Luận văn Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 6

1.1. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế 6

1.2. Nhu cầu thu hút vốn và sự cần thiết đẩy mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng 19

1.3. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhà nước Việt Nam 24

1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 36

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ CÁC BIỆN PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 43

2.1. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài 43

2.2. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng 56

2.3. Tình hình thực hiện các biện pháp thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đà Nẵng 67

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 78

3.1. Quan điểm và định hướng tiếp tục tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng 78

3.2. Những giải pháp về quản lý nhà nước nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng 83

3.3. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp và tổ chức trong nước 98

KẾT LUẬN 107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108

PHỤ LỤC 112

 

doc112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4393 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n CNH, HĐH trên địa bàn cả nước nói chung và Đà Nẵng nói riêng (phụ lục 2). So sánh về quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trên phạm vi cả nước (phụ lục 3), ta thấy rằng, nguồn vốn FDI chủ yếu là từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc khu vực Châu Á. Đầu tư từ Mỹ, EU nhất là các nền kinh tế phát triển còn ít, chưa tương xứng với tiềm lực của các nước này. Như vậy, xét về quốc gia đầu tư, cơ cấu nguồn vốn của Đà Nẵng mang tính tiến bộ rõ rệt. 2.1.5. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng Phần lớn các dự án sau khi được cấp giấy phép đã nhanh chóng hoàn thành thủ tục hành chính, tiến hành xây dựng và đi vào vận hành sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp FDI trên địa bàn đều đã thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, trả tiền thuê đất, tuyển dụng lao động như đã được quy định trong giấy phép đầu tư. Một số doanh nghiệp gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh được chính quyền thành phố quan tâm hỗ trợ, giải quyết kịp thời. Nhìn chung, các dự án FDI được cấp phép đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng trong gần 10 năm qua, nhất là trong việc bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách và thu nhập cho người lao động. Sau đây sẽ phân tích riêng từng mảng. 2.1.5.1. Kim ngạch xuất khẩu - Thời kỳ 1997 - 2000: Bảng 2.7 cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tăng dần qua các năm, trừ năm 1999 kim ngạch xuất khẩu giảm nhẹ do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực; một số doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu cao phải tạm dừng hoạt động do không tìm được thị trường xuất khẩu hoặc bị các đối tác phá bỏ hợp đồng, một số doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ. Tính chung cả thời kỳ, giá trị xuất khẩu tương đối ổn định. Bảng 2.7. Một số kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Đà Nẵng thời kỳ 1997 - 2000 Kim ngạch XK (triệu USD) Nộp NSNN (triệu USD) Số lao động lũy kế (người) Năm 1997 55,00 4,31 8.650 Năm 1998 60,02 10,07 10.278 Năm 1999 52,20 8,73 9.940 Năm 2000 80,01 10,47 12.543 Tổng cộng 247,23 33,58 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ này đạt 247,23 triệu USD. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu không cao, bình quân mỗi năm xuất khẩu được 61,80 triệu USD/năm, nhưng trung bình kim ngạch xuất khẩu một dự án tương đối cao đạt 1,48 triệu USD/dự án; không những góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mà còn góp phần thu về một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách (bảng 2.7). - Thời kỳ 2001 - 2005: Bảng 2.8 cho thấy, kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này tăng liên tục, năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong 5 năm, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 393,92 triệu USD, bình quân mỗi năm xuất khẩu được 78,78 triệu USD, cao hơn thời kỳ 1997 - 2000; chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thành phố. Tuy nhiên, nếu tính trung bình mỗi dự án lại chỉ đạt 1,30 triệu USD, thấp hơn 12,4% so với thời kỳ 1997 - 2000. Bảng 2.8. Một số kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2005 Kim ngạch XK (triệu USD) Nộp NSNN (triệu USD) Số lao động lũy kế (người) Năm 2001 54,76 10,36 12.735 Năm 2002 66,35 10,71 15.588 Năm 2003 82,16 10,87 19.467 Năm 2004 85,25 11,00 20.500 Năm 2005 105,00 14,00 23.800 Tổng cộng 393,52 56,94 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 2.1.5.2. Nộp thuế - Thời kỳ 1997 - 2000: đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào ngân sách không ngừng tăng qua các năm, tổng thu ngân sách đạt 33,58 triệu USD (kể cả xuất, nhập khẩu), nộp ngân sách trung bình đạt 8,40 triệu USD/năm, thuộc mức cao so với các địa phương khác trong khu vực miền Trung và cả nước. - Thời kỳ 2001 - 2005: đóng góp vào ngân sách từ các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố ngày càng tăng, tổng thu ngân sách đạt 56,94 triệu USD (kể cả xuất nhập khẩu), tăng 69,6% so với thời kỳ 1997 - 2000; trung bình mỗi năm thu 11,38 triệu USD; tăng 35,5% so với thời kỳ 1997 - 2000. 2.1.5.3. Giải quyết việc làm - Thời kỳ 1997 - 2000: các doanh nghiệp FDI tích cực góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn thành phố và các tỉnh lân cận. Lượng lao động thu hút vào các doanh nghiệp FDI tăng qua các năm tuy chưa thật ổn định. Tính đến cuối năm 2000, có 12.543 lao động được giải quyết việc làm, riêng từ năm 1997 - 2000 giải quyết thêm được 4.343 lao động. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần giải quyết cho một số lao động thời vụ tham gia xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của các dự án (bảng 2.7). - Thời kỳ 2001 - 2005: giải quyết thêm 11.257 lao động, số lao động được giải quyết việc làm lũy kế đến cuối năm 2005 là 23.800 lao động chưa kể hàng chục ngàn lao động gián tiếp ở các ngành sản xuất phụ trợ, các ngành sản xuất phục vụ nguyên liệu, vật liệu cho các doanh nghiệp FDI, lao động thời vụ trong quá trình triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dự án đi vào hoạt động (bảng 2.8). Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI có mức lương tương đối cao và ổn định so với các khu vực khác, bình quân đạt 1,250 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, hầu hết các doanh nghiệp FDI đều ký hợp đồng lao động đảm bảo đúng pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp lao động, đình công vẫn còn xảy ra do công nhân phải làm việc quá giờ quy định, tăng ca thường xuyên, sức khỏe của người lao động không được đảm bảo. Bảng 2.9. Một số kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các dự án FDI năm 2005 theo ngành kinh tế trên địa bàn Đà Nẵng Ngành kinh tế Số lao động (người) Doanh thu (triệu USD) Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Nộp NSNN (triệu USD) Nông nghiệp 12 0,5 0,1 0,1 Công nghiệp, xây dựng 19.000 105,0 84,9 11,9 Du lịch, giao thông vận tải, bưu điện 4.000 33,0 20,0 2,0 Dịch vụ khác 788 7,0 Tổng số 23.800 145,5 105,0 14,0 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Nếu phân tích riêng năm 2005 theo ngành nghề (bảng 2.9) ta thấy, năm 2005 các doanh nghiệp FDI đều hoạt động ổn định và có bước phát triển mới, thông qua các chỉ tiêu chủ yếu về doanh thu, giá trị xuất khẩu, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và giải quyết việc làm cho người lao động đều tăng so với năm 2004. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số doanh nghiệp ngành may mặc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu do hạn chế về hạn ngạch vào hai thị trường lớn là Mỹ và EU. Đây cũng là tình trạng khó khăn chung của các doanh nghiệp ngành dệt may của cả nước. 2.2. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 2.2.1. Những tác động tích cực a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những kênh thu hút vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần tạo ra những nguồn lực mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đối với Đà Nẵng, thu hút FDI là yêu cầu khách quan, xuất phát từ cả hai khía cạnh: khả năng tận dụng lợi thế phát triển sẵn có của thành phố về tài nguyên, lao động, môi trường chính trị - xã hội ổn định và những ưu thế, cơ hội to lớn mà thời đại tạo ra về vốn, công nghệ - kỹ thuật, thị trường để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Đến nay, nguồn vốn này đã chiếm tỷ trọng khá trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nhờ nguồn vốn FDI, thành phố đã chủ động hơn trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, góp phần khai thác tích cực, có hiệu quả hơn các nguồn lực của thành phố để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Khu vực FDI đã hình thành và ngày càng phát triển, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và đóng góp tỷ lệ ngày càng tăng trong GDP, đến nay chiếm tỷ trọng gần 10% trong GDP (phụ lục 8). Vốn FDI đã tác động tích cực, góp phần vào tăng trưởng GDP cao và ổn định qua các năm; GDP thành phố tăng bình quân 11,4 % thời kỳ 1997 - 2006 là nhờ một phần đóng góp của vốn FDI. Khu vực FDI đã trở thành một trong ba khu vực kinh tế quan trọng có tỷ lệ đóng góp cao nhất vào GDP (cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân). Trong những năm đầu tiên sau khi chia tách, trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, trong điều kiện nguồn vốn đầu tư phát triển của thành phố còn thiếu thốn thì FDI với quy mô và cơ cấu như vậy đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển của thành phố. Mức vốn FDI thực hiện tăng qua các năm có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, tạo điều kiện để nền kinh tế từng bước tiếp cận công nghệ hiện đại của thế giới. Nguồn vốn FDI chiếm khoảng 15% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển thời kỳ 2001 - 2005 (phụ lục 7). Hàng năm, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng trăm tỷ đồng, đã góp phần đáng kể trong cơ cấu thu ngân sách. Vốn FDI đã trở thành một trong những nguồn lực quan trọng, góp phần tích cực tạo động lực để thành phố chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra rất quyết liệt. b. FDI góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH thành phố; góp phần tích cực nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; tăng sức cạnh tranh cho nhiều sản phẩm, doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ Từ năm 1997 đến nay, FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực sản xuất, chế biến xuất khẩu, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có chất lượng cao, góp phần quan trọng thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GDP; tăng năng suất và trình độ công nghệ chung của nền kinh tế thành phố. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng; năm 2005 đạt doanh thu 105 triệu USD; giá trị xuất khẩu đạt 84,9 triệu USD; nộp ngân sách 11,9 triệu USD; tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp là 1.549 tỷ đồng, chiếm 18,1% toàn ngành công nghiệp, tốc độ tăng 19,4% so với năm 2004. Năm 2005, ngành dịch vụ đạt doanh thu 40 triệu USD, giá trị xuất khẩu 20 triệu USD, chiếm gần 50% giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; nộp ngân sách 2 triệu USD và giải quyết 4.788 lao động. Các doanh nghiệp có vốn FDI đã trang bị cho nền kinh tế thành phố những thiết bị, máy móc, công nghệ, dây chuyền sản xuất khá tiên tiến và hiện đại. Hầu hết thế hệ thiết bị đều mới hơn rất nhiều so với trong nước, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới, chất lượng cao và một số đạt tiêu chuẩn quốc tế. c. FDI góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để thành phố mở rộng hợp tác và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam khác thâm nhập, mở rộng thị trường ngoài nước. Hàng năm, mức độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước và những năm gần đây luôn xuất siêu (biểu đồ 2.3). Nếu năm 1997, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả năm trên địa bàn chỉ đạt 154,6 triệu, thì đến năm 2005 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 357,8 triệu USD, trong đó khu vực FDI đạt 105,0 triệu USD, chiếm 29,4%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng dần qua các năm. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chuyển dần từ nông sản và sơ chế sang sản phẩm công nghiệp và tinh chế, nhiều sản phẩm được xuất hiện trên thị trường quốc tế. Uớc năm 2006, khu vực FDI thực hiện đạt 115,1 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Giá trị kim ngạch xuất khẩu luôn lớn hơn kim ngạch nhập khẩu, nên khu vực FDI luôn xuất siêu, góp phần giữ vững cán cân thương mại quốc tế trên địa bàn. Mặt khác, các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực khách sạn, du lịch đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng xuất khẩu tại chỗ. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất đã tiếp cận được với nhiều khu vực thị trường trên thế giới. Biểu đồ 2.3. Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2006 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng. Đến nay, Đà Nẵng đã thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với 28 tỉnh, thành phố của 12 nước; có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ đã được cấp phép đầu tư tại Đà Nẵng, trong đó có một số tập đoàn, công ty lớn có tiềm lực về tài chính và công nghệ của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản như Công ty như Mabuchi Motor Việt Nam - Đà Nẵng (100% vốn đầu tư Nhật Bản), hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp và xuất, nhập khẩu các loại động cơ nhỏ, chi tiết của động cơ, cấp phép năm 2005 với tổng vốn đầu tư 39,9 triệu USD. d. FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý, trình độ tay nghề, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động; thúc đẩy cơ sở hạ tầng, dịch vụ của thành phố ngày càng phát triển hoàn chỉnh Nhờ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia quản lý và hợp tác với các doanh nghiệp FDI, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước và ở các doanh nghiệp thành phố đã tiếp cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm tốt về quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, phong cách làm việc của các nhà đầu tư, quản lý ở các nước phát triển. Đến nay, các doanh nghiệp FDI đã thu hút gần 25.000 lao động làm việc trực tiếp, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động gián tiếp khác trong các ngành sản xuất và hoạt động dịch vụ liên quan. Nhìn chung, số lao động này bước đầu đã học hỏi được tác phong làm việc kiểu công nghiệp, có kỷ luật, có kỹ năng, có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Nhờ sự có mặt của nhà đầu tư nước ngoài mà thành phố đã tập trung vốn nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, làm cho diện mạo thành phố ngày càng thay đổi. Hàng loạt dự án kết cấu hạ tầng được Trung ương và thành phố đầu tư như Cảng Tiên Sa, Cầu Tuyên Sơn, các KCN, các tuyến đường quốc lộ và đường nội thành, hệ thống bưu chính, viễn thông, điện, nước… để thu hút FDI. Từ hiệu ứng tác động của các công trình đầu tư đó, làm đòn bẩy kích thích kinh tế - xã hội thành phố phát triển. Nhiều dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, khu nghỉ mát ven biển, nhà hàng góp phần cải thiện cở sở hạ tầng dịch vụ của thành phố, thúc đẩy du lịch phát triển. đ. FDI tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp trong nước cùng với các doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết, hợp tác để phát triển. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nhanh tư duy kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam, tạo nên áp lực và sức cạnh tranh đáng kể cho các doanh nghiệp trong nước, giúp họ tự điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hiệu qủa quản lý kinh doanh, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đó là con đường duy nhất để tồn tại. Các doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất một số sản phẩm phụ trợ, thầu phụ (outsourcing) cho các doanh nghiệp FDI. Với việc tham gia hoạt động thầu phụ với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải tăng cường đổi mới quản lý, đổi mới thiết bị, tổ chức lại sản xuất kinh doanh, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này cũng phải được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Tóm lại, hoạt động FDI đã có những tác động tích cực đối với thành phố trên nhiều phương diện, từ kinh tế đến văn hoá, xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị đến giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, góp phần đáng kể vào những thành tựu mà thành phố đã đạt được trong thời gian qua. 2.2.2. Những tác động tiêu cực a. Một số dự án FDI trong lĩnh vực sản xuất đã gây ô nhiễm môi trường trầm trọng Tác động tiêu cực rõ nhất của các dự án FDI trong lĩnh vực sản xuất ở Đà Nẵng là gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp FDI do vi phạm về bảo vệ môi trường, đã bị chính quyền thành phố buộc phải đóng cửa, ngừng hoạt động vì không có những biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất. Vấn đề mâu thuẫn giữa tăng trưởng sản xuất công nghiệp, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao với sự ô nhiễm môi trường do sản xuất gây ra vẫn là bài toán nan giải đặt ra cho chính quyền Đà Nẵng. Điều này lại đặc biệt rõ nét trong hoạt động thu hút các dự án FDI trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Hoạt động FDI chủ yếu được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, chất thải có nhiều thành phần độc hại, nếu không được xử lý và kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra ô nhiễm môi trường và chi phí xã hội hiện tại và tương lai sẽ vô cùng lớn, làm giảm khả năng đạt tới mục tiêu phát triển bền vững. Theo Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường Đà Nẵng, hiện tại, Đà Nẵng có hai KCN có lượng nước thải lớn. Đó là KCN Hoà Khánh: 4500 m3 /ngày và Khu Công nghiệp Dịch vụ Thuỷ sản: 1000 m3/ngày. Đây là nguồn gây ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số điểm trên địa bàn thành phố. Kết quả quan trắc chất lượng nước thải của hai KCN này vượt tiêu chuẩn Việt Nam nhiều lần [37, tr.1]. Ngoài ra, các doanh nghiệp nói chung trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp hàng năm thải ra 7000 - 8000 tấn rác. Trong khi đó, khả năng thu gom của các đơn vị hiện tại chỉ được khoảng 5000 tấn, trung bình một doanh nghiệp thải 20 tấn/ngày, lượng rác thực tế thu gom được khoảng 14 tấn/ngày. Các công nghệ đang sử dụng trong chế biến rác chưa thực hiện được việc tách các chất thải rắn nói chung và chất thải rắn nguy hại, mà vẫn gom chung với các chất thải thông thường. Dù chưa điều tra cụ thể, nhưng có thể khẳng định cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp FDI đều tham gia việc thải chất rắn độc hại ra môi trường [37]. Ngoài những tác động gây ô nhiễm môi trường trực tiếp qua hoạt động sản xuất, việc chuyển giao công nghệ lạc hậu cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường, tuy mức độ ảnh hưởng không lớn, nhưng cũng là vấn đề cần được quan tâm, trong đó đặc biệt chú ý các ngành bia rượu, giấy bao bì, dệt may trình độ công nghệ thấp hơn trình độ chung của ngành (phụ lục 9). b. FDI tạo sự cạnh tranh không bình đẳng đối với một số doanh nghịêp trong nước FDI đã tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, lành mạnh đối với các doanh nghiệp địa phương cùng sản xuất một mặt hàng. Có trường hợp, thành phố đã phải chuyển nhượng luôn phần vốn góp của đối tác trong nước cho đối tác nước ngoài trong liên doanh như Nhà máy Bia Sông Hàn đã phải bán cho Công ty Bia Fosters’ của Australia do sản phẩm bia của địa phương không cạnh tranh được trên thị trường. Có thể nói, trong thời gian qua, tác động tiêu cực của FDI đối với doanh nghiệp trong nước thông qua việc cạnh tranh chưa nhiều; nhưng đang có xu hướng tăng cạnh tranh trong thời gian tới. Những doanh nghiệp FDI, nhất là những công ty xuyên quốc gia có ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, quản lý sản xuất gây sức ép cạnh tranh đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của những doanh nghiệp trong nước. Nhiều trường hợp, hàng hóa và dịch vụ của công ty xuyên quốc gia lấn át, dẫn đến doanh nghiệp trong nước mất dần thị trường, dễ lâm vào tình trạng phá sản. Nhiều ngành sản xuất mới trong nước khó có thể cạnh tranh được với các công ty xuyên quốc gia, do vậy, sẽ bị ảnh hưởng trong quá trình phát triển. Trong thời gian qua, ở thành phố Đà Nẵng đã có nhiều doanh nghiệp trong nước rất khó khăn khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI. Nhất là các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến bia, nước giải khát. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp đã phải phá sản, hoặc phải bán lại cho doanh nghiệp nước ngoài như Công ty bia Sông Hàn đã nêu trên. c. Vấn đề chuyển giá và hạch toán lỗ của một số doanh nghiệp FDI Đối với một số doanh nghiệp FDI theo hình thức liên doanh, phía đối tác nước ngoài dùng nhiều thủ đoạn nâng cao giá thành sản phẩm thông qua các hoạt động như quảng cáo, mua nguyên vật liệu từ nước ngoài, dẫn đến tình trạng thua lỗ giả và làm giảm tỷ lệ phần vốn góp của phía Việt Nam trong liên doanh (thường chỉ là 30% bằng quyền sử dụng đất). Do đó, hoặc là phía Việt Nam phải tăng vốn góp hoặc là phải chuyển nhượng phần góp vốn của mình cho phía đối tác nước ngoài, từ đó chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, gây nên thất thoát trong quản lý kinh tế. Vấn đề này còn gọi là chuyển giá (transfering price). Chuyển giá là những giao dịch về giá ẩn bên trong giao dịch giữa các công ty mẹ và các chi nhánh công ty con [56]. Những giao dịch về giá này được thực hiện dựa trên những tính toán bên trong của các công ty xuyên quốc gia và giá của những giao dịch này không phản ánh đúng giá trị thị trường. Các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng chuyển giá như là một biện pháp để hạch toán lãi thành lỗ, lãi nhiều thành lãi ít, nhằm mục đích cuối cùng là thôn tính sở hữu đối với bên liên doanh trong nước, tránh đánh thuế chuyển lợi nhuận, thuế nhập khẩu và kiểm soát tỷ giá. Tác hại của lợi dụng chuyển giá không chỉ thiệt hại về mặt kinh tế mà còn tạo ra cạnh tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Theo số liệu của Cục Thuế Đà Nẵng, trong 6 tháng đầu năm 2006, trong số trên 87 doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố được cấp mã số thuế, doanh nghiệp có lãi chỉ chiếm 35% (cả nước khoảng 31%), số thuế thu nhập doanh nghiệp FDI là 13 tỷ đồng đóng góp cho ngân sách, chiếm 10,19% tổng thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp toàn thành phố (130,52 tỷ). So với tỷ lệ doanh thu, tổng nộp ngân sách ta thấy rõ là tỷ lệ thu nhập doanh nghiệp (lãi) của các doanh nghiệp FDI là quá thấp, có yếu tố giả tạo do chuyển giá. Một điều đáng lưu ý là, ở Đà Nẵng xu thế chuyển từ doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng gia tăng (64,4% doanh nghiệp 100%; 31,8% doanh nghiệp liên doanh; năm 1997: 34% doanh nghiệp 100%, 64% doanh nghiệp liên doanh) [13]. Việc thực hiện chuyển giá gây thiệt hại kép cho phía Việt Nam. Để chống hiện tượng chuyển giá, nghiệp vụ của cơ quan tài chính và cơ quan thuế phải rất cao trong giám sát doanh nghiệp. Trong khi đó, Sở Tài chính và Cục Thuế Đà Nẵng chưa có điều kiện để điều tra, xác minh, tiến hành phân tích, xác định thực tế giao dịch liên kết và rủi ro về gian lận qua chuyển nhượng. Việc phân tích phải bao gồm cả thu thập các thông tin về bên nước ngoài và về kinh tế ngành. Nhưng ở cấp địa phương, khó có thể tiến hành xác minh được vấn đề này, do thiếu trình độ, kinh phí, phân cấp về thẩm quyền; hơn nữa, nhiều quốc gia chưa có hiệp định về thuế quan với Việt Nam [13]. d. FDI góp phần tạo nên một số vấn đề xã hội mới Điểm khác biệt so với các doanh nghiệp trong nước là thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp FDI có sự chênh lệch rất cao giữa người quản lý và người lao động trực tiếp. Thu nhập của người làm việc trong các doanh nghiệp FDI cũng cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước cùng loại, tạo ra sự phân biệt về thu nhập, đời sống giữa các tầng lớp trong xã hội. Trên thực tế, hiện tượng "chảy máu chất xám" đã khá phát triển. Khu vực FDI có xu hướng thu hút nhân lực giỏi từ khu vực doanh nghiệp trong nước và cơ quan quản lý nhà nước. Ngược lại, một số chủ doanh nghiệp đối xử bất công, xúc phạm nhân phẩm đối với người lao động, làm phát sinh những mâu thuẫn, hành động phản kháng của công nhân Việt Nam như xô xát, đình công, lãn công, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhà đầu tư và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên nhân đình công tập trung chủ yếu là do các doanh nghiệp FDI này huy động làm thêm giờ quá quy định, nhưng không báo trước, trả lương thấp, chậm trả nợ lương, định mức lao động quá cao, phạt người lao động bằng tiền không thoả đáng; khi tranh chấp xảy ra, thì người lao động thiếu am hiểu pháp luật để có thể tiến hành đấu tranh một cách có phương pháp trên cơ sở những quy định pháp luật hiện hành; tổ chức công đoàn và các đoàn thể khác ở các doanh nghiệp này yếu, có doanh nghiệp không có tổ chức công đoàn, dẫn đến thiếu đại diện và tổ chức hướng dẫn người lao động đấu tranh trong khuôn khổ luật pháp. Một số doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, nhưng cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trực tiếp trả lương, sợ ảnh hưởng đến công ăn, việc làm nên không dám đấu tranh bảo vệ lợi ích người lao động. Nhiều doanh nghiệp FDI, đặc biệt là doanh nghiệp các ngành dệt may, giày da thường sử dụng nhiều lao động, mà nguồn lao động chủ yếu từ vùng nông thôn. Do vậy một bộ phận dân cư từ nông thôn của thành phố (thường không lớn), và một lượng lớn lao động từ các tỉnh lân cận đổ về Đà Nẵng, gây nên sức ép rất lớn về chỗ ở, học hành, chữa bệnh, an ninh trật tự xã hội. Đây vừa là vấn đề phát sinh từ CNH, từ phát triển FDI, vừa là thách thức trong tương lai đối với chính quyền Đà Nẵng [34]. 2.2.3. Đánh giá chung tình hình thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng Đánh giá tổng thể, trong những năm qua, vốn FDI ở Đà Nẵng đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVANTHACSIKINHTE2.doc
  • docbia moi.doc
Tài liệu liên quan