Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TỪ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 5

1.1. Sự ra đời và tình hình hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần 5

1.2. Những rào cản và những vấn đề đặt ra sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại Đà Nẵng 29

Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 49

2.1. Phương hướng khắc phục những tồn tại, vướng mắc 49

2.2. Một số giải pháp khắc phục những tồn tại sau cổ phần hoá ở các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến 51

KẾT LUẬN 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

 

 

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2484 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thêm quyền làm chủ với tư cách là cổ đông còn đang rất là mới mẻ, nhiều người chưa hình dung thực chất ra sao, liệu DN có khá lên hay khó khăn hơn, trong khi chính sách, quan niệm đang biểu hiện đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, đối với người lao động bỏ vốn đầu tư mua cổ phần trong khi nhiều nhu cầu chi tiêu khác của mỗi gia đình đang thôi thúc hàng ngày và “sức ỳ” của nếp sống làm việc trong DNNN có lẽ là khó khăn chủ yếu khi chuyển sang cổ phần hoá DNNN. - Sự chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo địa phương thiếu sự đồng bộ và kiên quyết khi tiến hành CPH: Sự không thống nhất trong chính sách về CPH DNNN cùng với thiếu kiểm tra, giám sát và kịp thời chấn chỉnh của Chính phủ, các Bộ, Ngành cũng như các cơ quan chức năng của địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai CPH DNNN ở địa phương. Vì vậy, đã có biểu hiện tuỳ tiện hoặc làm chậm trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương CPH ở một số DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng. Mặt khác, tiến trình CPH chưa đặt đúng mức chưa gắn chặt trong chương trình tổng thể về cơ cấu sắp xếp lại khu vực DNNN, do đó việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp của Thành phố còn thiếu kiên quyết, phân cấp, phân quyền còn hạn chế, kéo dài thời gian chờ đợi giải quyết. Vấn đề chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần là vấn đề mới lại liên quan đến nhiều lĩnh vực tài chính, lao động, sở hữu, hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể vì vậy cán bộ của các ngành được phân công làm làm nhiệm vụ này còn lúng túng. Trong khi đó thủ tục quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp cứng nhắc, chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính. Nhiều nơi, cán bộ công chức còn có biểu hiện gây phiền cho DN, thiếu thống nhất trong chỉ đạo thực hiện, các văn bản pháp lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chậm, chưa nhất quán, chưa thật sự đồng bộ dẫn đến việc vận dụng còn nhiều vướng mắc. Từ quá trình xây dựng đến thực hiện đề án còn bộc lộ tình trạng chưa sát với thực tế, thiếu sự kết hợp giữa ngành với lãnh thổ. Không ít nơi thiếu dân chủ bàn bạc đối với doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay công tác CPH còn mang tính chất dàn đều, phong trào mà chưa được xem xét thấu đáo về khía cạnh chuyên môn, chuyên ngành hoạt động, phạm vi và khả năng của doanh nghiệp. Vấn đề CPH các doanh nghiệp để lấy số lượng mà coi nhẹ chất lượng doanh nghiệp còn khá phổ biến. Công tác phối kết hợp giữa các cơ sở, ban, ngành còn chưa chặt chẽ trong công tác thẩm định phương án cổ phần, xác định doanh nghiệp có thể CPH là những vấn đề khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp sau CPH 1.2.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc xảy ra sau cổ phần hoá 1.2.2.1 Quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần Nhận thức về mối quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần chưa thật rõ ràng, nhất là doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50%, hơn nữa đa số cổ đông là người lao động trực tiếp từ trước đến nay nên ranh giới giữa công ty cổ phần và DNNN vẫn còn nhiều cổ đông chưa thật sự nắm rõ. Đa số cổ phần bán ra thuộc về người lao động của DNNN cũ, trong các doanh nghiệp này sau CPH còn nhiều trường hợp các cổ đông là người lao động không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty. Không ít cổ đông vẫn có tâm lý e dè trước lãnh đạo doanh nghiệp nhất là khi đề cập đến vấn đề chất vấn, bãi miễn các chức vụ lãnh đạo do vẫn còn quan niệm về vị trí, vai trò của mình như trong DNNN trước kia. Điều đó cho thấy tình trạng làm chủ “hình thức” của người lao động và các cổ đông trong doanh nghiệp sau CPH vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Một số quyền cơ bản và hợp pháp của cổ đông tại nhiều doanh nghiệp CPH còn chưa được đảm bảo, trước hết là quyền thông tin, dẫn đến hầu hết các cổ đông nhỏ cảm thấy bị đứng ngoài công ty, quan hệ giữa cổ đông và công ty trở thành quan hệ giữa người vay và người cho vay vốn. Ngoài ra, quy định pháp lý hiện hành cho phép người lao động được chia cổ phần hưởng lợi tức, được thừa kế, nhưng không được sở hữu. Như vậy, người lao động không phải là cổ đông đầy đủ theo đúng nghĩa của nó. Ngược lại với hiện tượng trên, ở một số doanh nghiệp sau khi CPH do ngộ nhận, đánh đồng không phân biệt rõ vị thế của cổ đông - sở hữu cổ phần - làm chủ doanh nghiệp với vị thế của người lao động trực tiếp chịu sự điều hành theo kỷ luật lao động và cơ chế, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, của lãnh đạo doanh nghiệp cho nên nhiều người lao động - cổ đông trong doanh nghiệp đã có những hành vi “dân chủ quá trớn”. Để đảm bảo quyền làm chủ của mình, những người này mặc dù có nơi chỉ chiếm chưa đến 1% cổ phần doanh nghiệp cũng để mắt và có ý kiến tới mọi chuyện, tranh đấu, chất vấn quyết liệt với các quyết định điều hành của Ban giám đốc doanh nghiệp. Đến mức DNNN sau CPH, Ban giám đốc doanh nghiệp mỗi khi đưa ra quyết định mua sắm, chi tiêu quá 100 ngàn đồng cũng đều phải họp xin ý kiến từng việc rất căng thẳng, hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường kinh doanh hiện nay rất cần phản xạ nhanh, quyết định nhanh để chớp lấy thời cơ. Vậy một DNNN sau khi CPH mà có tới hàng trăm ông chủ ngang quyền nhau và đều đòi hỏi điều hành doanh nghiệp như một giám đốc cũng sẽ dẫn đến không hiệu quả, tựa như một DNNN hoạt động theo tinh thần làm chủ tập thể mà Nhà nước là đại diện duy nhất trước khi CPH. 1.2.2.2. Về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống kinh doanh của các công ty cổ phần Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi CPH đều tiến hành tổ chức và hình thành bộ máy quản lý của mình theo quy định của Luật doanh nghiệp, nhân sự được sắp xếp lại tinh gọn hơn, phù hợp với chuyên môn được đảm nhận. Tuy nhiên về hoạt động của bộ máy trong không ít doanh nghiệp thì dường như lại chưa đạt mục tiêu khắc phục yếu kém trong phương thức điều hành của DNNN, cụ thể là: Thứ nhất: Bộ máy không đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH vẫn dùng nguyên bộ máy cũ, chỉ đưa một số vị trí lên, vẫn còn có hiện tượng đội ngũ cán bộ quản lý ít được đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH, Giám đốc cũ thành Chủ tịch Hội đồng quản trị, Phó giám đốc thành giám đốc doanh nghiệp mới. Hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sau CPH sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Nguyên nhân là do bán cổ phần chủ yếu cho nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là những cổ đông bên ngoài doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết sách và quản trị doanh nghiệp. Việc bộ máy tổ chức ít thay đổi dẫn đến tư duy, trình độ quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng ít thay đổi, do vậy hiệu quả quản lý cũng chưa được nâng cao. Điều đó cũng cho thấy, các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cũng chưa phát huy ưu điểm của mô hình mới là chuyên nghiệp hóa cán bộ điều hành, thể hiện qua việc quá ít doanh nghiệp thuê những cán bộ quản lý giỏi từ bên ngoài. Thứ hai: Một số công ty chưa tổ chức hoạt động đúng với loại hình doanh nghiệp mới; nhiều doanh nghiệp thậm chí còn giữ nguyên phương thức điều hành cũ. Trong cơ cấu tổ chức, hoàn toàn không có sự tách biệt rõ ràng về quản lý - điều hành (mặc dù Điều lệ công ty quy định), nảy sinh xung đột giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc giống như trong DNNN hiện nay (chẳng hạn giám đốc điều hành không tuân thủ nghị quyết Hội đồng quản trị). Qua khảo sát trực tiếp tại một số doanh nghiệp còn cho thấy, toàn bộ Ban giám đốc là thành viên Hội đồng quản trị. Được hỏi về nguyên nhân, lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng việc cứng nhắc áp dụng mọi quy định về bộ máy tổ chức, quản lý theo Luật doanh nghiệp có thể dẫn tới chồng chéo chức năng, nhiệm vụ trong nội bộ doanh nghiệp, chẳng hạn đối với công ty cổ phần có số lượng cán bộ quản lý ít, sản xuất giản đơn thì không nhất thiết phải thành lập cả Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Thứ ba: Nhiều doanh nghiệp được CPH trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (01/01/2000) chưa có sự điều chỉnh về chức năng quyền hạn của các cơ quan quản lý và điều hành cho phù hợp như Hội đồng quản trị (hình thức, cách thức thông qua quyết định của Hội đồng quản trị đã thay đổi), Ban kiểm soát (thay đổi về số lượng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ) cũng như Điều lệ doanh nghiệp. Ngoài ra vẫn còn một số doanh nghiệp được CPH chưa tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp về đổi tên, kế thừa nhãn mác của doanh nghiệp cũ v.v... 1.2.2.3. Về việc quản lý vốn, tài sản của nhà nước ở công ty cổ phần Việc quản lý vốn của Nhà nước do người đại diện vốn nhà nước trong HĐQT đảm nhận và quản lý theo quy định của Nhà nước nhưng sự lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước ở các DNNN sau CPH vẫn tiếp tục diễn ra thông qua các kênh như sau: Do doanh nghiệp thiếu trách nhiệm quản lý hay lạm dụng khai thác sử dụng với phần tài sản giữ hộ Nhà nước còn lại trong doanh nghiệp mà chưa sử dụng dứt điểm sau khi CPH kể cả phần nợ doanh nghiệp phải thu hồi hoặc do Nhà nước mất không phần chênh lệch giá trị giữa giá trị thực (gồm giá tính đúng, đủ giá trị doanh nghiệp kể cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vô hình của doanh nghiệp) và giá trị kế toán thấp nhất khi tiến hành CPH DNNN (đặc biệt là khi CPH không thông qua thị trường chứng khoán hoặc chỉ khoanh vùng bán cổ phần trong nội bộ doanh nghiệp) hoặc do áp dụng không đúng thực tế các ưu đãi của Nhà nước cho các DNNN sau CPH. Do chưa có quy định rõ ràng, cụ thể hợp lý quyền lợi, trách nhiệm của người đại diện hoặc kiêm nhiệm quản lý cổ phần nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước vẫn còn nắm giữ ít nhiều cổ phần của doanh nghiệp, thẩm quyền và phương hướng xử lý việc bán bớt hay tăng thêm CP Nhà nước trong các doanh nghiệp đã CPH chưa được rõ ràng và hiệu lực thực tế, gây khó khăn trong các quyết định liên quan đến huy động tăng giảm vốn Điều lệ của Công ty cổ phần, cũng như đến việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của Nhà nước trong công ty cổ phần, từ đó trực tiếp hay gián tiếp gây tổn hại cho vốn, tài sản Nhà nước trong các doanh nghiệp này. Đây là một vấn đề khó chấp nhận nhất vì nó hoàn toàn trái ngược với mục tiêu chủ đạo của CPH DNNN. Thực tế CPH DNNN trong thời gian qua cho thấy CPH các DNNN là điều cần thiết và phải được tiến hành minh bạch, công khai, nhanh và triệt để hơn, không minh bạch công khai, càng trì hoãn quá trình CPH càng làm gia tăng tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước hoặc doanh nghiệp thụ động “chờ xem sao”, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và gây lãng phí tài sản cho Nhà nước. 1.2.2.4. Vấn đề nợ và quan hệ tài chính sau cổ phần Đối với khoản nợ thừa kế, Chính phủ đã có cơ chế tạo điều kiện cho phép doanh nghiệp xủ lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng trước khi chuyển đổi. Mặc dù vậy, việc xử lý các tồn đọng cũng chỉ mới giới hạn ở các khoản nợ đã xác định được là không có khả năng thu hồi với các bằng chứng như: con nợ đã bị giải thể, phá sản, đã bị chết, đang thi hành án hoặc đang bỏ trốn trong khi người thân có quan hệ thừa kế không có khả năng thanh toán nợ. Còn những khoản nợ tồn tại nhiều năm do cơ chế cũ để lại, dù con nợ còn tồn tại nhưng cũng khó có khả năng thu hồi thi doanh nghiệp phải thừa kế và không xử lý được. Thực chất đây là gánh nặng của các doanh nghiệp sau chuyển đổi và các nhà đầu tư phải gánh chịu. Điều đó cho thấy, để tình hình tài chính của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi thực sự lành mạnh, khả năng cạnh tranh thực sự được cải thiện, quyền lợi của các nhà đầu tư thực sự được rõ ràng, Nhà nước cần có cơ chế xử lý dứt điểm trước chuyển đổi. Mặt khác, nếu không xử lý trước chuyển đổi được thì cần chia sẻ gánh nặng với doanh nghiệp, chẳng hạn giao khoán các khoản nợ cho một định chế trung gian của Nhà nước để tiếp tục theo dõi, xử lý hoặc bán cho công ty mua bán nợ. Đối với các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp, thì mặc dù theo qui định hiện hành các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chuyển đổi được quyền loại trừ một số khoản nợ và tài sản tồn đọng ra khỏi giá trị doanh nghiệp để CPH, giao, bán, khoán và cho thuê. Về nguyên tắc, đến thời điểm chuyển đổi nếu các khoản nợ và tài sản này chưa xử lý xong sẽ được doanh nghiệp giao cho cơ quan quyết định chuyển đổi xử lý tiếp, trong đó có phương án doanh nghiệp chuyển đổi giữ hộ trong thời hạn 90 ngày. Từ quy định này đã nảy sinh những vấn đề sau: Về phía các doanh nghiệp, do không phải tài sản sở hữu doanh nghiệp nên trách nhiệm xử lý không cao, thậm chí trong phần lớn các trường hợp doanh nghiệp tiếp tục tận dụng, khai thác một cách bất hợp pháp. Chính các quy định không rõ ràng nên việc bảo quản gần như bị buông lỏng, tài sản xuống cấp nghiêm trọng, không còn giữ được hình thái vật chất và giá trị ban đầu. Nhà nước và các cơ quan chức năng chưa ban hành quy định về trách nhiệm đối với tài sản sau thời hạn 90 ngày. Không ít doanh nghiệp phàn nàn về sự phiền hà trong việc “giữ hộ” tài sản Nhà nước, bởi vì doanh nghiệp vừa phải bố trí mặt bằng để cất giữ (trừ trường hợp doanh nghiệp tiếp tục khai thác bất hợp pháp), lại phải chịu những chi phí bảo quản, bảo vệ rất tốn kém. Thực tế về nợ và tài sản tồn đọng (có thừa kế cũng như không thừa kế) như trên, một mặt nói lên tính bất cập trong quá trình hiện hành, mặt khác cũng cho thấy tính bức xúc phải có một định chế pháp lý của Nhà nước đảm nhiệm việc xử lý các khoản nợ và tài sản này một cách hợp lý. Vốn, tín dụng và những vướng mắc trong quan hệ với ngân hàng của doanh nghiệp sau CPH: Sự khác biệt quan trọng nhất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước và sau chuyển đổi chính là vấn đề vốn. Trước đây, Nhà nước đầu tư vốn và giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước khi thành lập và ngoài ra tuy khả năng ngân sách, Chính phủ (Bộ Tài chính) quyết định đầu tư bổ sung vốn hàng năm cho một số doanh nghiệp Nhà nước (tùy thuộc lĩnh vực kinh doanh) dưới hình thức bổ sung vốn lưu động. Sau khi chuyển đổi, do lợi thế này không còn nên doanh nghiệp (tập thể người lao động, cổ đông, kể cả cổ đông đại diện cho vốn Nhà nước v.v...) bị hạn chế, thì nguồn vốn từ bên ngoài trở nên đặc biệt quan trọng. Theo kết quả điều tra, mặc dù tỷ lệ vay vốn ngân hàng vẫn chiếm đa số trong tổng vốn huy động từ bên ngoài sau chuyển đổi (gần 57%) nhưng rõ ràng tỷ lệ này quá thấp so với trước chuyển đổi. Điều này cho thấy đã có vấn đề nảy sinh trong quan hệ với ngân hàng so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp phải vay thêm từ các nguồn khác ngoài cổ phần, rất khó khăn cho doanh nghiệp. Thực tế đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá đúng thực chất của vấn đề, bởi vì theo các quy định hiện hành, doanh nghiệp sau chuyển đổi được quyền vay vốn ngân hàng như đối với doanh nghiệp nhà nước. Song giữa thực tế và quy định còn một khoảng cách khá xa. Nhiều doanh nghiệp sau chuyển đổi cho rằng sau khi CPH, họ đều gặp khó khăn trong việc vay tín dụng ngân hàng. Nguyên nhân có nhiều, nhưng quan trọng nhất vẫn là những quy định ngặt nghèo về thế chấp - một vấn đề luôn là trở ngại chính cản trở doanh nghiệp sau CPH tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng, trong khi đây là lợi thế của DNNN do nắm trong tay nhiều nguồn lực có giá trị được Nhà nước giao (như đất đai) hoặc được bảo lãnh dưới dạng tín chấp. Kết quả điều tra chỉ ra rằng 80% doanh nghiệp sau CPH gặp khó khăn về thế chấp trong vay tín dụng ngân hàng và tới hơn 90% cho rằng vẫn còn hành vi phân biệt đối xử của ngân hàng ở các mức độ khác nhau đối với doanh nghiệp trước và sau khi CPH. Cũng theo số liệu điều tra này, đa số doanh nghiệp sau CPH khẳng định lợi thế của DNNN trong quan hệ với ngân hàng, trong vay vốn là rất lớn. Qua điều tra nghiên cứu, nổi lên vấn đề chủ yếu là: Do không còn là DNNN, doanh nghiệp CPH mất đi sự đảm bảo của Nhà nước trong vay vốn, cụ thể là mất đi sự phê duyệt của các cơ quan chủ quản đối với các phương án đầu tư hoặc các khoản đầu tư hoặc các khoản vay lớn của doanh nghiệp. Thực chất, biện pháp này có tính chất bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng dưới mọi hình thức (kể các phê duyệt phương án vay để doanh nghiệp gây sức ép với ngân hàng). Nói cách khác, doanh nghiệp sau CPH không còn tín chấp để vay vốn. 1.2.2.5. Vấn đề giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá Việc giải quyết số lao động dôi dư sau CPH là vấn đề nan giải đối với doanh nghiệp, nhất là khi Nghị định 41 của Chính phủ không được áp dụng cho những đơn vị CPH trước 12 tháng khi Nghị định ra đời. Để đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển, số cán bộ, công nhân năng lực yếu kém sẽ phải nghỉ việc, nhưng có người đã có quá trình làm việc lâu năm, nên việc xử lý số lao động dôi dư nầy là một vấn đề tế nhị, làm sao đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo cho các cán bộ, công nhân phải nghỉ hưu sớm thỏa mái, yên tâm. Đây là bài toán hết sức khó. Trong khi đó, số lao động dôi dư tại thời điểm CPH cần đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần trước đây được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay thì DN không còn được hỗ trợ nữa khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp bị hạn chế. Hơn nữa đội ngũ cán bộ chủ chốt của một số doanh nghiệp còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển sang công ty CP không đảm đương được nhiệm vụ được giao, ở các DNNN địa phương sau khi CPH, hầu hết đều có cán bộ của Sở tài chính hoặc Sở thương mại được cử xuống để quản lý vốn nhưng những cán bộ này nhiều người không am hiểu SXKD của CTCP, trong KD lại cần độ an toàn hơn là mạo hiểm nên dễ dẫn đến mất cơ hội.Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng lao động kế tiếp muốn cơ cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động không muốn rời khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ chuyển sang theo hợp đồng không xác định thời hạn (thực chất là theo biên chế suốt đời). Một khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau CPH là các cổ đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho họ vì sợ giảm cổ tức của mình. Vì vậy, để tháo gỡ vướng mắc sau CPH cần ban hành và thực hiện chính sách xử lý lao động dôi dư trước khi CPH, tạo đủ nguồn tài chính để thực hiện chính sách này. Nói chung, có thể nhận thấy rằng các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được quan tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người lao động rời khỏi doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho lao động dôi dư tìm việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh nghiệp. 1.2.2.6. Vấn đề hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá Thực tế sau CPH ở không ít doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội hoạt động yếu, nhất là người đúng đầu còn lúng túng, chưa tìm cách tháo gỡ để tổ chức hoạt động phù hợp với cơ chế quản lý mới của doanh nghiệp. Việc phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể với lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng các qui chế và triển khai chương trình hành động, các phong trào thi đua còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều nội dung hoạt động của công ty các tổ chức đoàn thể không được biết, hoặc vai trò rất hạn chế, vị trí và vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội đang phai nhạt dần, một số đoàn viên ít gắn bó với tổ chức mình... Hiện tại, tổ chức đảng cơ sở, công đoàn, đoàn thanh niên của các công ty cổ phần tuy về nguyên tắc không thay đổi, nhưng về nội dung và hình thức hoạt động trong thực tế đã có sự thay đổi nhất định so với khi còn là DNNN. Đối với các công ty cổ phần quyền sở hữu là các cổ đông, quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp là Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp nào Hội đồng quản trị, Giám đốc có ý thức đảng tốt thì ở đó hoạt động của tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng còn phát huy tác dụng. Ngược lại thì hoạt động của các tổ chức đoàn thể rất hạn chế. Bên cạnh đó, một số lãnh đạo công ty CP chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của các đoàn thể chính trị, xã hội, nên có dấu hiệu buông lỏng trong chỉ đạo và phối hợp hoạt động; đội ngũ cán bộ của các tổ chức đoàn thể nhìn chung còn yếu kém về lý luận, trình độ chưa tương xứng và phù hợp với đặc điểm của công ty CP, một số công nhân, người lao động, thiếu ý thức tổ chức, chạy theo lợi ích kinh tế ít quan tâm đến sinh hoạt tập thể, thờ ơ với việc học tập các chủ trương chính sách, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, chưa thấy quyền lợi lâu dài nên ít sinh hoạt các đoàn thể quần chúng. Các văn bản quy phạm pháp luật qui định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các loại hình doanh nghiệp, còn thiếu chưa đầy đủ. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao trong các công ty CP cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều phải thành lập các tổ chức đoàn thể chính tri, xã hội thu hút quần chúng và duy trì hoạt động thường xuyên, có hiệu quả góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh. Muốn vậy: Thứ nhất, phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các doanh nghiệp CP. Thứ hai, đổi mới toàn diện công tác cán bộ, từ khâu lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo bố trí, sử dụng cho đến chính sách đối với cán bộ của các đoàn thể. Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của các cáp ủy và sự chỉ đạo sâu sát của các đoàn thể cấp trên cơ sở. Thứ tư, các cơ chế chính sách, các văn bản qui phạm pháp luật, cần tiến hành đồng bộ, kịp thời, sát thực tế sớm định hướng cho cơ sở thực hiện. Thứ năm, là xây dựng qui chế phới hợp hoạt động giữa các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội với HĐQT và BGĐ công ty. Thứ 6: Nâng cao và tạo sự thống nhất nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động về vai trò của các tổ chức đoàn thể trong công ty cổ phần. Qua khảo sát cho thấy, sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển, đổi mới, nâng cao hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước trong công nhân và người lao động, thường xuyên bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp cho người lao động, tôn trọng và phát huy vai trò giám sát và quyền làm chủ của người lao động đối với hoạt động trong DN, cho nên phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện kịp thời cho các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các loại hình DN hiện nay hoạt động chính là từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước. 1.2.2.7. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá Sự quản lý nhà nước đối với các DNNN sau cổ phần còn nhiều hạn chế: Sau CPH các doanh nghiệp cần có một cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp để giúp đỡ doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật. Tuy nhiên các cơ quan trước đây trên thực tế đã “quay lưng” lại trước nhu cầu hỗ trợ của các doanh nghiệp và buông lỏng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH hoặc là phân công không rõ ràng. Về phía Nhà nước, hiện nay chưa rõ cơ quan nào là đầu mối để tổng hợp và giải quyết những vướng mắc cho doanh nghiệp, chịu trách nhiệm tuyên truyền, cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, chế độ, cũng như thông tin về công nghệ, ngành hàng v.v... cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tổ chức hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến. Do đó các DN CP đi vào hoạt động với điều kiện mới, thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước, các doanh nghiệp vốn đã yếu nay càng yếu kém hơn. Ngược lại với hiện tượng trên thì việc quy định trường hợp doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty nhà nước mà khi CPH, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối thì vẫn là thành viên của tổng công ty là chưa thỏa đáng. Đồng thời, sẽ khó khăn chấp nhận việc các doanh nghiệp, sau khi CPH vẫn được đơn vị chủ quản cũ gọi lên “định kỳ báo cáo”. Việc Nhà nước có sự quan tâm đúng mức hỗ trợ doanh nghiệp cần CPH ngay từ đầu: xây dựng danh mục, kế hoạch CPH các DNNN, xác định giá doanh nghiệp, triển khai các thủ tục CPH và ngay cả thời kỳ đầu “hậu CPH” có ý nghĩa quan trọng “giảm sốc” cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp nhanh chóng ổn định tâm lý, nhận thức và tinh thần kinh doanh. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định nhất đến sự thành bại của quá trình CPH doanh nghiệp qua thực tế cho thấy là việc thống nhất nhận thức và hành động giữa các cấp, đơn vị có trách nhiệm: Đảng ủy, chính quyền thành phố, cơ quan chủ quản và bản thân doanh nghiệp cần CPH. Đồng thời cần hết sức coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý, tăng các chế tài hành chính và kinh tế nhằm tăng trách nhiệm cho từng cá nhân, cấp cụ thể trong quá trình CPH. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các quy định Nhà nước và các thông tin liên quan đến doanh nghiệp sẽ CPH cũng tỏ ra có nhiều tác động tích cực đến nâng cao nhận thức, củng cố quyết tâm và tạo cơ hội thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình CPH DNNN. Công tác hỗ trợ và hoàn thiện quản lý doanh nghiệp hoạt động, định hướng, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quá trình CPH DNNN, đạt mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Một mặt, cần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH, trong đó có quan hệ giữa các cơ quan chủ quản cũ, cơ quan sở, ngành với doanh nghiệp trong các nội dung, khía cạnh hoạt động của đời sống doanh nghiệp; Mặt khác cần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
  • docbia luan van.doc
Tài liệu liên quan