LỜI MỞ ĐẦU .1
CHưƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM.6
1.1 Khái quát về trách nhiệm sản phẩm. 6
1.1.1 Khái niệm sản phẩm.6
1.1.2. Khái niệm khuyết tật sản phẩm .7
1.1.3 Khái niệm trách nhiệm sản phẩm.10
1.2. Pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về trách nhiệm sản phẩm . 15
1.2.1. Lịch sử hình thành pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong hệ thống luật
Anh - Mỹ (Common Law) .15
1.2.2 Lịch sử hình thành pháp luật trách nhiệm sản phẩm trong hệ thống luật
Châu Âu lục địa (Civil law) .21
1.2.3 Quy định về trách nhiệm sản phẩm của một số nước ASEAN .27
CHưƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM Ở VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH THỰC THI TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP .37
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm sản phẩm tại Việt Nam hiện nay . 37
2.1.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm sản phẩm .39
2.1.2 Các cơ chế hiện hành giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm
sản phẩm.45
2.2. Tình hình thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay . 52
2.2.1 Đánh giá mức độ tuân thủ trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay .52
104 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những vấn đề pháp lý về trách nhiệm sản phẩm: thực tiễn và khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên
thế giới, việc thừa nhận nguyên tắc này được xem là một điểm tiến bộ trong pháp
luật Việt Nam. Để thực hiện nguyên tắc này, người tiêu dùng sẽ phải có nghĩa vụ
chứng minh để phù hợp quy định của pháp luật. Các Điều 25, 26, 42 Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về nghĩa vụ chứng minh của các bên.
Với ba điều luật này phát sinh nhiều điểm bất hợp lý nếu như trong thực tế áp dụng
vào các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm sản phẩm. Theo đó, khoản 2 Điều 25 có
quy định: “Người tiêu dùng, tổ chức xã hội có nghĩa vụ cung cấp thông tin, bằng
chứng có liên quan đến hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ”. Ngoài ra, khoản 1 Điều 26 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 có quy định: “Khi nhận được yêu cầu của người tiêu dùng, cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu
các bên giải trình, cung cấp thông tin, bằng chứng hoặc tự mình xác minh, thu thập
thông tin, bằng chứng để xử lý theo quy định của pháp luật”. Với những quy định
8
Chỉ thị 85/374/EEC
42
này, cơ quan quản lý sẽ yêu cầu bên thiệt hại cung cấp chứng cứ liên quan đến hành
vi vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Việc này đồng nghĩa
với việc nghĩa vụ chứng minh của người tiêu dùng liên quan đến cả việc chứng
minh lỗi của nhà sản xuất. Khoản 1 Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 có quy định: “Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ”. Với cách quy định này, người tiêu dùng chỉ phải chứng
minh thiệt hại, khuyết tật và mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật. Việc
chứng minh không có lỗi lại thuộc nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Ngoài ra, với khái niệm rủi ro phát triển, Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 có quy định điều khoản miễn trừ trách nhiệm và nội dung điều
luật phản ánh được tinh thần của khái niệm này. Theo quy định tại Điều 24 của Luật
này, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá và dịch vụ được miễn trừ trách nhiệm
bồi thường khi chứng minh được “khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện
được với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa cung cấp cho người tiêu dùng”. Có thể thấy được rằng, quy định này gần giống
với bản Chỉ thị số 85/374/EEC khi dựa vào trình độ khoa học kỹ thuật để đưa ra yếu
tố loại trừ trách nhiệm. Những quy định trên của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 dẫn đến những khó khăn và phức tạp trong việc áp dụng trong thực
tiễn liên quan đến sản phẩm khuyết tật.
Thứ nhất, theo quy định, cơ quan nhận chứng cứ từ người tiêu dùng có bao
gồm việc chứng minh vi phạm của tổ chức hay không? Nếu bao gồm cả việc chứng
minh vi phạm thì Điều 42 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 không
còn ý nghĩa khi đưa ra quy định người tiêu dùng không cần chứng minh lỗi của nhà
sản xuất. Bởi lẽ, ngay từ giai đoạn đầu tiên lúc khởi kiện, người tiêu dùng đã gặp
khó khăn và trở ngại khi chứng minh vi phạm, đặc biệt là lỗi của nhà sản xuất.
Trong thực tiễn gần đây đã có rất nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng với quy trình
tố tụng như trên đã gây trở ngại rất lớn cho người tiêu dùng. Ví dụ như vụ việc nhãn
hàng C2, ngày 31/5/2016, 1184 thùng C2 tương đương với 10 tấn sản phẩm vừa bị
thu hồi bởi quyết định của Thanh tra Bộ Y tế do hàm lượng chì trong nước giải khát
43
này vượt quá mức cho phép. Theo các chuyên gia y tế, nếu lượng chì ngấm
1mg/ngày trong vòng 1 tháng thì bệnh bắt đầu trông thấy là “lợi” đen, thay đổi vị
giác và nguy hiểm đến tính mạng. Nếu như người tiêu dùng thông thường thì không
thể nào đủ tiềm lực để cung cấp chứng cứ về việc vi phạm của tổ chức được. Nói
cách khác, người tiêu dùng phải chứng minh việc hàm lượng chì quá mức cho phép
trong sản phẩm C2 của nhà sản xuất URC tại Hà Nội và việc này tốn rất nhiều thời
gian và tiền bạc của họ. Cho nên chưa có một tiền lệ hay một nguyên tắc nào để một
cá nhân khởi kiện trong trường hợp này và quyền lợi người tiêu dùng vẫn bị vi
phạm hằng ngày mà chưa có một cơ chế bảo vệ hữu hiệu.
Thứ hai, so sánh với pháp luật châu Âu, bản Chỉ thị số 85/374/EEC có quy
định dựa theo nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt kèm với quy định không quan
tâm đến việc nhà sản xuất có lỗi hay không. Trái lại, với pháp luật Việt Nam dường
như có sự pha trộn giữa nguyên tắc trách nhiệm nghiêm ngặt và trách nhiệm dựa
vào lỗi. Nói cách khác, theo quy định tại Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010, không quan trọng nhà sản xuất hay kinh doanh có lỗi hay không
nhưng trong Điều 42 của Luật này thì yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh phải chứng
minh mình không có lỗi. Với cách quy định như vậy rất khó khăn trong việc xem
xét chứng cứ của các bên trong vụ việc liên quan đến sản phẩm khuyết tật.
Thứ ba, khi phân tích kỹ về mặt nội dung rủi ro phát triển, điều luật này khác
với bản Chị thị số 85/374/EEC. Theo đó, việc chứng minh trình độ khoa học kỹ
thuật trong pháp luật Việt Nam phụ thuộc ý chí chủ quan của nhà sản xuất. Nếu như
bản Chỉ thị 85/374/EEC sử dụng cụm từ “được phát hiện” nhằm nhấn mạnh kiến
thức để nhận biết khuyết tật và không chỉ ra chủ thể nào phát hiện, thì pháp luật
Việt Nam lại hướng đến việc cá nhân, tổ chức kinh doanh sản phẩm phát hiện
khuyết tật. Nói cách khác, bản Chỉ thị này đưa ra tình trạng khách quan của khoa
học kỹ thuật khi phát hiện ra khuyết tật còn Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 hướng đến việc chứng minh mang tính chủ quan của bị đơn. Điều này
dẫn đến tình trạng nhà sản xuất sẽ dựa vào kiến thức chủ quan của mình để chứng
minh không có lỗi đối với sản phẩm có khuyết tật và quyền lợi người tiêu dùng sẽ
không được đảm bảo một cách hiệu quả.
44
Tuy nhiên, hiệu lực thực tế của luật còn phụ thuộc khá nhiều vào các văn bản
dưới luật. Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27-10-2011 về “Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ người tiêu dùng” đã được ban
hành. Đối với hàng hóa có khuyết tật, Nghị định cũng quy định rõ khi phát hiện
hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hoá có trách
nhiệm kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc cung cấp hàng hóa
có khuyết tật trên thị trường. Đồng thời, cá nhân, tổ chức này phải thông báo công
khai về việc thu hồi hàng hóa và tiến hành thu hồi theo nội dung đã thông báo công
khai. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không
biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp được miễn
trách nhiệm khi chứng minh được khuyết tật của hàng hoá không thể phát hiện được
với trình độ khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá
cung cấp cho người tiêu dùng. Qua đó có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam
đã tiếp cận được nhiều nội dung tiến bộ, cụ thể và sát với thực tiễn hơn so với các
văn bản luật đã ban hành trước đó.
Như vậy, Bộ luật Dân sự, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng cùng với một số luật khác đã xác định trách nhiệm của
nhà cung cấp trong việc cung cấp cho người mua sản phẩm không có khiếm khuyết,
các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với người bán, người cung ứng sản phẩm
khiếm khuyết. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định chính
sách bảo vệ người tiêu dùng của nhà nước. Tuy nhiên, những quy định này chưa thể
tạo thành chế định trách nhiệm sản phẩm do không được xây dựng dựa trên các nền
tảng của chế định trách nhiệm sản phẩm và do tiếp cận chủ yếu từ góc độ quản lý
ngành, lĩnh vực. Các quy định hiện hành mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban đầu
đến chế định trách nhiệm sản phẩm, mà chưa thể là một công cụ pháp lý bảo vệ
người tiêu dùng. Khi áp dụng chế độ trách nhiệm sản phẩm dựa vào yếu tố lỗi của
nhà sản xuất thì quy định này gây rất nhiều khó khăn cho người tiêu dùng khi khởi
kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, khi có thiệt hại do sản phẩm khiếm
khuyết gây ra thì người tiêu dùng Việt Nam vẫn khó thực hiện quyền được khởi
45
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách hiệu quả. Ngoài ra, sự tồn tại của nhiều
quy định về trách nhiệm sản phẩm như hiện nay cũng gây ra sự tản mạn, chồng
chéo và thậm chí là mâu thuẫn trong hệ thống các quy định pháp luật, khiến cho
mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng chưa thực sự hữu hiệu.
2.1.2 Các cơ c ện n ả quy t tran c ấp l ên quan đ n trác
n ệm sản p ẩm
2.1.2.1 Về thủ tục đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến trách nhiệm sản
phẩm
Một trong những nội dung đáng chú ý của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 là quy định người tiêu dùng không có nghĩa vụ phải chứng minh lỗi
sản phẩm. Cụ thể, Điều 42 của Luật quy định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân
sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nhưng việc quy định người tiêu dùng
không có nghĩa vụ chứng minh lỗi trong vụ án dân sự không có nghĩa là miễn trừ tất
cả nghĩa vụ chứng minh của người tiêu dùng. Để thực hiện việc khởi kiện, người
tiêu dùng vẫn phải chứng minh thiệt hại, cung cấp chứng cứ về thiệt hại cũng như
hành vi gây ra thiệt hại mà không cần phải chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây ra thiệt hại đó. Quy định này xuất phát từ vị trí
yếu thế của người tiêu dùng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm chính là khuyết tật
sản phẩm và thiệt hại đã xảy ra. Ở đây, người tiêu dùng không cần chứng minh lỗi
này, mà nghĩa vụ chứng minh mình có lỗi hay không là ở phía các nhà sản xuất, nhà
cung ứng nếu họ muốn miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định căn cứ, dựa trên đó xác định khuyết tật sản phẩm là yếu tố vô
cùng quan trọng để xác định trách nhiệm nghiêm ngặt. Một sản phẩm bị coi là có
khuyết tật khi sản phẩm đó không đảm bảo an toàn ở mức độ mà người ta có thể
trông chờ được một cách hợp lí. Tuy nhiên, Điều 24 Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 có ghi nhận quyền miễn trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong
trường hợp khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện với trình độ khoa học - kỹ
thuật tại thời điểm cung cấp hàng hóa tương tự như điểm đ khoản 1 và điểm đ
khoản 2 Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và phù hợp với
46
tinh thần của Chỉ thị 85/374/EEC. Như vậy, trong tình huống này, người tiêu dùng
rơi vào tình thế bất lợi nếu như khi mua hàng hóa mà không biết rằng sản phẩm thụ
hưởng đó có thể hay không thể phát hiện khuyết tật. Nghị định số 99/2011/NĐ-CP
ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng không đề cập tới một trình tự hoặc
phương thức rõ ràng để làm rõ nội hàm cụm từ “không thể phát hiện với trình độ
khoa học - kỹ thuật tại thời điểm cung cấp hàng hóa”. Quy định không có hướng
dẫn cụ thể như vậy, một lần nữa lại đặt người tiêu dùng vào vị thế bị động, có thể
gặp rủi ro khi tiếp nhận hàng hóa do bản thân bị hạn chế không đủ năng lực để tự
kiểm chứng.
Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, bồi thường thiệt hại và xử lý vi
phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quy định tại Chương V
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, từ Ðiều 54 đến Ðiều 67. Theo quy định của
Luật này, tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa bao gồm: Tranh chấp giữa
người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa các thương nhân với
nhau do sản phẩm, hàng hóa không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất lượng trong hợp đồng; tranh chấp
giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và các bên có liên
quan do sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người,
động vật, thực vật, tài sản, môi trường. Có ba hình thức giải quyết tranh chấp là
thương lượng giữa các bên tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hòa giải
giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn
làm trung gian; giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án. Thủ tục giải quyết tranh chấp về
chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại trọng tài hoặc tòa án được tiến hành theo quy
định của pháp luật về tố tụng trọng tài hoặc tố tụng dân sự.
2.1.2.2 Về thời hiệu khiếu nại, khởi kiện
Về thời hiệu khiếu nại, khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật quy
định, giữa người mua với người bán hàng được thực hiện theo quy định của Bộ luật
Dân sự; giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo quy
định của Luật Thương mại. Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường do sản
47
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực
vật, tài sản, môi trường là hai năm, kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt
hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có
ghi hạn sử dụng và năm năm kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa
không ghi hạn sử dụng.
Ðể giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cơ quan tổ chức
giải quyết tranh chấp chỉ định hoặc các bên đương sự thỏa thuận đề nghị cơ quan, tổ
chức có chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện việc kiểm tra, thử nghiệm, giám định sản
phẩm, hàng hóa tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Căn cứ kiểm tra, thử
nghiệm, giám định gồm: Thỏa thuận về chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong hợp
đồng; Tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng đối với sản
phẩm, hàng hóa. Chi phí lấy mẫu và thử nghiệm hoặc giám định chất lượng sản
phẩm, hàng hóa tranh chấp do người khiếu nại, khởi kiện phải chi trả. Trong trường
hợp kết quả thử nghiệm hoặc giám định khẳng định tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải trả lại chi phí lấy mẫu và thử nghiệm
hoặc giám định cho người khiếu nại, khởi kiện.
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, Luật quy định thiệt hại do vi phạm quy
định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.
Thiệt hại được bồi thường là: Thiệt hại về giá trị hàng hóa, tài sản bị hư hỏng hoặc
bị hủy hoại; thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người; thiệt hại về lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác hàng hóa, tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
và khắc phục thiệt hại.
Người sản xuất, người nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại cho người bán
hàng hoặc người tiêu dùng khi hàng hóa gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất,
người nhập khẩu không bảo đảm chất lượng hàng hóa, trừ các trường hợp Luật quy
định không phải bồi thường (khoản 1 Ðiều 62 Luật này). Việc bồi thường thiệt hại
được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của
tòa án hoặc trọng tài. Người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua,
người tiêu dùng trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng
48
không bảo đảm chất lượng hàng hóa, trừ các trường hợp Luật quy định không phải
bồi thường (khoản 2 Ðiều 62 của Luật này). Việc bồi thường thiệt hại được thực
hiện theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của tòa án hoặc
trọng tài.
Luật cũng quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức đánh giá sự
phù hợp khi cung cấp kết quả sai thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho tổ chức,
cá nhân yêu cầu đánh giá sự phù hợp theo quy định của pháp luật về dân sự. Tổ
chức, cá nhân có sản phẩm, hàng hóa được đánh giá sự phù hợp có nghĩa vụ chứng
minh kết quả sai và lỗi của tổ chức đánh giá sự phù hợp nói trên.
Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền về quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền mà tổ chức, cá nhân cho là trái pháp luật hoặc về hành vi xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng
hóa. Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền về
hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của cơ quan, tổ chức,
cá nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Luật cũng quy định tổ chức, cá nhân chịu trách
nhiệm về khiếu nại, tố cáo của mình.
Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có trách
nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng
sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật. Tổ chức vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành
chính đối với các vi phạm nói trên được ấn định ít nhất bằng giá trị sản phẩm, hàng
hóa vi phạm đã tiêu thụ và nhiều nhất không quá năm lần giá trị hàng hóa vi phạm
đã tiêu thụ; tiền do vi phạm mà có sẽ bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
49
Tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
tại tòa án về quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chất lượng
sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính.
Do tính cấp thiết của vấn đề xây dựng pháp luật trách nhiệm sản phẩm, một mặt
là để bảo vệ người tiêu dùng trong nước, mặt khác là để tạo lập cơ sở cho các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tránh các vụ đòi bồi thường không thỏa đáng, một
số quy định về trách nhiệm sản phẩm đã được quy định trong Luật Bảo vệ người tiêu
dùng, Khoản 6, Điều 7 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: “Yêu cầu bồi thường
thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất
lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết”.
Theo quy định này, việc nhà sản xuất phải có trách nhiệm về sản phẩm của mình đã
được ghi nhận và bảo đảm.
Cũng tương tự như luật trách nhiệm sản phẩm của các quốc gia khác, Luật
Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam coi người tiêu dùng ở vị trí thế yếu so với nhà sản
xuất kinh doanh nên các quy định trong luật này đều hướng tới việc bảo vệ tối đa lợi
ích của người tiêu dùng thông qua những quy định pháp luật và sự can thiệp của
Nhà nước. Luật Bảo vệ người tiêu dùng đã đưa ra những điều khoản giúp bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng trong suốt qua trình từ khi ký hợp đồng đến quá trình
mua bán và cả trách nhiệm bảo hành của người sản xuất kinh doanh với sản phẩm
sau khi hoàn tất hợp đồng.
Ngoài ra, để đảm bảo sự bình đẳng giữa người tiêu dùng và người sản xuất
kinh doanh, tránh việc người tiêu dùng lợi dụng những quy định của luật để khiếu
kiện đòi bồi thường không thỏa đáng thì Luật cũng quy định thời hiệu khiếu nại và
những trường hợp miễn trách cụ thể cho người sản xuất kinh doanh.
Như vậy, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng, gây thiệt hại cho
người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam tương tự như chế độ trách nhiệm sản
phẩm dựa vào yếu tố lỗi của nhà sản xuất theo pháp luật của một số nước phát triển.
50
Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định chính sách bảo vệ người
tiêu dùng của nhà nước.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã dành 3 điều tại Chương II để quy
định về trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật (Điều 22), trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật (Điều 23) và miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra (điều 24). Cụ thể các quy định này
như sau:
2.1.2.3 Về trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật
Khi phát hiện hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu
hàng hóa có trách nhiệm kịp thời tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngừng việc
cung cấp hàng hóa có khuyết tật trên thị trường; thông báo công khai về hàng hóa
có khuyết tật và việc thu hồi hàng hóa đó ít nhất 05 số liên tiếp trên báo ngày hoặc
05 ngày liên tiếp trên đài phát thanh, truyền hình tại địa phương mà hàng hóa đó
được lưu thông (với các nội dung: mô tả hàng hóa phải thu hồi; lý do thu hồi hàng
hóa và cảnh báo nguy cơ thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra; thời gian, địa
điểm, phương thức thu hồi hàng hóa; thời gian, phương thức khắc phục khuyết tật
của hàng hóa; các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá
trình thu hồi hàng hóa); thực hiện việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật đúng nội dung
đã thông báo công khai và chịu các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi; báo
cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp
tỉnh nơi thực hiện thu hồi hàng hóa có khuyết tật sau khi hoàn thành việc thu hồi và
nếu trường hợp việc thu hồi hàng hóa có khuyết tật được tiến hành trên địa bàn từ
hai tỉnh trở lên thì báo cáo kết quả cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng ở trung ương.
2.1.2.4 Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra:
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không
biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp miễn trách
nhiệm được quy định tại Điều 24 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
51
2010. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa ở đây được hiểu bao gồm: Tổ chức, cá
nhân sản xuất hàng hóa; Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa; Tổ chức, cá nhân
gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại cho
phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa; Tổ chức, cá
nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa có khuyết tật cho người tiêu dùng trong trường
hợp không xác định được tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy
định. Bên cạnh đó, Điều 23 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
cũng quy định việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật
về dân sự.
2.1.2.5 Về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây
ra
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa quy định tại Điều 23 của Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi
chứng minh được khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ
khoa học, kỹ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa cung cấp cho
người tiêu dùng. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ ghi nhận duy nhất một
trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường liên quan đến hàng hóa có khuyết tật
và trách nhiệm chứng minh này do tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện.
Đánh giá pháp luật hiện hành về cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm sản phẩm có thể thấy rằng:
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự đã có những quy định mang tính nguyên tắc chung
trong hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia
hoạt động mua bán hàng hóa. Pháp luật còn quy định cả trong trường hợp người gây
thiệt hại phải bồi thường trong trường hợp không có lỗi (Điều 608, Bộ luật Dân sự).
Với quy định này, Bộ luật Dân sự đã mở đường cho sự ra đời và phát triển của chế
định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa đối với chất
lượng sản phẩm, hàng hóa mà không áp dụng cho trách nhiệm do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng nói chung.
Thứ hai, khi áp dụng chế độ trách nhiệm sản phẩm dựa vào yếu tố lỗi của nhà
sản xuất thì quy định này đang gây rất nhiều khó khăn cho người tiêu dùng khi khởi
52
kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, khi có thiệt hại do sản phẩm khiếm
khuyết gây ra thì người tiêu dùng Việt Nam vẫn khó thực hiện quyền được khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại một cách hiệu quả.
2.2. Tình hình thực thi pháp luật trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay
2.2.1 Đán á mức độ tuân t ủ trác n ệm sản p ẩm của doan n ệp
V ệt Nam ện nay
Trong những năm qua, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự thay đổi đáng ghi
nhận về mặt nhận thức đối với vấn đề trách nhiệm sản phẩm, chuy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nhung_van_de_phap_ly_ve_trach_nhiem_san_pham_thuc_t.pdf