hạn đầu năm 2006 là 472 triệu đồng, dư nợ quá hạn cuối năm 2006 là 2.749 triệu đồng) tương ứng với tốc độ tăng khá cao, trên 5 lần. NHCT Chi nhánh An Giang nằm trên địa bàn tỉnh An Giang với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp thì hoạt động cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay hộ : như cho vay chăn nuôi, cho vay ngư nghiệp, cho vay trồng lúa,...Trước đây, khi ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa còn chưa phát triển, sản phẩm được chế biến từ cá tra-basa chưa được thế giới biết đến thì cho vay ngư nghiệp chủ yếu là cho vay chăn nuôi một số loại cá như : cá lóc, cá rô phi, cá chim trắng,…cá tra-basa cũng có nhưng rất ít, chủ yếu là cá tra-basa nuôi bè. Nhưng từ khi con cá tra-basa được bạn bè khắp nơi trên thế giới biết đến như một loại thực phẩm bổ dưỡng thay thế cho loài cá nheo ở biển thì ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa ngày càng phát triển rộng khắp, nhất là ở khu vực ĐBSCL với các loại hình chăn nuôi ngày càng đa dạng hơn như : nuôi bè, nuôi ao hầm, nuôi đăng quầng,…trong đó loại hình nuôi cá tra-basa ao hầm phát triển nhất. Khi đó, mọi người lũ lượt kéo nhau đào ao nuôi cá, mọi người nuôi cá, nhà nhà nuôi cá, nông dân từ trồng lúa chuyển sang nuôi cá, những nhà kinh doanh hoặc người làm công ăn lương, cán bộ công nhân viên Nhà nước cũng tranh thủ làm thêm nghề phụ là chăn nuôi cá tra-basa. Ai có đất thì cứ thế mà đào ao nuôi cá, ai không có đất thì mua đất để đào ao nuôi cá. Nhưng không phải ai cũng có vốn để đầu tư cho loại hình chăn nuôi này, không kể những đại gia có sẵn vốn thì hầu hết người chăn nuôi cá tra-basa đều đi vay mượn để đào ao và chi phí thức ăn cho việc nuôi cá. Họ vay vốn dưới nhiều hình thức như : từ gia đình, bạn bè, những người cho vay nặng lãi, từ phía ngân hàng. Trong đó, vay vốn ngân hàng là hình thức được sử dụng nhiều nhất. Bảng 7 : Tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ trong hạn 723,268 659,782 839,723 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 69,995 50,383 90,280 + Các ngành khác 653,273 609,399 749,443 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ trong hạn 723,268 100% 659,782 100% 839,723 100% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 69,995 10% 50,383 8% 90,280 11% + Các ngành khác 653,273 90% 609,399 92% 749,443 89% Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng dư nợ trong hạn -63,486 -9% 116,455 16% 179,941 27% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa -19,612 -28% 20,285 29% 39,897 79% + Các ngành khác -43,874 -7% 96,170 15% 140,044 23% Qua bảng số liệu 7 cho thấy, tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa qua 03 năm đều tăng (năm 2006 giảm là do nguyên nhân đã nêu ở trên): năm 2007 tăng so với năm 2005 là 116.455 triệu đồng với tốc độ tăng là 16%, trong đó cho vay chăn nuôi cá tra-basa cũng tăng 20.285 triệu đồng với tốc độ tăng trưởng 29%. Từ đó cho thấy, tốc độ tăng dư nợ trong hạn của ngành nghề chăn nuôi cá tra-basa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dư nợ trong hạn chung và trong tất cả các ngành nghề khác thì tỷ trọng dư nợ của nó năm 2007 chiếm tới 11%/Tổng dư nợ trong hạn của NHCT Chi nhánh An Giang (năm 2005 là 10%/Tổng dư nợ trong hạn và năm 2006 là 8%/Tổng dư nợ trong hạn). Điều này là do năm 2007 là năm đạt được nhiều thắng lợi lớn trong ngành chăn nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra-basa. Trong bảng số liệu 5 cho thấy, cơ cấu dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa gồm dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung-dài hạn. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng dần (năm 2005 là 57.148 triệu đồng, năm 2006 là 45.801 triệu đồng và năm 2007 là 83.552 triệu đồng), còn dư nợ cho vay trung – dài hạn thì giảm dần (năm 2005 là 12.847 triệu đồng, năm 2006 là 4.582 triệu đồng và năm 2007 là 6.728 triệu đồng). Nguyên nhân của hiện tượng trên là do thị trường cá tra-basa là thị trường không ổn định, giá cả luôn luôn biến động nên việc cho vay trung – dài hạn đối với loại hình này sẽ mang lại rủi ro cao. Do vậy mà NHCT Chi nhánh An Giang đã hạn chế hình thức cho vay trung – dài hạn ở lĩnh vực này. Ngoài ra, đa số những món vay chăn nuôi cá tra-basa đều là những món vay ngắn hạn vì theo quy định thì “Thời hạn cho vay : là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc, lãi tiền vay và phí (nếu có) đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHCV và khách hàng, được xác định trên cơ sở chu kỳ sản suất kinh doanh của đối tượng vay”. Vì vậy, theo quy định trên thì cho vay chăn nuôi cá tra-basa thường có thời hạn từ 06 đến 09 tháng (do một chu kỳ nuôi cá tra-basa là 06 đến 09 tháng). Theo quy định thì trong 02 nguyên tắc vay vốn ngân hàng có nguyên tắc “sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Tuy nhiên, vì việc hạn chế cho vay trung – dài hạn nên các hộ chăn nuôi cá tra-basa đã vay ngắn hạn để đầu tư vào những máy móc thiết bị dùng cho chăn nuôi như : hệ thống điện bơm thức ăn, bơm nước ra vào hầm; tiền mua đất; chi phí cho việc đào hầm, cải tạo hầm, hệ thống xử lý nước thải,…đã làm phát sinh nợ quá hạn do sử dụng vốn vay không đúng mục đích. Bảng 8 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn 2,975 2,749 1,977 + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 259 197 + Các ngành khác 791 2,490 1,780 (Nguồn : Báo cáo hoạt động ngân hàng của CN. NHCT AG năm 2005- 2007) Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Dư nợ (Trđ) Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ quá hạn 2,975 100% 2,749 100% 1,977 100% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 2,184 73% 259 9% 197 10% + Các ngành khác 791 27% 2,490 91% 1,780 90% Chỉ tiêu 2006 so với 2005 2007 so với 2005 2007 so với 2006 Chênh lệch % Chênh lệch % Chênh lệch % Tổng dư nợ quá hạn -226 -7.6% -998 -34% -772 -28% + Cho vay chăn nuôi cá tra-basa -1,925 -88% -1,987 -91% -62 -24% + Các ngành khác 1,699 215% 989 125% -710 -29% Nhìn vào bảng số liệu 8 thì tình hình NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa diễn biến như sau : + Năm 2005, NQH là 2.184 triệu đồng, chiếm 73%/Tổng NQH. Thời điểm này, phát sinh NQH chủ yếu là NQH cho vay chăn nuôi cá bè của Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc. Nguyên nhân phát sinh NQH của NHCT Chi nhánh Châu Đốc là do trong năm 2004, ở thời điểm sắp thu hoạch cá thì cá bị dịch bệnh chết hàng loạt, nhiều người chăn nuôi bị thua lỗ thậm chí bị phá sản. Trong khi đó, ngân hàng lại nhận chính những nhà bè nuôi cá trên sông làm TSĐB nên khi gặp rủi ro ngân hàng phát mãi tài sản không được do không có người mua hoặc phát mãi được nhưng với giá trị rất thấp so với giá trị tại thời điểm cho vay (thường khoảng 30% so với thời điểm cho vay) nên phần NQH trên đến năm 2005 vẫn chưa thu hồi được. + Năm 2006, NQH chỉ còn 259 triệu đồng, chiếm 9%/Tổng NQH, giảm tới 1.925 triệu đồng so với năm 2005 tương ứng với tỷ lệ giảm là 88%. Nguyên nhân chính vẫn là do Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc tách ra khỏi NHCT Chi nhánh An Giang. Vì vậy mà phần NQH cho vay chăn nuôi cá bè của Chi nhánh NHCT Châu Đốc đã được chuyển về cho Chi nhánh Châu Đốc quản lý. + Năm 2007, NQH là 197 triệu đồng, chiếm 10%/Tổng NQH, giảm 62 triệu đồng so với năm 2006 tương ứng với tỷ lệ giảm là 24%. Năm 2007, cho vay chăn nuôi cá tra-basa chủ yếu là cho vay ngắn hạn, hạn chế áp dụng loại hình cho vay trung – dài hạn đối với ngành nghề này, nên NQH phát sinh một phần là do sử dụng vốn không đúng mục đích (sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào MMTB), một phần nữa là do tình hình thị trường cá tra-basa cũng còn nhiều biến động. Mặc dù năm 2007 là năm thắng lợi lớn của ngành chăn nuôi và chế biến xuất khẩu cá tra-basa nhưng trong năm cũng có những thời điểm thị trường biến động theo hướng bất lợi cho người chăn nuôi, những hộ nào có kinh nghiệm, có vốn, hiểu biết thị trường thì sẽ trụ được lâu dài, ngược lại sẽ bị lỗ thậm chí bị phá sản không trả được nợ vay ngân hàng. Mặc dù năm 2007 là năm xuất khẩu cá tra-basa gặp nhiều thuận lợi, nhiều ngư dân đã thắng lớn, tuy nhiên vẫn phát sinh NQH trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nhưng ở mức thấp và có khả năng thu hồi được là do ngân hàng đã đánh giá được phần nào rủi ro trong cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa nên đã áp dụng một số biện pháp hạn chế rủi ro và chỉ mở rộng cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa (tình hình xuất khẩu cá tra-basa ổn định hoặc phát triển thì ngân hàng mở rộng cho vay, ngược lại ngân hàng thu hẹp cho vay để hạn chế những rủi ro phát sinh) mà vẫn chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể nào dành riêng cho hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa. Bảng 9 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG 7,472,952 8,989,848 13,444,716 + Ngành thủy sản 559,117 618,287 1,157,993 * Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 475,249 525,540 810,595 (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh AG năm 2005, 2006 và 2007) Bảng 10 : Tình hình dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG. 475,249 525,540 810,595 + Chi nhánh NHCT An Giang 69,995 50,383 90,280 + Tỷ trọng 15% 10% 11% (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Trên đây là tình hình dư nợ cho vay trong hạn và dư nợ quá hạn của hoạt động cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang, nếu so với Tổng dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang thì dư nợ trong hạn cho vay hộ chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang chỉ chiếm một phần nhỏ (bảng số liệu 9 và 10). Cụ thể như sau : + Năm 2005, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 475.249 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 69.995 triệu đồng chiếm 15%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. + Năm 2006, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 525.540 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 50.383 triệu đồng chiếm 10%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. + Năm 2007, TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang là 810.595 triệu đồng, trong khi đó TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang là 90.280 triệu đồng chiếm 11%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang. Qua diễn biến tình hình dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang cho thấy : đối với một tỉnh có lợi thế về chăn nuôi cá tra-basa như hiện nay và dư nợ trong hạn cho vay ngành thủy sản trên địa bàn tỉnh An Giang chủ yếu là dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa thì dư nợ trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang – một trong những NHTMNN lớn trên địa bàn tỉnh An Giang – chiếm một tỷ trọng rất thấp (trung bình chỉ chiếm 12%/TDN trong hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang). Nguyên nhân là do NHCT Chi nhánh An Giang đã nhận thức được những rủi ro trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại Chi nhánh NHCT Châu Đốc nên kể từ năm 2006 điều kiện cho vay chăn nuôi hộ cá tra-basa có phần gắt gao hơn và hạn chế hơn, chủ yếu là cho vay theo xu hướng của thị trường cá tra-basa. Bảng 11 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của các TCTD trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn của các TCTD trên địa bàn tỉnh AG 225,000 223,000 176,000 + Ngành thủy sản 10,928 10,148 5,165 * Cho vay chăn nuôi cá tra-basa 9,288 8,625 4,132 (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Do tính rủi ro của ngành nghề cá tra-basa nên các ngân hàng rất thận trọng trong cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Qua bảng số liệu bảng 11 cho thấy trong Tổng NQH của ngành thủy sản thì đa số là NQH của loại hình cho vay chăn nuôi cá tra-basa. Tuy nhiên, NQH đối với cho vay chăn nuôi cá tra-basa đã giảm trong giai đoạn 2005 – 2007. Dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì tăng còn NQH thì giảm, một mặt do các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay chăn nuôi cá tra-basa, mặt khác do giai đoạn 2005 – 2007 là giai đoạn phát triển thuận lợi của con cá tra-basa nên hầu hết những người chăn nuôi đều thu được lợi. Bảng 12 : Tình hình dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT CN An Giang trên địa bàn tỉnh An Giang Đvt : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ quá hạn cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh AG 9,288 8,625 4,132 + Chi nhánh NHCT An Giang 2,184 259 197 + Tỷ trọng 24% 3% 5% (Nguồn : Báo cáo của NHNN tỉnh An Giang năm 2005, 2006 và 2007) Năm 2005, trong tổng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa trên địa bàn tỉnh An Giang thì NQH của NHCT Chi nhánh An Giang đã chiếm tới 24%. Nguyên nhân chính vẫn do NQH của Chi nhánh Châu Đốc – địa phương chăn nuôi cá tra-basa nhiều nhất của tỉnh An Giang. Năm 2006, tỷ trọng NQH cho vay chăn nuôi cá tra-basa tại NHCT Chi nhánh An Giang giảm xuống chỉ còn 3%/Tổng NQH trên địa bàn tỉnh An Giang nhưng đến năm 2007 NQH lại tăng lên 5%. Kết hợp với bảng số liệu 10 thấy được nguyên nhân của việc tăng NQH này là do dư nợ cho vay chăn nuôi cá tra-basa của NHCT Chi nhánh An Giang đã tăng lên. Như vậy, tăng số lượng cho vay chưa chú trọng nhiều đến chất lượng cho vay. Hiện nay, ngành thủy sản mà đặc biệt là chăn nuôi cá tra-basa (cá tra-basa: một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng quý giá) là một trong những thế mạnh của ĐBSCL nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng và được các nước trên thế giới biết đến, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam vừa gia nhập WTO thì việc mở rộng phát triển sản lượng cá t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docND luan van co chinh sua3.doc
Tài liệu liên quan