Từkhi thành lập đến nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy trải
qua nhiều bước thăng trầm. Những năm trước đây, do ngành kiến thiết, xây dựng
cơbản chưa phát triển mạnh, việc sản xuất và tiêu thụxi măng của nhà máy tăng
chậm. Những năm gần đây, nền kinh tếnước ta đang trên đường phát triển, các
chính sách kinh tếngày một đổi mới thông thoáng hơn nhằm tạo điều kiện cho
Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tếkhu vực và trên thếgiới. Theo đà trên, mức
tăng trưởng của ngành công nghiệp xây dựng tăng lên đáng kể, từ đó tạo điều kiện
thuân lợi cho việc sản xuất, kinh doanh xi măng của nhà máy. Bên cạnh đó nhà
máy xi măng An Giang luôn xem việc nộp ngân sách Nhà nước là nghĩa vụtrọng
tâm hàng đầu, nhà máy luôn nộp thuế đủ, đúng hạn, không đểxảy ra tình trạng nợ
thuếtồn đọng.
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích doanh thu, lợi nhuận của nhà máy xi măng An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến hành phân
tích doanh thu và lợi nhuận. Trên cơ sở đó, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong
công tác quản lý, và tìm ra biện pháp sát thực để hạn chế, khắc phục mặt yếu, tăng
cường phát huy các mặt mạnh, khai thác triệt để mọi khả năng tiềm tàng nhằm
nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh.
3.1. PHÂN TÍCH DOANH THU CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
QUA 3 NĂM (2001, 2002, 2003).
3.1.1. Phân tích chung về tình hình doanh thu của nhà máy qua 3 năm
2001, 2002, 2003:
3.1.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của
nhà máy:
Sản phẩm Nhà máy xi măng An Giang bao gồm một phần xi măng An
Giang và một phần gia công cho khách hàng. Để đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch doanh thu, ta lập bảng sau:
Bảng 3: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu 3 năm 2001, 2002, 2003:
ĐVT: 1000 đồng
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Chỉ tiêu
doanh
thu Kế hoạch
Thực
hiện
% thực
hiện
Kế
hoạch
Thực
hiện
% thực
hiện
Kế
hoạch
Thực
hiện
% thực
hiện
Xi măng
An Giang 69.000.000 60.251.552 87.3% 81.700.000 91.246.783 111.7% 106.182.000 115.063.051 108.4%
Gia công
xi măng 6.500.000 11.105.430 170.9% 14.300.000 13.470.026 94.2% 22.100.000 17.295.991 78.3%
Cung cấp
dịch vụ 2.954.900 793.790 1.023.239
Tổng 75.500.000 74.311.882 98.4% 96.000.000 105.510.599 109.9% 128.282.000 133.382.281 104.0%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001,2002,2003)
Qua số liệu bảng 3 ta thấy:
- Năm 2001, tổng doanh thu cả năm chỉ đạt 98,4% so với kế hoạch. Xét cụ
thể từng sản phẩm:
+ Xi măng An Giang: doanh thu thực hiện chỉ bằng 87,3% kế hoạch đề ra.
+ Gia công xi măng: doanh thu đạt 170,9%, vượt xa mức kế hoạch.
+ Cung cấp dịch vụ: đây là khoản phát sinh thêm khi khách hàng có nhu
cầu, nhà máy không lập kế hoạch cho hoạt động này.
Như vậy, lượng xi măng An Giang tiêu thụ thấp hơn kế hoạch đề ra, do sản
phẩm này còn mới trên thị trường, trong khi người tiêu dùng đã quen sử dụng loại
xi măng có từ lâu như xi măng Hà Tiên, xi măng Sao Mai…nên chưa mạnh dạn sử
dụng. Lượng xi măng gia công tăng nhờ chất lượng xi măng gia công tương đối
tốt.
Tuy nhiên, giá gia công xi măng thấp hơn giá bán xi măng An Giang cho nên
doanh thu gia công dù vượt kế hoạch đến 70,9% nhưng vẫn không đủ bù đắp được
phần doanh thu thiếu kế hoạch của xi măng An Giang. Mặt khác, doanh thu từ
cung cấp dịch vụ là 2.954.900 nghìn đồng đã góp phần đáng kể vào việc tăng tổng
doanh thu thực tế, nhờ đó tổng doanh thu đạt 98,4% so với kế hoạch.
- Năm 2002, tổng doanh thu của nhà máy vượt kế hoạch đề ra, đạt 109,9%.
Đạt kết quả khả quan này là do:
+ Xi măng An Giang: doanh thu đạt 111,7% kế hoạch nhờ trong
năm này nhà máy xi măng An Giang tăng sản lượng sản xuất đồng thời thực hiện
đẩy mạnh việc tuyên truyền quảng cáo sản phẩm.
+ Gia công xi măng: doanh thu năm này đạt 94,2%, thấp hơn so với
kế hoạch chút ít. Nguyên nhân là do, rút kinh nghiệm từ năm trước nhà máy đã đề
ra chỉ tiêu kế hoạch khá cao, doanh thu thực tế đạt được tỷ lệ này cho thấy nhà
máy đã nỗ lực rất nhiều để hoàn thành kế hoạch đề ra.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu từ hoạt động này đạt 793.790 nghìn
đồng, tuy không nhiều nhưng đã góp phần giúp tổng doanh thu vượt mức kế
hoạch.
- Năm 2003, tổng doanh thu đạt 103,9%, vượt mức kế hoạch 3,9%. Cụ thể:
+ Xi măng An Giang: doanh thu đạt 108,4% kế hoạch.
+ Gia công xi măng: doanh thu đạt 78,3% kế hoạch.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu là 1.023.239 nghìn đồng.
Doanh thu tăng hơn kế hoạch thể hiện những nỗ lực của nhà máy trong
khâu tiêu thụ sản phẩm khi mà thị trường vật liệu xây dựng luôn diễn ra sự cạnh
tranh gay gắt. Trong khi đó, do có sự thay đổi từ các đơn vị khách hàng, lượng xi
măng gia công giảm hơn kế hoạch rất nhiều. Tuy nhiên, giá bán xi măng cao hơn
giá gia công, nên với lượng vượt kế hoạch của xi măng An Giang và phần doanh
thu phát sinh từ cung cấp dịch vụ đã giúp cho tổng doanh thu kỳ thực hiện không
chỉ đạt mà còn vượt kế hoạch.
Như vậy, qua 3 năm 2001, 2002, 2003, tình hình thực hiện kế hoạch doanh
thu là khá tốt. Trừ năm 2001 doanh thu đạt xấp xỉ mức kế hoạch, các năm sau đều
vượt kế hoạch đề ra. Sở dĩ đạt được kết quả khả quan này là do nhà máy nắm bắt
được nhu cầu tăng lên không ngừng của thị trường vật liệu xây dựng, đẩy mạnh
khâu tiêu thụ như quảng cáo, khuyến mãi…Sản phẩm xi măng An Giang do nhà
máy sản xuất dần tìm được chỗ đứng trên thị trường, có khả năng cạnh tranh cùng
với các sản phẩm khác.
3.1.1.2. Đánh giá tình hình doanh thu thực tế của Nhà máy xi măng
An Giang 3 năm 2001, 2002, 2003:
Ta đánh giá tình hình doanh thu thực tế của nhà máy thông qua bảng sau:
Bảng 4:Tình hình doanh thu thực tế qua 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch
2002/2001
Chênh lệch
2003/2002 Chỉ tiêu doanh
thu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Xi măng An Giang 60.251.552 91.246.783 115.063.051 30.995.231 51,4% 23.816.268 26,1%
Gia công xi măng 11.105.430 13.470.026 17.295.991 2.364.596 21,3% 3.825.965 28,4%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 793.790 1.023.239 -2.161.110 -73,1% 229.449 28,9%
Tổng 74.311.882 105.510.599 133.382.281 31.198.717 42,0% 27.871.682 26,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Qua số liệu bảng trên ta thấy:
- Năm 2002, doanh thu thực tế tăng 42% tương ứng với 31.198.717 nghìn
đồng so với năm 2001. Việc tăng là do:
+ Đối với sản phẩm xi măng An Giang: doanh thu năm 2002 tăng hơn năm 2001
là 30.995.231 nghìn đồng với tỷ lệ tăng là 51,4%.
+ Đối với gia công xi măng: doanh thu năm 2002 tăng hơn 2001 là
2.364.596 nghìn đồng với tỷ lệ tăng là 21,3%.
+ Về cung cấp dịch vụ: so với năm 2001, doanh thu giảm rất nhiều, tỷ lệ
giảm là 73,1% tương ứng với 2.161.110 nghìn đồng.
- Sang năm 2003, doanh thu tiếp tục tăng 27.871.682 nghìn đồng tức tăng
26,4%. Nguyên nhân là do doanh thu của các sản phẩm và dịch vụ trong năm này
đều tăng, cụ thể là:
+ Xi măng An Giang: doanh thu tăng 23.816.268 nghìn đồng, tỷ lệ là 26,1%.
+ Gia công xi măng: doanh thu tăng 3.825.965 nghìn đồng, tỷ lệ tăng 28,4%.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu tăng 229.449 nghìn đồng, tỷ lệ tăng là 28,9%.
Nhìn chung, với việc tăng doanh thu hàng năm cho thấy nhà máy hoạt động
khá hiệu quả. Tất cả những kết quả trên có được là do theo đà phát triển chung của
đất nước, ngành công nghiệp xây dựng trong tỉnh và trong khu vực đồng bằng
sông Cửu Long cũng phát triển khá mạnh. Nhu cầu về sửa chữa, xây dựng các
công trình, nhà ở tăng mạnh nên cùng với các vật liệu xây dựng khác, nhu cầu về
xi măng cũng gia tăng. Mặt khác, việc tăng doanh thu của nhà máy còn do nhà
máy mạnh dạn đầu tư thiết bị công nghệ mới nâng cao trình độ đội ngũ công nhân,
thực hiện tốt công tác tiếp thị, chất lượng sản phẩm lại tương đối tốt. Như vậy, nhà
máy xi măng An Giang ngày càng khẳng định mình, tìm được chỗ đứng trên thị
trường. Biểu đồ doanh thu qua các năm cho chúng ta thấy rõ hơn nỗ lực của nhà
máy trong khâu tiêu thụ, nâng doanh số bán ngày một cao hơn:
* Biểu đồ 1:
Biểu đồ biểu diển doanh thu qua các năm
60.252
91.247
115.063
11.105 13.470
17.296
2.955 794 1.023
0
20.000
40.000
60.000
80.000
100.000
120.000
140.000
2001 2002 2003
Năm
Triệu đồng
Xi măng An Giang
Gia công xi măng
Cung cấp dịch vụ
Ta có thể thấy rằng doanh thu của nhà máy đều tăng qua các năm nhưng
tốc độ tăng doanh thu giữa các năm không đều, thể hiện qua biểu đồ sau:
* Biểu đồ 2:
Biểu đồ tốc độ tăng doanh thu 3 năm
74.319
105.511
133.382
200320022001
0
20.000
40.000
60.000
80.000
100.000
120.000
140.000
160.000
Năm
Triệu đồng
- Đường biểu diễn doanh thu đi lên thể hiện sự gia tăng doanh thu qua các
năm. Từ năm 2001 đến năm 2002 độ dốc đường doanh thu cao do doanh thu tăng
với tốc độ 42% đến năm 2003 độ dốc giảm xuống chứng tỏ doanh thu đã tăng
chậm lại với tốc độ là 26,4%.
- So với năm 2002, năm 2003 tốc độ tăng doanh thu của gia công xi măng
và cung cấp dịch vụ đều tăng lên đáng kể. Trong khi đó sản phẩm xi măng An
Giang gặp sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, người tiêu dùng vẫn chưa mạnh
dạn sử dụng nên doanh thu do bán xi măng An Giang tăng không cao.
- Việc tốc độ tăng doanh thu do gia công xi măng tăng 7%, tốc độ tăng
doanh thu do bán xi măng giảm 25,3% đã làm cho tốc độ tăng của tổng doanh thu
chậm lại. Điều này cho thấy để đạt tốc độ tăng trưởng cao, đòi hỏi khâu tiêu thụ xi
măng An Giang phải phát huy hơn nữa.
* Với những kết quả trên, tình hình doanh thu thực tế trong 3 năm 2001,
2002, 2003 rất khả quan, nhà máy không ngừng nâng cao doanh số, mỗi năm mỗi
tăng. Ngoài doanh thu từ cung cấp dịch vụ có giảm nhưng không ảnh hưởng đáng
kể vì đây là hoạt động phát sinh thêm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, còn doanh thu từ các
sản phẩm khác đều tăng chứng tỏ nhà máy đang phát triển với xu hướng tích cực.
3.1.1.3. Phân tích doanh thu theo khối lượng tiêu thụ:
Sản phẩm được tiêu thụ, khi đó nhà máy ghi nhận có doanh thu. Doanh thu
chính là biểu hiện bằng giá trị của sản lượng tiêu thụ.
Xét tình hình tiêu thụ của nhà máy thông qua:
Bảng 5: Khối lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch
2002/2001
Chênh lệch
2003/2002 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Sản lượng
sản xuất 57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
Sản lượng
tiêu thụ 57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
(Nguồn: Bảng tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)
Qua bảng trên ta thấy:
- Sản lượng tiêu thụ năm 2002 tăng nhiều so với năm trước. Tổng giá trị
tiêu thụ tăng là 28.678.456 nghìn đồng tỷ lệ tăng là 49,5%. Thành phẩm nhập để
tiêu thụ cũng tăng cao với giá trị tăng là 29.260.590 nghìn đồng ứng với tỷ lệ tăng
là 50,9%.
- Năm 2003, sản lượng tiêu thụ tăng hơn năm 2002 là 13.294.401nghìn
đồng tức tăng 15,3%. Sản phẩm sản xuất cũng tăng khoảng 16,4% tương ứng
14.242.387 nghìn đồng.
Như vậy sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng qua các năm. Sở dĩ đạt được
tình hình khả quan như trên là do nhà máy đã nắm bắt dược nhu cầu thiết yếu về
kiến thiết, xây dựng cơ bản đang phát triển mạnh, từ đó điều chỉnh kịp thời hoạt
động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, điều kiện thực tế của nhà máy thuận lợi để
tăng cường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vào tháng 2 và tháng 12, nhà máy
đã chính thức đưa hai dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất. Bên cạnh việc tăng
sản xuất, nhà máy còn mở rộng thêm một số đại lý trong và ngoài tỉnh để thúc đẩy
tiêu thụ sản phẩm. Sự thành công trong việc gia tăng sản lượng tiêu thụ, chứng tỏ
công tác tiêu thụ của nhà máy đã được tổ chức hợp lý.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm: trước đây, thị trường tiêu thụ chủ yếu của
nhà máy là tỉnh An Giang (70% sản lượng tiêu thụ là ở trong tỉnh nhà), đến nay
nhà máy đã mở rộng thị trường ra các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, chỉ
đến năm 2003, nhà máy mới phân sản lượng tiêu thụ theo địa bàn để dễ theo dõi:
Bảng 6: Doanh thu tiêu thụ theo từng thị trường năm 2003
ĐVT: 1000 đồng
Doanh thu Thị trường Giá trị Tỷ lệ (%)
An Giang 44.494.882 38,67
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 40.456.169 35,16
Tp.Hồ Chí Minh 18.939.378 16,46
Bình Dương 5.131.812 4,46
Tây Ninh 6.040.810 5,25
Tổng 115.063.051 100
Nguồn: Bảng sản lượng tiêu thụ theo địa bàn năm 2003
Như vậy, thị trường chủ yếu vẫn là trong tỉnh nhà, tuy nhiên tỷ trọng trong
doanh thu của thị trường này đã giảm đi, đồng thời tỷ trọng của thị trường đồng
bằng sông Cửu Long tăng lên đáng kể. Tiếp đó, một thị trường đầy hứa hẹn là
thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 16,46% trong tổng doanh thu tiêu thụ của nhà
máy.
Tóm lại, qua xem xét chỉ tiêu doanh thu ba năm gần đây, cho thấy nhà máy
xi măng An Giang có nhiều chuyển biến tích cực, doanh thu thực tế hoàn thành
được kế hoạch đề ra, và năm sau tăng hơn năm trước. Sản phẩm của nhà máy bán
ra trên thị trường ngày càng nhiều hơn. Nhà máy đang từng bước củng cố thị
trường, chiếm được thị phần khá cao trong tỉnh và trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long. Việc gia tăng sản lượng của nhà máy đã tác động trực tiếp đến việc gia
tăng doanh thu, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm và sử dụng lao động hợp lý.
3.1.2. Phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu:
3.1.2.1. Khối lượng sản xuất và tiêu thụ:
Sản xuất và tiêu thụ là hai giai đoạn của một quá trình sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm tiêu thụ nhanh chóng thúc đẩy sản xuất phát triển, sản phẩm sản xuất
đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giá thành hạ, giá bán đủ sức cạnh
tranh trên thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh chóng. Tiêu thụ nhanh
chóng khối lượng lớn tạo điều kiện tăng doanh thu.
- Phân tích hệ số sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:
DTBH & CCDV
óa
= Hệ số tiêu thụ sản p
(DTB
Thực hiện tí
của nhà máy 3 năm
Bảng 7: Hệ số
Ch
DTBH & CCDV
Giá trị sản phẩm
Hệ số tiêu thụ s
(Nguồn: Bảng tồn
Hệ số tiêu t
hiện rất tốt chứng t
Nói cách khác, sản
phẩm sản xuất ra ch
cần mở rộng quy m
xi măng cho xây dự
- Phân tích t
Tình
Thông qua
2001, 2002, 2003:
∆TK0
∆TK0
∆TK0Giá trị hàng h
sản xuất
hẩm sản xuất (H)H & CCDV: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ)
nh toán số liệu, ta lập bảng hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất
2001, 2002, 2003:
tiêu thụ sản phẩm sản xuất ĐVT: 1000 đồng
ỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
74.311.882 105.510.599 133.382.281
sản xuất 57.498.899 86.759.489 101.001.876
ản phẩm sản xuất 1,29 1,22 1,32
kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)
hụ sản phẩm sản xuất của ba năm đều lớn hơn 1, đây là biểu
ỏ nhịp điệu sản xuất của nhà máy phù hợp nhịp điệu tiêu thụ.
xuất bao nhiêu tiêu thụ bấy nhiêu. Điều này phản ánh sản
ưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng lên của thị trường, vì vậy nhà máy
ô sản xuất, tăng nhanh khối lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
ng.
ình hình tồn đọng sản phẩm:
hình tồn động sản phẩm được tính như sau:
∆TK = Tồn kho cuối kỳ – tồn kho đầu kỳ
bảng 8 (trang 34), ta tính tồn kho thành phẩm của các năm
1 = 15.576 – 500.618 = -485.042 (nghìn đồng)
2 = 112.668 – 15.576 = 97.092 (nghìn đồng)
3 = 1.157.746 – 112.668 = 1.045.078 (nghìn đồng)
Từ kết quả tính toán trên cho thấy lượng tồn kho mỗi năm mỗi tăng, đây
không phải là sự yếu kém trong tiêu thụ mà là do nhà máy tăng cường sản xuất để
một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong kỳ, mặt khác dự trữ phục vụ cho tiêu thụ
sản phẩm kỳ sau. Xét cụ thể:
Bảng 8: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ 3 năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch
2002/2001
Chênh lệch
2003/2002 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Tồn đầu
kỳ 500.618 15.576 112.668 -485.042 -96,9% 97.092 623,3%
Nhập
trong kỳ 57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
Xuất
tiêu thụ 57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
Tồn cuối
kỳ 15.576 112.668 1.157.746 97.092 623,3% 1.045.078 927,6%
(Nguồn: Tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)
- Năm 2001, lượng tồn kho đầu kỳ thấp, việc sản xuất nhập kho ít hơn
lượng xuất tiêu thụ làm cho lượng tồn kho cuối kỳ giảm mạnh, do đó lượng dự trữ
đầu kỳ năm 2002 giảm đến 96,9%.
- Sang năm 2002, lượng dự trữ đầu kỳ giảm nên việc sản xuất được đẩy
mạnh, cùng lúc khâu tiêu thụ cũng được tiến hành tốt, cụ thể lượng nhập trong kỳ
tăng 50,9% và lượng xuất tiêu thụ tăng 49,5%. Tuy nhiên do sản xuất nhiều hơn
tiêu thụ nên lượng tồn kho cuối kỳ tăng cao, so với lượng dự trữ khá thấp năm
2001 thì năm này tăng đến 623,3%. Nhưng lượng dự trữ này không phải là xấu vì
nhu cầu tiêu thụ đang tăng nhanh, nên phải tăng dự trữ đảm bảo cho tiêu thụ kỳ
sau.
- Năm 2003, lượng sản xuất được điều chỉnh tăng 16,4% do nhu cầu tiêu
thụ tăng, lượng tiêu thụ cũng tăng lên 15,3%. Lượng tồn kho cuối kỳ tăng rất cao
đến 927,6%.Việc tăng mạnh lượng dự trữ này do nhà máy dự đoán nhu cầu tiêu
thụ xi măng sẽ vẫn còn cao vào những năm sau nữa.
Như vậy, tình hình dự trữ là hợp lý, chẳng những đáp ứng cho yêu cầu tiêu
thụ trong kỳ mà còn đảm bảo cho kỳ sau. Nhờ đó quá trình trình tiêu thụ được liên
tục và không bị gián đoạn.
3.1.2.2. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ:
Mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường có mức chi phí, giá bán
khác nhau, do đó sự thay đổi trong kết cấu mặt hàng sản xuất sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu. Xét cụ thể qua bảng sau:
Bảng 9: Kết cấu doanh thu năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003Chỉ tiêu
doanh thu Doanh thu Tỷ trọng Doanh thu
Tỷ
trọng Doanh thu
Tỷ
trọng
Xi măng An Giang 60.251.552 81,1% 91.246.783 86,5% 115.063.051 86,3%
Gia công xi măng 11.105.430 14,9% 13.470.026 12,8% 17.295.991 13%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 4% 793.790 0,8% 1.023.239 0,8%
Tổng 74.311.882 100% 105.510.599 100% 133.382.281 100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Qua bảng trên, ta thấy doanh thu xi măng An Giang luôn
chiếm tỷ trọng rất cao, thường chiếm từ 80% trở lên trong tổng doanh thu. Tỷ
trọng doanh thu từ gia công xi măng chiếm trong khoảng 12% đến 15%. Tỷ trọng
này năm 2001 là 14,9%, giảm xuống còn 12,8% vào năm 2002, đến năm 2003
tăng lên chút ít khoảng 13%. Doanh thu cung cấp dịch vụ thường không ổn định
và không có kế hoạch nên tăng giảm không đều. Năm 2001, tỷ trọng của doanh
thu này là 4%, giảm xuống còn 0,8% vào những năm sau.
3.1.2.3. Giá cả sản phẩm:
Trong những năm gần đây, giá xi măng An Giang không có sự biến đổi nào
lớn mặc dù giá nguyên vật liệu (đặc biệt là clinker) đang gia tăng. Nhờ giữ giá ở
mức ổn định này mà nhà máy đảm bảo được khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường. Hiện nay tình hình cạnh tranh trên thị trường vật liệu xây dựng
diễn ra gay gắt, tuy là sản phẩm còn mới mẻ so với các loại xi măng có từ lâu đời
khác, nhưng với lợi thế giá thấp, xi măng An Giang chẳng những tồn tại được mà
còn ngày càng phát triển.
Giá xi măng được giữ ổn định hoặc biến động chút ít xung quanh mức giá
672.000 đồng/tấn, giá bán lẻ từ 38.000 đến 39.500 đồng/bao (bao 50 kg). So với
giá xi măng Sadico Cần Thơ là 760.000 đồng/tấn; và 45.000 đến 50.000
đồng/bao. Do chiến lược thích hợp về giá, lượng xi măng tiêu thụ ngày càng tăng,
theo đó, doanh thu của nhà máy cũng tăng qua các năm.
3.1.2.4. Yếu tố chất lượng:
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, nâng cao chất
lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Bởi vậy chất lượng là yêu
cầu hết sức quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Các
tiêu chuẩn về chất lượng được quy định riêng cho từng loại sản phẩm, từng mặt
hàng cụ thể. Xi măng An Giang đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Đạt chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 6260 : 1997
- Được sản xuất theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 : 2000
Chất lượng sản phẩm chỉ bộc lộ hết khi được tiêu dùng nghĩa là được khách
hàng chấp nhận do tin tưởng vào giá trị sử dụng và thời gian sử dụng. Nâng cao
chất lượng sản phẩm, làm tăng thêm giá trị sử dụng, kéo dài thời gian sử dụng của
sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm nhằm đẩy nhanh tốc
độ chu chuyển vốn, nâng cao mức doanh lợi cho nhà máy, đồng thời giúp nhà máy
giữ vững uy tín của mình.
3.1.2.5. Ảnh hưởng của nhu cầu tiêu dùng đến doanh thu:
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là “thượng đế”, nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng sẽ tác dụng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Mức thu nhập của khách hàng là một yếu tố hết sức quan trọng vì để thỏa
mãn mọi nhu cầu trước hết người dân phải có thu nhập để trang trải các chi phí
phục vụ cho nhu cầu đó. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, cuộc sống của
người dân được nâng lên đáng kể, thu nhập bình quân đầu người trong tỉnh An
Giang các năm qua đều có sự gia tăng (số liệu Cục thống kê tỉnh An Giang)
Năm 2001: GDP/người là: 4.797.000 đồng.
Năm 2002: GDP/người là: 5.407.000 đồng.
Năm 2003: GDP/người là: 6.147.000 đồng.
(Ghi chú: Số liệu năm 2003 là số ước thực hiện)
Thu nhập của người dân tăng lên, theo đó việc chi tiêu cho xây dựng cũng
gia tăng. Theo số liệu thống kê, chi tiêu của người dân dành cho nhà ở trong giai
đoạn 1997 – 1999 là 15,17% đến 2000 – 2003 là 20,5%
Bên cạnh thu nhập của người dân, sự phát triển của ngành công nghiệp xây
dựng cũng không ngừng gia tăng:
Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế tỉnh An Giang
năm 2001, 2002, 2003
Tốc độ tăng trưởng
(% GDP)
Tỷ trọng trong cơ cấu
kinh tế (%) Ngành kinh tế
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Nông-Lâm-Ngư nghiệp 2,1 10,34 2,75 39,9 39,86 37,65
Công nghiệp- Xây dựng 11,65 9,62 12,77 12,2 12,53 12,73
Dịch vụ 7,04 11,02 13,58 47,9 47,61 49,62
Tổng 4,52 10,54 9,13 100 100 100
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh An Giang
Với đà phát triển mới, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh nhà có sự
thay đổi phù hợp với xu thế của thời đại, tỷ trọng của ngành Công nghiệp – Xây
dựng ngày một lớn hơn trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của ngành Công
nghiệp – Xây dựng cũng tăng nhanh. Như vậy, với sự phát triển đầy hứa hẹn của
ngành Công nghiệp – Xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà máy mở rộng quy
mô sản xuất và tăng cường tiêu thụ.
Tóm lại, trong khi nhu cầu xi măng tăng mạnh, sản phẩm xi măng An
Giang được sản xuất có chất lượng cao thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quy định
về chất lượng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu trong tỉnh và trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Điều này lý giải vì sao sản lượng tiêu thụ đều tăng qua
các năm, sản phẩm ngày càng được người tiêu dùng tín nhiệm.
Kết luận chung về tình hình doanh thu của nhà máy:
Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của nhà máy cũng như doanh thu
thực tế đều rất khả quan. Đạt được kết quả như vậy là do nhà máy mạnh dạn đưa
dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao sản lượng sản xuất, đẩy mạnh
tiêu thụ.
Qua phân tích cụ thể tình hình doanh thu của Nhà máy xi măng An Giang,
sự gia tăng doanh thu hàng năm đã chứng tỏ năng lực quản lý của nhà máy cũng
như những chủ trương, chiến lược của nhà máy hiện tại là đúng đắn và cần phát
huy hơn nữa để đạt hiệu quả kinh doanh ngày một cao hơn.
3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN
GIANG QUA 3 NĂM 2001, 2002, 2003:
Xét về góc độ kinh tế, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp,
nói khác lợi nhuận là hiệu quả kinh tế trước tiên mà doanh nghiệp cần phải có.
Các doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh và kết
quả của hoạt động đó. Do vậy mà phân tích lợi nhuận được tiến hành thường
xuyên, cụ thể để phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và cả những mục tiêu
kinh tế khác.
3.2.1. Phân tích chung về tình hình lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003:
Nhiệm vụ chính của nhà máy là sản xuất và gia công xi măng, Ban lãnh
đạo nhà máy đã xác định khâu tiêu thụ là then chốt vì để tồn tại và phát triển, nhà
máy phải bán được hàng hóa:”Chỉ bán cái khách hàng cần, không bán cái mà
mình sẵn có”. Sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng mới được
tiêu thụ nhiều, nhanh và sản phẩm ít bị tồn đọng. Xác định được mục tiêu và
phương kinh doanh trên, Nhà máy xi măng An Giang đã không ngừng tìm kiếm
những thông tin hữu ích, cơ hội mới, thị trường mới để qua đó tăng doanh thu và
tối đa hóa lợi nhuận
3.2.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận:
Các năm qua, nhà máy đã phấn đấu đạt lợi nhuận theo kế hoạch đề ra. Xét
cụ thể qua bảng sau:
Bảng 13: Tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003: ĐVT:1000 đồng
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Chỉ tiêu Kế
hoạch
Thực
hiện
% thực
hiện
Kế
hoạch
Thực
hiện
%
thực
hiện
Kế
hoạch
Thực
hiện
% thực
hiện
Tổng DT 75.500.000 74.585.703 98.8% 96.000.000 105.778.751 110.2% 128.282.000 133.382.334 104.0%
Tổng CP 67.616.000 66.715.353 98.7% 84.750.000 96.365.843 113.7% 115.385.000 120.615.483 104.5%
LNTT 7.884.000 7.870.350 99.8% 11.250.000 9.412.908 83.7% 12.897.000 12.766.851 99%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Qua bảng số liệu trên, ta nhận thấy:
- Năm 2001, doanh thu và lợi nhuận đạt được có thấp hơn so với kế hoạch
đề ra nhưng không nhiều, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của các chỉ tiêu đều xấp xỉ
100%. Sở dĩ doanh thu và lợi nhuận không đạt kế hoạch là do lượng xi măng An
Giang tiêu thụ ít trong khi lượng gia công xi măng tăng mạnh hơn so với kế hoạch
trong khi giá gia công luôn thấp hơn giá bán xi măng.
Tuy nhiên với những chỉ tiêu định sẵn, nhà máy đã cố gắng thực hiện tốt
các hợp đồng gia công, đồng thời chủ động nắm bắt thời cơ, thực hiện thêm loại
hình sản xuất kinh doanh nữa là cung cấp dịch vụ. Tổng doanh thu cung cấp dịch
vụ năm 2001 là 2.954.900 nghìn đồng. Với loại hình kinh doanh này đã góp phần
đáng kể vào thu nhập của doanh nghiệp, giúp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích doanh thu, lợi nhuận của nhà máy xi măng an giang.pdf