Luận văn Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và hiệu quả sử dụng vốn vay của nông hộ ở huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ

MỤC LỤC

Trang

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1

1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1

1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2

1.2.1. Mục tiêu chung 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2

1.3. CÁC GIẢ THUYẾT CẦN KIỂM ĐỊNH VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 3

1.3.1. Các giả thuyết cần kiểm định 3

1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu 3

1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3

1.4.1. Không gian 3

1.4.2. Thời gian 3

1.4.3. Đối tượng nghiên cứu 3

1.5. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU 4

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU 7

2.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN 7

2.1.1. Khái niệm, vai trò và chức năng kinh tế hộ 7

2.1.2. Các vấn đề cơ bản về tín dụng 8

2.1.3. Phân loại tín dụng 11

2.1.4. Vốn trong sản xuất nông thôn 13

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14

2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 14

2.2.2. Phương pháp phân tích số liệu 15

CHƯƠNG 3: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ HUYỆN THỐT NỐT 18

2.1. THỰC TRẠNG KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 18

2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG Ở HUYỆN THỐT NỐT 19

2.3. CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ HUYỆN THỐT NỐT 20

2.3.1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 20

2.3.2. Ngân hàng Chính sách xã hội 20

2.3.3. Hợp tác xã tín dụng 21

2.3.4. Các ngân hàng thương mại khác 22

2.3.5. Các chương trình đặc biệt của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ 23

CHƯƠNG 4: XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN VAY CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN THỐT NỐT 26

4.1. MÔ TẢ MẪU SỐ LIỆU ĐIỀU TRA 26

4.1.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 26

4.1.2. Một số đặc tính của mẫu điều tra 27

4.2. CÁC BIẾN ĐƯỢC CHỌN VÀ LÝ DO CHỌN BIẾN 30

4.3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 33

4.4. MÔ HÌNH PROBIT XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN THỐT NỐT 36

4.4.1. Nhận xét chung về kết quả phương trình hồi quy thu được 36

4.4.2. Nhận xét các biến nghiên cứu 37

4.5. MÔ HÌNH TOBIT XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LƯỢNG VỐN VAY CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN THỐT NỐT 40

4.5.1. Nhận xét chung về kết quả phương trình hồi quy thu được 40

4.5.2. Nhận xét các biến nghiên cứu 41

4.6. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN VAY CỦA NÔNG HỘ HUYỆN THỐT NỐT 43

4.6.1. Tình hình chung về việc sử dụng vốn vay và trả nợ vay của nông hộ 43

4.6.2. Tình hình thu nhập của hộ trước và sau khi vay 45

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 46

5.1. Kết luận 46

5.2. Kiến nghị 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO 51

PHỤ LỤC 53

 

 

doc67 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6221 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và hiệu quả sử dụng vốn vay của nông hộ ở huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng và Hợp tác xã là cầu nối giữa nông dân với Ngân hàng nông nghiệp quốc gia hay với Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù hệ thống này có những thuận lợi tiềm tàng của nó nhưng việc xác định kênh cho vay có hiệu quả ở một số nước lại khó thực hiện. Họ phải đối mặt với vấn đề chính là sự thiếu hụt đội ngũ nhân viên được huấn luyện và các tổ chức cộng tác cho vay. 2.3.3.1. Ngân hàng Cổ phần nông thôn Hầu hết các Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn hiện tại hoạt động như là một dạng của Hợp tác xã tín dụng nông thôn ở vùng nông thôn. Năm 2007, chỉ còn có một Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn. Một Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn gồm khoảng 50 đến 60 cổ đông, trong đó một vài người là cổ đông lớn, tất cả các cổ đông đều là người dân địa phương có quen biết với nhau và thường họ là những người giàu có, sung túc. Phần lớn quỹ hoạt động của Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn là lấy trực tiếp tư Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khoảng 50 – 80%. Lượng cho vay của ngân hàng cũng có nhiều hạn chế với những người nghèo, chỉ một phần nhỏ những hộ nông nghèo được vay ở Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn. Phát vay của Ngân hàng chủ yếu thông qua Hội phụ nữ, Hội tổ chức vay theo nhóm và đi vay ở ngân hàng. Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn rất thận trọng trong cho vay những người nghèo, vì thế mà khả năng mở rộng cho vay đến những hộ nông dân ở ngân hàng này là rất thấp. Hiện tại theo khảo sát, huyện Thốt Nốt không có Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn nào đặt phòng giao dịch hoặc chi nhánh ở đây. 2.3.3.2. Quỹ tín dụng nhân dân Tín dụng nhân dân là một dạng mới trong các tổ chức trung gian tài chính ở nông thôn nước ta, bắt đầu hoạt động năm 1993 như một hình thức của Hợp tác xã tín dụng. Để vay vốn từ Quỹ tín dụng nhân dân, yêu cầu các thành viên phải có lượng tiền gửi góp vốn nhất định và lượng tiền gửi ít nhất là 50.000 đồng. Vốn hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu còn nguồn quỹ hoạt động vay từ Ngân hàng Nhà nước và từ nguồn huy động của Quỹ. Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 28/12/2007 cả nước có tổng cộng 972 Quỹ tín dụng nhân dân. Hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân cũng phát triển rất mạnh, tổ vốn hoạt động là 11.500 tỷ đồng, tiền gửi huy động 8.000 tỷ đồng, dư nợ cho vay đến 10.000 tỷ đồng. Dư nợ quá hạn là 0,5% trên tổng dư nợ cho vay. Tổng số thành viên của Quỹ là 1.250.000 người. Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc khai thác nguồn vốn tại chỗ, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... cải thiện đời sống của các thành viên, khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Qua điều tra cho thấy, Thốt Nốt hiện không có Quỹ tín dụng nhân dân nào hoạt động tại đây. 2.3.4. Các Ngân hàng thương mại khác Là Ngân hàng cho vay nông nghiệp chính thức xuất hiện sớm nhất ở các nước đang phát triển. Đầu tiên các tổ chức này cho vay chủ yếu hộ nông dân lớn cũng như cung cấp hoạt động dịch vụ và tiếp thị, dần dần mở rộng cho vay những hộ nông dân nhỏ cùng với sự bắt buộc và ủy thác của Chính phủ. Hệ thống chi nhánh được xây dựng qua nhiều năm đã tạo điều kiện cho mở rộng hoạt động tín dụng nông thôn cho các Ngân hàng thương mại, cùng với kinh nghiệm quản lý ‎‎chuyên nghiệp và nền tảng vững chắc, các Ngân hàng thương mại cũng có thể đưa dịch vụ đến với khách hàng rộng rãi hơn. Tuy vậy, hầu hết các Ngân hàng thương mại đều không toàn tâm vào cho vay nông thôn. Cho vay ở địa bàn nông thôn, nhất là hộ nông dân nhỏ chỉ là nghiệp vụ phụ. Bởi vì họ muốn tăng lợi nhuận và giảm rủi ro trong khi thị trường nông thôn khó có thể đáp ứng nhu cầu này. Vì thế mà các Ngân hàng trung ương phải cung quỹ cho các Ngân hàng thương mại cho vay khu vực nông nghiệp. Ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại cho vay các nông hộ sản xuất nông nghiệp chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong hoạt động của Ngân hàng. Thông thường, các khoản vay này chủ yếu là do chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước trong các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, cải tạo sản xuất, quy hoạch sản xuất vùng là các chính sách khác phục sản xuất sau thiên tai, lũ lụt... Theo kết quả điều tra cho thấy huyện Thốt Nốt hiện có trên 10 Ngân hàng thương mại, nhưng việc cho vay nông hộ ở đây theo điều tra thì không chiếm một tỷ lệ nào trong tổng số hộ được phỏng vấn. Điều này có thể là do các Ngân hàng thương mại chỉ tập trung cho vay các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu và cho vay các hoạt động thương mại khác vì cho vay các khoản này thì Ngân hàng có thể thu được lãi cao, ít rủi ro so với cho vay nông hộ với từng món nhỏ lẻ lại thủ tục rườm rà, mất thời gian hướng dẫn thủ tục cho người nông dân với trình độ thấp. Bên cạnh đó, có thể người nông dân ở đây chưa biết đến việc cho vay của các Ngân hàng này vì bị hạn chế về thông tin hoặc do lãi suất cho vay cao hơn Ngân hàng Chính sách và Ngân hàng Nông nghiệp nên nông dân cũng ngại tới vay vì vấn đề này. 2.3.5. Các chương trình đặc biệt của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ Những chương trình này sử dụng nguồn vốn của ngân sách Nhà nước hay của của các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các hoạt động vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội như giảm đói nghèo, tạo việc làm, tái tạo rừng, chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Hầu hết các chương trình này đều cho vay các đối tượng chương trình phục vụ với lãi suất ưu đãi, lãi suất thấp hoặc thậm chí cho mượn vốn để cải thiện mức sống. Các chương trình này bao gồm: Chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình tạo việc làm, chương trình phát triển làng nghề truyền thống, chương trình 135 xoá đói giảm nghèo và một số chương trình tín dụng khác. Tất cả các chương trình này đều nhằm mục đích cung cấp tín dụng để cải thiện môi trường, nâng cao mức sống cũng như các mục đích từ thiện khác. Các chương trình này được thực hiện thông qua các tổ chức, đoàn thể xã hội ở địa phương như Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh. Ở nông thôn huyện Thốt Nốt, các chương trình này nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo và phát triển làng nghề truyền thống (nghề làm bánh tráng). Ngoài các tổ chức tín dụng chính thức nói trên, ở nông thôn Việt Nam còn có các tổ chức tín dụng phi chính thức: Những người cho vay chuyên nghiệp, hụi, vay mượn từ người thân và bạn bè, các chủ cửa tiệm bán vật tư nông nghiệp (theo Ngân, 2004). Hoạt động của các tổ chức này không theo luật và quy định của Ngân hàng nhà nước, thậm chí đôi khi còn trái pháp luật. Theo số liệu điều tra về mức sống của người Việt Nam năm 1998, các tổ chức tín dụng phi chính thức chiếm 51% số hộ vay vốn. Tỷ lệ này cho thấy thị phần tín dụng phi chính thức vẫn chiếm lĩnh thị trường so với tín dụng phi chính thức. Ở khu vực nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long, theo kết quả điều tra mức sống của người Việt Nam năm 2004 về thị phần tín dụng của các loại hình tổ chức tín dụng như sau: Bảng 3.1: Thị phần tín dụng của các tổ chức ở nông thôn ĐBSCL năm 2004 Nguồn cung cấp tín dụng Thị phần (%) 1. Ngân hàng Chính sách xã hội 7,73 2. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 56,22 3. Các ngân hàng thương mại khác 6,72 4. Quỹ việc làm 1,57 5. Quỹ tín dụng nhân dân 2,29 6. Các tổ chức kinh tế xã hội 1,14 7. Những người cho vay chuyên nghiệp 10,73 8. Người thân, bạn bè và hàng xóm 13,02 9. Các nguồn khác 0,58 Tổng 100,00 Nguồn: Số liệu điều tra về mức sống của người Việt Nam 2004, Vương Quốc Duy (2007) Từ bảng trên, ta thấy rằng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm tỷ lệ cao trong việc cung cấp tín dụng ở nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này là do việc tập trung các chương trình tín dụng của Chính phủ nhằm phát triển đời sống nông thôn. Qua bảng 3.1, ta cũng thấy rằng tín dụng từ nguồn phi chính thức vẫn còn chiếm tỷ lệ tương đối cao (24,33%), đây là các khoản tín dụng có lãi suất khá cao. Điều này cho thấy tín dụng nông thôn còn nhiều bất cập trong việc mở rộng đối tượng cho vay của các tổ chức tín dụng hơn nữa để ngày càng phục vụ tốt hơn những người có nhu cầu vay vốn nhằm mục đích sản xuất kinh doanh. Việc này chẳng những giúp được người nông dân có nguồn vốn sản xuất với chi phí thấp mà còn đem lại thu nhập cho các tổ chức cho vay, đồng thời còn cải thiện đời sống kinh tế của nước ta. Hệ thống các tổ chức tín dụng ở nông thôn huyện Thốt Nốt Hệ thống các tổ chức tín dụng chính thức Các hình thái tín dụng phi chính thức Hình 1: Hệ thống các tổ chức tín dụng đang hoạt động ở nông thôn Thốt Nốt Ä Tóm lại, thị trường tín dụng nông thôn huyện Thốt Nốt cũng như các khu vực nông thôn khác của nước ta và các nước đang phát triển khác. Chúng ta có thể thấy ở nông thôn Thốt Nốt cũng tồn tại hai thị trường tín dụng chính thức và phi chính thức đan xen với nhau. Tuy nhiên, ở phạm vi đề tài này chỉ tập trung xem xét việc tiếp cận tín dụng từ nguồn chính thức và hiệu quả sử dụng món vay từ nguồn tín dụng chính thức. Hệ thống các tổ chức tín dụng chính thức đang hoạt động tại huyện Thốt Nốt Ngân hàng NNo và PTNT Ngân hàng Chính sách xã hội Các Ngân hàng thương mại khác NH Ngoại thương NH Đầu tư và Phát triển NH Á Châu, NH Phương Nam,… Các tổ chức TD chính thức khác Hình 2: Hệ thống các tổ chức tín dụng chính thức đang hoạt động ở Thốt Nốt CHƯƠNG 4 XÁC ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN VAY CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN THỐT NỐT 4.1. MÔ TẢ MẪU SỐ LIỆU ĐIỀU TRA 4.1.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Số liệu được sử dụng trong đề tài này là số liệu sơ cấp thời điểm được thu thập từ cuộc điều tra nông hộ ở 2 xã của huyện Thốt Nốt tháng 4 năm 2008. Số liệu được thu thập theo phương pháp ngẫu nhiên phân cụm. Cỡ mẫu được xác định dựa theo công thức sau: n  = p(1-p)(z/E)2 Trong đó:      n: cỡ mẫu p: tỷ lệ mẫu z: giá trị phân phối chuẩn tương ứng với độ tin cậy E: ước lượng tỷ lệ tổng thể Ta chọn p = 0,8 vì khi đó p(1-p) là 0,16. Độ tin cậy 90% (z =1,64) và tỷ lệ tổng thể ước lượng là 0,1. Cỡ mẫu tối thiểu sẽ là 43 quan sát. Với cỡ mẫu 43 là đủ đáp ứng nghiên cứu của đề tài, nhưng ở đề tài này lấy bộ số liệu là 46 mẫu điều tra nhằm mục đích nâng cao độ tin cậy của các yếu tố cần quan sát để nâng cao tính thực tế của bài nghiên cứu này.  4.1.2. Một số đặc tính của mẫu điều tra 4.1.2.1. Mô tả khái quát về mẫu số liệu điều tra Bảng 4.1: Một số chỉ tiêu thống kê từ kết quả điều tra Chỉ tiêu Diện tích đất trung bình/hộ (m2) 7.014 Số thành viên trung bình của hộ (người) 4,61 Tỷ lệ chủ hộ là nam 85,42% Tuổi trung bình của chủ hộ 54,13 Học vấn trung bình của chủ hộ (số năm đến trường) 4,39 Tỷ lệ hộ có bằng đỏ quyền sử dụng đất 75% Tỷ lệ hộ có vị trí xã hội trong làng xã 2,08% Tỷ lệ hộ tham gia các tổ chức kinh tế xã hội 16,67% Giá trị tài sản trung bình của hộ (1.000đ) 650.129 Thu nhập trung bình của hộ một năm (1.000đ) 58.507 Chi tiêu trung bình của hộ một năm (1.000đ) 28.516 Nguồn: Thống kê từ kết quả điều tra Qua kết quả thống kê từ số liệu điều tra, ta thấy diện tích đất trung bình của mỗi hộ nông dân ở địa bàn nghiên cứu khoảng 0,7 ha. Số thành viên trung bình của mỗi hộ là 4,6 người. Con số này cũng tương đối khớp với kết quả của cuộc Điều tra biến động dân số, nguồn lao động và kế hoạch hoá gia đình 01/04/2006 cho thấy, quy mô hộ trung bình là 4,1 người, của thành thị là 3,9 người và của nông thôn là 4,1 người. Tỷ lệ chủ hộ là nam chiếm 85,42% trên tổng số hộ được điều tra, tuổi trung bình của chủ hộ là 54 tuổi. Con số này cho thấy, đây là lứa tuổi thể hiện kinh nghiệm cao trong sản xuất, có trách nhiệm trong gia đình, cũng như các công việc khác trong đời sống như đưa ra những quyết định quan trọng nào đó. Học vấn trung bình của chủ hộ thì tương đối thấp, trung bình các chủ hộ đã đến trường 4,4 năm. Điều này có thể cho thấy do cuộc sống trước đây có nhiều khó khăn nên những người này phải nghỉ học để kiếm tiền lo cho cuộc sống gia đình. Vì Thốt Nốt là huyện chỉ cách Thành phố Cần Thơ khoảng 50km, nên họ hoàn toàn có thể học đến những lớp cao hơn, trong khi đó theo kết quả khảo sát cho thấy họ chỉ có trình độ học vấn trung bình lớp 4 nên có thể cho rằng vì hoàn cảnh khó khăn nên họ phải nghỉ học sớm. Điều này có thể giải thích được việc hộ vay vốn chủ yếu từ Ngân hàng Chính sách xã hội hơn so với việc vay vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Ngân hàng thương mại khác, vì để vay được tiền ở Ngân hàng Nông nghiệp và các Ngân hàng thương mại khác thì đòi hỏi người đi vay phải đến Ngân hàng làm các thủ tục về vay vốn, còn vay ở Ngân hàng Chính sách thì có cán bộ, chính quyền địa phương hướng dẫn cách làm hồ sơ vay và thường là vay theo nhóm. Bên cạnh đó, theo kết quả điầu tra cho thấy có khoảng 75% ở khu vực điều tra có bằng đỏ quyền sử dụng đất, chỉ 2,08% số hộ có thân nhân có chức vụ trong làng xã và khoảng 16,67% số hộ có tham gia các tổ chức kinh tế xã hội như Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh,… Về giá trị tài sản trung bình của mỗi hộ khoảng 650 triệu đồng, với giá trị tài sản như thế có thể nói đây là điều kiện thuận lợi để hộ có thể tiếp cận vốn tín dụng thông qua việc thế chấp hoặc cầm có các tài sản hiện có của hộ. Thu nhập trung bình hàng năm của mỗi hộ vào khoảng 58.507 nghìn đồng, trong khi đó chi tiêu trung bình của hộ khoảng 28.516 nghìn đồng. Từ kết quả này cho thấy mỗi năm hộ có thể tiết kiệm lại một phần vốn tương đối lớn để đầu tư cho những vụ mùa tiếp theo. Với khoản thu nhập và chi tiêu trung bình như trên thì hộ vẫn có vốn để sản xuất nên việc tiếp cận tín dụng ở huyện chỉ đạt tỷ lệ khoảng 61% nông hộ vay vốn theo kết quả điều tra là điều hợp lý.  4.1.2.2. Mô tả thực trạng tham gia tín dụng của mẫu điều tra a) Thực trạng chung Bảng 4.2: Thị phần tín dụng và cơ cấu tham gia tín dụng của hộ Chỉ tiêu NH CS xã hội NH NNo & PTNT Các TCTD và NHTM khác Không vay Tồng cộng Tổng số quan sát 17 11 0 18 46 Tỷ lệ so với tổng số hộ (%) 36,96 23,91 0,00 39,13 100 Tỷ lệ so với hộ vay (%) 60,71 39,29 0,00 Nguồn: Thống kê từ kết quả điều tra Ä Nhận xét: Trong tổng số 46 hộ được phỏng vấn về vay vốn tín dụng, có 28 hộ có vay, chiếm 60,87% tổng số hộ và 18 hộ còn lại không vay, chiếm 39,13%. Cũng theo kết quả điều tra cho thấy trong số 28 hộ vay thì có 17 hộ vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội, chiếm 60,71% tổng số hộ vay, 11 hộ vay từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện chiếm 39,29% tổng số hộ vay, không có hộ nào vay từ các Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, mặc dù ở huyện Thốt Nốt có trên 10 Ngân hàng thương mại khác đặt Chi nhánh hoặc Phòng giao dịch. Điều này có thể được lý giải vì lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại khác thường cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng Chính sách và Ngân hàng Nông nghiệp. Bên cạnh đó, do trình độ học vấn của chủ hộ thấp nên việc tiếp cận các thông tin về cho vay của các Ngân hàng thương mại khác còn bị hạn chế. b) Tình hình lượng vốn vay, kỳ hạn nợ và lãi suất Theo kết quả điều tra cho thấy, lượng vốn vay trung bình của nông hộ vay được từ các tổ chức tín dụng chính thức khoảng 8,2 triệu đồng. Với lượng vốn vay được như thế, nông hộ có thể sử dụng lượng vốn này đủ cho sản xuất kinh doanh với diện tích trung bình 0,7 ha/hộ. Tuy nhiên, để được số tiền trên, người nông dân phải bỏ ra trung bình 50.000 đồng để có được món vay 8,2 triệu đồng thì điều này có thể làm ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn tín dụng chính thức này do 50.000 đồng đối với người nông dân sản xuất thì đó không phải là món tiền nhỏ. Các món vay có thời hạn trung bình là 13 tháng, lãi suất cho vay trung bình của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là 1,19%/tháng và Ngân hàng Chính sách xã hội là 0,64%/tháng. Điều này có thể lý giải kết quả điều tra thể hiện trong bảng 4.2 rằng do lãi suất cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội thấp hơn nên đa số hộ ở đây chọn việc vay từ Ngân hàng Chính sách nhiều hơn. c) Mục đích xin vay và tình hình sử dụng vốn Theo kết quả điều tra cho thấy, có 96,43% số trường hợp xin vay với mục đích phục vụ sản xuất và chỉ có 3,57% số hộ xin vay với mục đích khác. Điều này là hoàn toàn hợp lý trong cho vay nông hộ vì các Ngân hàng ít khi cho vay với mục đích tiêu dùng hay một số mục đích nào khác như sửa nhà, mua xe, sang đất… trừ những khách hàng thân quen và có uy tín. Bảng 4.3: Mục đích xin vay và tình hình sử dụng vốn Đvt: % Sản xuất Tiêu dùng Kinh doanh Khác Mục đích xin vay 96,43 0,00 0,00 3,57 Tình hình sử dụng 81,51 4,46 7,14 6,89 Nguồn: Thống kê từ kết quả điều tra Về tình hình sử dụng vốn vay, mặc dù người đi vay ghi trong đơn xin vay với mục đích sản xuất là chủ yếu và đây cũng là yếu tố để Ngân hàng xem xét quyết định cho vay, nhưng bởi vì các Ngân hàng không thể quản lý hết được tình hình sử dụng vốn của tất cả các khách hàng của mình. Do đó, từ bảng 4.3 ta thấy có khoảng 81,51% hộ vay sử dụng vốn đúng mục đích xin vay, đó là vay để sản xuất, 7,14% hộ vay về để kinh doanh như buôn bán nhỏ, 6,89% sử dụng vốn vay để làm các mục đích khác như mua máy móc, đất đai, xây nhà và 4,46% số hộ vay sử dụng vốn cho mục đích tiêu dùng. 4.2. CÁC BIẾN ĐƯỢC CHỌN VÀ LÝ DO CHỌN BIẾN Việc tiếp cận tín dụng có thể chịu tác động bới các yếu tố như giá trị tài sản của hộ, diện tích đất mà hộ nắm giữ, số diện tích đất có bằng đỏ, giới tính của chủ hộ, tuổi của chủ hộ, trình độ học vấn, việc có quen biết hoặc có người thân làm trong tổ chức tín dụng, có chức vụ trong làng xã, có tham gia các tổ chức kinh tế xã hội trong làng xã, thu nhập và chi tiêu trung bình hàng năm của hộ, số thành viên trong hộ, số người phụ thuộc trong hộ. Mỗi yếu tố có thể tác động khác nhau đến khả năng tiếp cận nguồn tín dụng chính thức. Lý do chọn các biến trên để nghiên cứu được giải thích như sau: - Tài sản của hộ là biến độc lập đo lường giá trị tài sản của hộ về mặt tiền tệ sau khi trả nợ. Những hộ có giá trị tài sản càng cao thì có khả năng vay được tín dụng bởi vì họ có khả năng đảm bảo được các rủi ro cho Ngân hàng nhiều hơn khi họ đem tài sản của họ thế chấp cho Ngân hàng khi vay. - Thu nhập và chi tiêu trung bình hằng năm của hộ: Có thể thấy rằng những hộ có thu nhập cao thì ít có nhu cầu vay vốn bởi vì nguồn thu nhập của họ có thể đảm bảo được các khoản chi trong trong gia đình. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy những hộ có chi tiêu cao thường có xu hướng vay tiền nhiều hơn (theo Dương và Izumido, 2002). - Diện tích đất của hộ nắm giữ, được đo bằng 1.000m2. Biến này bao gồm cả đất ruộng, đất vườn, diện tích căn nhà và các loại đất khác. Đất có thể được sử dụng để thế chấp vay vốn từ nguồn chính thức. Hộ có diện tích đất càng lớn thì càng có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng. - Giới tính của chủ hộ: Biến này là biến giả với giá trị 1 có nghĩa chủ hộ là nam giới và giá trị 0 có nghĩa chủ hộ là nữ giới. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ không thích vay tiền từ các tổ chức tín dụng chính thức, thay vào đó, họ thường thích vay tiền từ các chương trình tín dụng dành cho phụ nữ (theo Đạt, 1998). - Tuổi tác của chủ hộ: Tuổi của chủ hộ càng cao thì chủ hộ càng có tài xoay sở, kinh nghiệm, có nhiều tiếng tâm và càng có nhiều trách nhiệm trong gia đình. Vì thế tuổi của chủ hộ càng lớn thì họ càng đồng tình trong việc tiếp cận vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Ngược lại, những người trẻ tuổi thường có khuynh hướng tiêu dùng nhiều hơn tiết kiệm, do đó họ thường đi vay mượn từ nguồn khác nhiều hơn. Theo kết quả nghiên cứu thì các chủ hộ trẻ tuổi khó có thể vay vốn bởi vì họ ít có tiếng tâm và thiếu kinh nghiệm (theo Trang, 2003). - Trình độ học vấn: được hiểu là số năm đến trường của chủ hộ. Những chủ hộ có trình độ học vấn càng cao thì khả năng tính toán đầu tư hiệu quả hơn và khả năng đem lại thu nhập cũng cao hơn. Theo một nghiên cứu cho thấy những chủ hộ có trình độ học vấn càng cao thì khả năng tiếp cận nguồn tín dụng chính thức của họ nhiều hơn (theo Nguyễn, 2001) - Hộ có tham gia các tổ chức kinh tế xã hội trong làng xã: Đây là biến giả, biến này nhân giá trị 1 có nghĩa là hộ có tham gia các tổ chức kinh tế xã hội và ngược lại thì nhận giá trị 0. Thông thường, những hộ có tham gia nhiều tổ chức kinh tế xã hội sẽ có nhiều quen biết và được nhiều người biết đến, bên cạnh đó, khi họ tham gia các tổ chức này thì họ có thể có khả năng tiếp cận được nguồn tín dụng chính thức cao hơn so với những hộ không tham gia. L‎ý giải vấn đề này như sau: hộ tham gia tổ chức kinh tế xã hội thì hộ có thể vay tiền thông qua các tổ chức này vì các tổ chức này có thể đại diện cho một nhóm thành viên nào đó xin vay tiền thông qua uy tín và tiếng tâm của tổ chức trong xã hội. - Hộ có mục đích xin vay sản xuất: Đây cũng là biến giả, nhận giá trị 1 nếu hộ xin vay tiền phục vụ cho mục đích sản xuất và nhận giá trị 0 nếu hộ xin vay vì các mục đích khác. Những hộ vay tiền với mục đích sản xuất có khả năng nhận được lượng vốn vay nhiều hơn so với những hộ xin vay với mục đích khác. Vì hộ vay với mục đích sản xuất thì họ sẽ sử dụng số tiền vay được vào sản xuất và ít có trường hợp họ sẽ sử dụng số tiền vay vào mục đích khác. Khi họ đầu tư tiền vào sản xuất nhiều thì thu nhập từ các khoản đầu tư: trồng lúa, chăn nuôi, sản xuất khác có thể đem lại lợi nhuận cao và họ có thể trả được lãi và tiền vay. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng chính thức như Ngân hàng ít cho vay tiêu dùng hay các mục đích khác đối với nông hộ vì vay tiêu dùng hay mục đích khác thì họ sẽ khó có khả năng trả nợ và lãi, nếu có cho vay với những mục đích khác thì giá trị món vay cũng thường nhỏ. - Số người phụ thuộc trong hộ: Đây là những thành viên ngoài độ tuổi lao động trong các hộ gia đình, lứa tuổi này bao gồm những người dưới 15 tuổi và trên 60 tuổi. Số người phụ thuộc trong hộ càng nhiều thì khả năng tiếp cận tín dụng cũng như lượng vốn vay từ nguồn tín dụng chính thức sẽ thấp. - Đất có bằng đỏ: Đây là biến giả. Biến này nhận giá trị bằng 1 nếu hộ có bằng đỏ, ngược lại hộ không có bằng đỏ thì biến này nhận giá trị 0. Những hộ có bằng đỏ quyền sử dụng đất có thể thế chấp nó để vay vốn từ ngân hàng. Thêm vào đó, ta có thể khẳng định rằng những hộ có bằng đỏ quyền sử dụng đất thì càng dễ tiếp cận nguồn tín dụng chính thức. - Quy mô của hộ (số thành viên trong hộ): Số thành viên trong hộ càng đông thì chi tiêu của hộ càng cao dẫn đến nhu cầu vay vốn của hộ cũng cao. Tuy nhiên, những hộ có nhiều thành viên cuộc sống thường khó khăn hơn so với những hộ ít thành viên, do đó tuy họ có nhu cầu vay vốn nhưng do cuộc sống khó khăn nên họ có thể khó có khả năng tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức. Theo nghiên cứu của Okurut được thực hiện năm 2006 ở Mỹ cho thấy số thành viên trong hộ có tác động tốt đến khả năng tiếp cận tín dụng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Hà được thực hiện năm 1999 ở Việt Nam lại cho kết quả hoàn toàn ngược lại. Do đó, quy mô của hộ có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ như thế nào vẫn chưa có thể kết luận được. Biến này sẽ được xem xét việc tác động đến khả năng tiếp cận nguồn tín dụng chính thức một lần nữa trong mô hình nghiên cứu này. 4.3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU Đề tài này sẽ ứng dụng mô hình Probit để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ. Biến phụ thuộc của mô hình hồi quy này là việc nông hộ có vay hay không, việc này được giải thích như sau: Covaykhong = 1 nếu nông hộ có vay vốn từ tổ chức tín dụng chính thức = 0 nếu hộ không vay từ tổ chức tín dụng chính thức Dấu kỳ vọng của các biến giải thích sử dụng trong mô hình Probit về khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ được tổng hợp như bảng sau: Bảng 4.4: Tổng hợp các biến với dấu kỳ vọng xem xét trong mô hình Probit Biến Ký hiệu Đơn vị Dấu kỳ vọng Giá trị tài sản của hộ Taisan ngàn đồng + Thu nhập trung bình một năm của hộ Thunhap ngàn đồng + Chi tiêu trung bình một năm của hộ Chitieu ngàn đồng + Tổng diện tích đất hộ nắm giữ Tongdtdat 1.000m2 + Giới tính của chủ hộ Gtinhchuho nam = 1 + Chủ hộ có trình độ học vấn là tiểu học Tieuhoc có = 1 - Hộ có bằng đỏ quyền sử dụng đất Cobangdo có = 1 + Số người phụ thuộc trong hộ Phuthuoc người - Ngoài ra, đề tài này còn sử dụng mô hình Tobit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lượng vốn mà hộ vay được từ tổ chức tín dụng chính thức. Mô hình này có dạng như sau: Yi = Y* = β1 + β2Xi + ui nếu Y* > 0 = 0 nếu không thuộc trường hợp trên Trong mô hình này, Yi lượng vốn vay từ các tổ chức tín dụng chính thức mà hộ nhân được. Xi là các biến độc lập tác động đến lượng vốn vay bao gồm: giá trị tài sản của hộ, thu nhập, chi tiêu của hộ, tổng diện tích đất mà hộ nắm giữ, giới tính chủ hộ, tuổi chủ hộ, chủ hộ có trình độ học vấn là tiểu học, hộ có tham gia tổ chức kinh tế xã hội trong làng xã, hộ có mục đích xin vay vốn phục vụ cho sản xuất, số người trong độ tuổi phụ thuộc và hộ có bằng đỏ quyền sử dụng đất. Dấu kỳ vọng của các biến giải thích được đưa vào mô hình Tobit về lượng vốn vay được tổng hợp như sau: Bảng 4.5: Tổng hợp các biến với dấu kỳ vọng xem xét trong mô hình Tobit Biến Ký hiệu Đơn vị Dấu kỳ vọng Giá trị tài sản của hộ Taisan ngàn đồng + Thu nhập t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và hiệu quả sử dụng vốn vay của nông hộ ở huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.doc
Tài liệu liên quan