Sau khi cắt giảm lượng vốn tín dụng hằng năm đối với các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn không hiệu quả, ngân hàng bắt đầu chú trọng đến cho vay kinh
tếcá thể. Đây là lĩnh vực kinh tếcó đông khách hàng và luôn chiếm tỷtrọng cho
vay cao nhất so với các thành phần kinh tếkhác. Tại ngân hàng Công Thương,
doanh sốcho vay kinh tếcá thể được tổng hợp theo thời gian cho vay và theo
mục đích vay vốn của khách hàng.
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3245 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế cá thể tại ngân hàng Công Thương chi nhánh Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0.270 858.486 218.296 44,4 148.216 20,9
Doanh số thu nợ 1.355.018 1.765.046 1.942.710 410.028 30,3 177.664 10,1
- Cá thể 354.883 697.015 813.184 342.132 96,4 116.169 16,7
Dư nợ 788.751 789.661 858.726 910 0,1 69.065 8,7
- Cá thể 444.638 457.893 503.195 13.255 3,0 45.302 9,9
Nguồn: phòng khách hàng.
Nhìn chung doanh số cho vay tất cả các thành phần kinh tế liên tục tăng.
So với năm 2004, tổng doanh số cho vay năm 2005 đạt 1.765.956 triệu đồng,
tăng 338.663 triệu đồng; trong đó cho vay kinh tế cá thể chiếm 710.270 triệu
đồng, tăng 218.296 triệu đồng. Trong năm 2005 ngoại trừ doanh nghiệp nhà
nước , hầu hết vốn tín dụng của ngân hàng hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh
cho các thành phần kinh tế khác đều tăng. Các doanh nghiệp xây dựng, vận tải có
nhu cầu vay vốn lớn để đầu tư thêm máy móc, phương tiện vận chuyển mở rộng
quy mô hoạt động. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu vay vốn để trang trãi
cho các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên
cạnh việc gia tăng nguồn vốn cho vay các doanh nghiệp trong tỉnh, chi nhánh
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 28 SVTH: Ngô Phạm Duy
cũng gia tăng nguồn vốn hỗ trợ phát triển kinh tế cá thể. Trong năm chi nhánh đã
cấp tín dụng cho nhiều cơ sở sản xuất bánh kẹo, các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ
có nhu cầu đầu tư máy móc, trang thiết bị mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng
phục vụ nhu cầu đang tăng cao trên thị trường. Do đó doanh số cho vay kinh tế
cá thể tăng lên khá cao. Sang năm 2006, tổng doanh số cho vay nói chung, doanh
số cho vay kinh tế cá thể nói riêng tiếp tục tăng, tuy nhiên mức tăng lại không
bằng so với mức tăng của năm trước do điều kiện sản xuất kinh doanh không còn
thuận lợi như trước. Giá cả nhiều mặt hàng đồng loạt tăng giá làm cho chi phí
đầu vào gia tăng, nhiều doanh nghiệp không có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất
như các năm trước. Về phía kinh tế cá thể, do đầu tư sản xuất nông nghiệp trong
thời gian qua chưa mang lại hiệu quả nên ngân hàng đã hạn chế các khoản tín
dụng cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chỉ cho vay đối với các hộ nông dân có
kế hoạch vay vốn phát triển mô hình kinh tế vườn có hiệu quả cao. Vì vậy, doanh
số cho vay cá thể tăng không cao như năm trước. Tổng doanh số cho vay toàn
ngành đạt 2.011.775 triệu đồng, tăng 245.819 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng
13,9%, trong đó kinh tế cá thể tăng 148.216 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 20,9%. Như
vậy, trong 3 năm qua doanh số cho vay kinh tế cá thể cũng liên tục tăng và chiếm
trên 40% tổng doanh số cho vay hàng năm. Điều này cho thấy trong thời gian
qua chi nhánh đang từng bước đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với lĩnh vực kinh
tế cá thể.
Về doanh số thu nợ: do tích cực thực hiện đôn đốc khách hàng thu hồi nợ
nên doanh số thu nợ của chi nhánh liên tục tăng. Năm 2005, doanh số thu nợ tăng
rất nhanh. Số vốn thu hồi của chi nhánh tăng 410.028 triệu đồng với tỷ lệ tăng là
30,3%, trong đó lĩnh vực kinh tế cá thể tăng 342.132 triệu đồng, tỷ lệ tăng là
96,4%. Năm 2006, chi nhánh đã đề cao mục tiêu giảm thiểu số nợ quá hạn, làm
lành mạnh nguồn tài chính ngân hàng chuẩn bị cho quá trình hội nhập và cổ phần
hóa ngân hàng sắp tới nên số nợ thu hồi được tiếp tục tăng. Đến cuối năm 2006
chi nhánh đã thu về được 1.942.710 triệu đồng, tăng 177.664 triệu đồng, trong đó
thu hồi từ lĩnh vực cho vay kinh tế cá thể là 813.814 triệu đồng, tăng 116.169
triệu đồng so với năm 2005. Như vậy, bên cạnh việc tăng doanh số cho vay,
doanh số thu nợ của khu vực kinh tế cá thể cũng tăng rất nhanh. Qua đó cho thấy
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 29 SVTH: Ngô Phạm Duy
lĩnh vực kinh tế này đang rất phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cũng như khả năng
trả nợ cho ngân hàng là rất lớn. Do đó, mục tiêu mở rộng tín dụng cá thể của
ngân hàng trong thời gian qua là rất đúng đắn.
Về dư nợ: cùng với sự tăng lên của doanh số cho vay, số dư nợ hàng năm
cũng liên tục tăng. Năm 2005, dư nợ tăng 910 triệu đồng, tăng 0,1% so với năm
2004. Đến cuối năm 2006, tổng dư nợ đạt 858.726 triệu đồng, tăng 8,7%, trong
đó dư nợ của kinh tế cá thể là 503.195 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 9,9%. Số dư nợ
hàng năm luôn tăng và ở mức thấp hơn nhiều so với doanh số cho vay là biểu
hiện tốt cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và lĩnh vực cho vay
kinh tế cá thể nói riêng.
4.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN
KINH TẾ CÁ THỂ.
4.3.1. Doanh số cho vay kinh tế cá thể.
Sau khi cắt giảm lượng vốn tín dụng hằng năm đối với các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn không hiệu quả, ngân hàng bắt đầu chú trọng đến cho vay kinh
tế cá thể. Đây là lĩnh vực kinh tế có đông khách hàng và luôn chiếm tỷ trọng cho
vay cao nhất so với các thành phần kinh tế khác. Tại ngân hàng Công Thương,
doanh số cho vay kinh tế cá thể được tổng hợp theo thời gian cho vay và theo
mục đích vay vốn của khách hàng.
4.3.1.1. Doanh số cho vay kinh tế cá thể theo thời gian.
Nếu xét theo thời gian, các khoản tín dụng cá thể có thể chia thành ngắn,
trung và dài hạn. Trong 3 năm qua, khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn tỉnh phát
triển khá sôi nổi, nhu cầu vốn đầu tư gia tăng nên tổng doanh số cho vay kinh tế
cá thể đã tăng lên rất nhanh, đặc biệt là doanh số cho vay ngắn hạn.
Năm 2005 tổng doanh số cho vay cá thể tăng 218.296 triệu đồng, tỷ lệ
tăng lên tới 44,4%, trong đó cho vay ngắn hạn tăng 215.401 triệu đồng, tăng
47,4%, cho vay trung và dài hạn chỉ tăng 2.895 triệu đồng, tăng 7,7% (xem bảng
6). Doanh số cho vay ngắn hạn trong năm tăng cao do chi nhánh mở rộng tín
dụng hỗ trợ sản xuất các mặt hàng trọng điểm của tỉnh như: gạo, gốm sứ, gạch
ngói, các mặt hàng thủ công đang có nhu cầu tiêu thụ cao. Nhiều cửa hàng kinh
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 30 SVTH: Ngô Phạm Duy
doanh các mặt hàng thực phẩm, tiêu dùng, dịch vụ cũng có nhu cầu vốn để trang
trãi cho các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của cửa
hàng. Chính vì vậy, doanh số cho vay ngắn hạn trong năm tăng lên rất cao. Bên
cạnh đó, doanh số cho vay trung & dài hạn cũng tăng do trong năm chi nhánh đã
cấp tín dụng cho một số cơ sở sản xuất có nhu cầu vay vốn để mở rộng cơ sở sản
xuất, nâng cao sản lượng để phục vụ nhu cầu tiêu thụ trên thị trường. Do là
những khách hàng truyền thống, tạo được uy tín đối với chi nhánh ngân hàng nên
được ngân hàng chú trọng trong việc cấp vốn hỗ trợ phát triển sản xuất kinh
doanh của họ. Sang năm 2006, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng dành cho kinh
tế cá thể tiếp tục tăng. Tuy không bằng năm trước nhưng mức tăng như vậy cũng
khá cao. Tổng doanh số cho vay cá thể tăng 148.216 triệu đồng, trong đó cho vay
ngắn hạn tăng 147.336 triệu đồng, riêng cho vay trung & dài hạn chỉ tăng 880
triệu đồng. Do tích lũy lợi nhuận từ năm trước nên nhu cầu vốn hỗ trợ từ phía
ngân hàng giảm.
Bảng 5: DOANH SỐ CHO VAY KINH TẾ CÁ THỂ THEO THỜI GIAN.
ĐVT: Triệu đồng.
0
200.000
400.000
600.000
800.000
1.000.000
2004 2005 2006
Trung & dài hạn
Ngắn hạn
HÌNH 4: DOANH SỐ CHO VAY KINH TẾ CÁ THỂ THEO THỜI GIAN
So sánh
2005/2004
So sánh
2006/2005 CHỈ TIÊU 2004 2005 2006
ST % ST %
Ngắn hạn 454.330 669.731 817.067 215.401 47,4 147.336 22,0
Trung & dài hạn 37.644 40.539 41.419 2.895 7,7 880 2,2
Tổng 491.974 710.270 858.486 218.296 44,4 148.216 20,9
Triệu đồng
Năm
Nguồn: phòng khách hàng.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 31 SVTH: Ngô Phạm Duy
Doanh số cho vay kinh tế cá thể liên tục tăng cho thấy số lượng khách
hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Khu vực kinh tế cá thể phát triển đa
dạng các ngành nghề nhưng phần lớn là các ngành nghề có chu kỳ vốn ngắn nên
việc cho vay các cá thể của ngân hàng thường tập trung cho vay ngắn hạn. Ngoài
ra, đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn khả năng xảy ra rủi ro mất vốn
cao hơn nên ngân hàng phải cân nhắc thận trọng trước khi cho khách hàng vay
vốn. Điều này làm hạn chế các khoản tín dụng trung & dài hạn của ngân hàng.
Hiện nay, vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn, nên đầu tư vốn
tín dụng ngắn hạn nhiều sẽ rất an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
4.3.1.2. Doanh số cho vay kinh tế cá thể theo mục đích sử dụng vốn.
Nếu xét theo mục đích sử dụng vốn, các khoản tín dụng của ngân hàng có
thể chia thành mục đích sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, nhà ở. Trong 3 năm qua
doanh số cho vay theo từng mục đích sử dụng vốn có xu hướng tăng. Mức tăng
cụ thể được biểu hiện qua bảng số liệu dưới đây.
Bảng 6: DOANH SỐ CHO VAY KINH TẾ CÁ THỂ THEO MỤC ĐÍCH
SỬ DỤNG VỐN.
ĐVT: Triệu đồng.
So sánh
2005/2004
So sánh
2006/2005 CHỈ TIÊU 2004 2005 2006
ST % ST %
Sản xuất 167.100 245.210 306.176 78.110 46,7 60.966 24,9
Kinh doanh 309.159 442.050 524.699 132.891 43,0 82.649 18,7
Tiêu dùng 15.715 18.352 21.891 2.637 16,8 3.539 19,3
Nhà ở - 4.658 5.720 - - 1.062 22,8
Tổng 491.974 710.270 858.486 218.296 44,4 148.216 20,9
Nguồn: phòng khách hàng
Về Nhu cầu vốn sản xuất:
Nhóm khách hàng vay vốn cho mục đích sản xuất bao gồm các hộ nông
dân sản xuất nông nghiệp và các cơ sở sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như bánh
trung thu, nem, gốm sứ, gạch ngói, các vật dụng bằng tre, nứa,… Với ưu thế của
một tỉnh nông nghiệp đã hỗ trợ rất lớn về nguồn nguyên vật liệu cho các cơ sở
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 32 SVTH: Ngô Phạm Duy
sản xuất. Họ chỉ gặp khó khăn ở phần nguồn vốn để tiến hành sản xuất và ngân
hàng là nơi có thể hỗ trợ vốn cho họ. Trong thời gian qua, nhiều cơ sở sản xuất
trên địa bàn tỉnh đã trở thành những khách hàng quen thuộc của chi nhánh ngân
hàng Công Thương Vĩnh Long. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các cơ sở
sản xuất ngày càng phát triển. Nhu cầu vốn đầu tư của họ cũng ngày một tăng, do
đó các khỏan tín dụng của chi nhánh dùng để hỗ trợ vốn cho nhu cầu sản xuất
cũng tăng theo. Đặc biệt trong năm 2005, các mặt hàng tiêu dùng như gạo, gốm
sứ và các mặt hàng thủ công đan lát tre, nứa, lục bình…có nhu cầu xuất khẩu lớn
nên nhiều cơ sở sản xuất cần lượng vốn vay lớn mở rộng cơ sở, nâng cao sản
lượng. Bên cạnh đó, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng đang phát triển khá
nhanh trong thời gian gần đây. Các sản phẩm nông nghiệp làm ra không chỉ đáp
ứng nhu cầu của người dân trong tỉnh mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Nhiều hộ
nông dân trong tỉnh đã được chi nhánh cấp tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất
như đầu tư phát triển các mô hình chuyên canh vườn cây ăn trái, ao cá nước ngọt,
đặc biệt là ao cá tra, cá basa ở vùng ven khu vực Bắc Cổ Chiên. Nhiều hộ đã sử
dụng vốn vay hiệu quả và mang lại nguồn thu nhập lớn cho gia đình. Điều này đã
tạo thêm động lực phát triển kinh tế gia đình cho các hộ nông dân khác và làm
cho nhu cầu vốn phát triển sản xuất nông nghiệp tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu
đó, chi nhánh đã mở rộng tín dụng vào lĩnh vực nông thôn, nguồn vốn tín dụng
hàng năm dùng để hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp ngày một tăng. Năm
2005, doanh số cho vay phát triển sản xuất cho các hộ nông dân và các cơ sở sản
xuất đạt 245.210 triệu đồng, tăng 78.110 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 46,7%. Sang
năm 2006, chi nhánh tiếp tục hỗ trợ vốn mở rộng cơ sở hoạt động cho các cơ sở
sản xuất bánh trung thu trong tỉnh, như cơ sở sản xuất bánh Tân Huê Viên, Cô
Châu. Tuy không nổi tiếng như các thương hiệu Kinh Đô, Đồng Khánh nhưng
các cơ sở sản xuất bánh trong tỉnh được nhiều người dân lựa chọn do chất lượng
khá tốt và giá cả phù hợp. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng tiếp tục hỗ trợ vốn cho
các hộ nông dân phát triển mô hình chuyên canh cây cam sành, bưởi Năm Roi,
xoài cát,... Đây là các loại trái cây có nhu cầu xuất khẩu cao. Do đó mặc dù
không tăng mạnh như năm trước nhưng doanh số cho vay phát triển sản xuất của
năm 2005 cũng khá cao, tăng 60.966 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 24,9%.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 33 SVTH: Ngô Phạm Duy
0
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
2004 2005 2006
Sản xuất
Kinh doanh
Tiêu dùng
Nhà ở
Nhu cầu vốn kinh doanh:
Trong 3 năm qua, nguồn vốn tín dụng của chi nhánh dùng để hỗ trợ phát
triển kinh doanh liên tục tăng, đặc biệt tăng cao trong năm 2005. Nguyên nhân là
do nhiều cửa hàng bách hoá, các sạp kinh doanh trong các trung tâm chợ lớn, các
shop giày, dép, quần áo thời trang,... có nhu cầu vay vốn nhiều hơn năm trước.
Đặc biệt vào các dịp lễ, tết nhu cầu tiêu dùng tăng cao, hầu hết các hộ kinh doanh
đều cần số vốn lớn để trang bị đầy đủ các loại hàng hoá để phục vụ tối đa nhu
cầu chi tiêu của người dân trong tỉnh. Cũng trong năm 2005, ngân hàng đã cấp
lượng vốn tín dụng lớn cho nhiều nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ có nhu cầu vay
vốn để đổi mới các thiết bị, đồ dùng tiện nghi trong sinh hoạt. Bên cạnh đó chi
nhánh cũng hỗ trợ vốn cho một số khách hàng có nhu cầu mở cửa hàng dịch vụ
vi tính, quán ăn, quán giải khát trong khu vực trung tâm thị xã. Do đó, nguồn vốn
giải ngân trong năm tăng cao, tăng 132.891 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 43%. Sang
năm 2006, ngân hàng cũng tiếp tục hỗ trợ vốn phát triển kinh doanh cho nhiều
khách hàng có nhu cầu vay vốn tìm đến ngân hàng. Tuy nhiên, do tích luỹ lợi
nhuận từ năm trước, nhiều hộ kinh doanh đã tự chủ được một phần vốn đầu tư
cho năm sau nên nhu cầu vốn hỗ trợ từ phía ngân hàng giảm đi. Năm 2006 doanh
số cho vay tăng 82.649 triệu đồng, tăng 18,7% so với năm 2005.
Triệu đồng
Năm
Hình 5: DOANH SỐ CHO VAY KINH TẾ CÁ THỂ
THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG VỐN.
Nguồn: phòng khách hàng.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 34 SVTH: Ngô Phạm Duy
Nhu cầu tiêu dùng: Doanh số cho vay tiêu dùng tăng do nhu cầu vay vốn
cho mục đích tiêu dùng tăng. Trong 3 năm qua, kinh tế Vĩnh Long không ngừng
phát triển với tốc độ tăng trưởng trên 8%. Thu nhập của người dân trong tỉnh
ngày càng tăng, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Nhiều nhu
cầu chi tiêu khác nhau phát sinh từ cuộc sống hằng ngày như: nhu cầu mua sắm
phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch,... Nhưng với thu nhập
hiện tại họ phải mất vài năm tiết kiệm mới có đủ số tiền chi tiêu cho các nhu cầu
trên. Do đó, họ đã tìm đến ngân hàng xin vay vốn. Ưu điểm của nhóm khách
hàng này là họ có thu nhập ổn định. Căn cứ vào thu nhập này, ngân hàng sẽ cấp
một hạn mức tối đa mà ngân hàng có thể cho khách hàng vay vừa đảm bảo an
toàn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ, vừa đảm bảo cho khách hàng có đủ
khả năng chi trả. Bên cạnh đó, do quy mô các khoản vay thường nhỏ, khách hàng
vay tiêu dùng thường ít quan tâm đến lãi suất mà thường quan tâm đến việc có
thể thỏa mãn nhu cầu chi tiêu và số tiền họ phải thanh toán định kỳ. Dựa vào đặc
điểm này ngân hàng có thể cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất cho vay khác.
Thấy được những mặt tích cực này, trong thời gian qua, ngân hàng đã đẩy mạnh
lĩnh vực cho vay này. Làm như vậy, ngân hàng vừa đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng, vừa đa dạng đối tượng cho vay và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Khách hàng mà ngân hàng hướng đến là các cán bộ, công nhân viên có thu nhập
ổn định. Khi có nhu cầu, họ có thể đến ngân hàng xin vay vốn mà không cần
dùng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Ngân hàng sẽ cho họ vay vốn nếu họ
chứng minh được nguồn thu nhập ổn định đảm bảo khả năng chi trả và cam kết
sẽ dùng một phần trong nguồn thu nhập này để trả nợ cho ngân hàng. Hay nói
cách khác, ngân hàng cấp tín dụng cho họ dưới hình thức tín chấp. Ngoài đối
tượng cán bộ, công nhân viên, mọi khách hàng khác đều có thể vay tiêu dùng
nhưng phải có tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, hầu như các cán bộ, nhân viên của các
công ty ngoài quốc doanh tiếp cận với lĩnh vực vay tiêu dùng rất ít vì tâm lý họ lo
ngại đem tài sản thế chấp cho ngân hàng khi món vay nhỏ, họ thích được vay tín
chấp hơn. Còn ngân hàng thì chưa có gì đảm bảo chắc nên không dám cho họ
vay tín chấp. Chính vì vậy, lĩnh vực cho vay tiêu dùng hiện nay ở chi nhánh còn
hạn chế và đa số là phục vụ cho các cán bộ công chức nhà nước. Lượng vốn tín
dụng hàng năm có tăng nhưng tổng số vốn cho vay còn hạn chế.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 35 SVTH: Ngô Phạm Duy
Nhu cầu về nhà ở: Trước đây khi có nhu cầu về sửa chữa, xây dựng nhà ở
người ta thường vay mượn từ người khác hoặc tự để dành, rất ít vay tiền từ ngân
hàng. Khoảng từ năm 2004 trở lại đây, các dịch vụ tiện ích của ngân hàng đã phát
triển với tốc độ khá cao, đã tạo điều kiện cho người dân dễ dàng hơn trong việc
tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng cho nhu cầu cải thiện cuộc sống, trong đó có
nhu cầu về nhà ở. Khi chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao thì nhu cầu này
càng phát triển. Do đó, nhiều ngân hàng đang hướng tới việc cấp tín dụng đáp
ứng nhu cầu về xây dựng, sửa chữa nhà ở cho các hộ gia đình và cá nhân như:
Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín, ngân hàng Kỹ thương, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
ngân hàng Công thương Việt Nam,... Tại chi nhánh ngân hàng Công Thương
Vĩnh Long, từ năm 2005 ngân hàng đã bước đầu tiếp cận với hoạt động cho vay
về lĩnh vực nhà ở. Tuy nhiên, các khoản cho vay để mua nhà, xây dựng hoặc sửa
chữa lớn về nhà ở trong thời gian qua chủ yếu là triển khai thực hiện chính sách
của nhà nước, ưu tiên cho các cán bộ, công chức nhà nước nên số lượng vay vốn
còn hạn chế. Năm 2005, doanh số cho vay đạt 4.658 triệu đồng. Đến cuối năm
2006, mức cho vay tăng lên 5.720 triệu đồng, tức tăng 1.062 triệu đồng so với
năm 2005 với tỷ lệ tăng là 22,8% .
Mặc dù năm vừa qua doanh số cho vay kinh tế cá thể tăng nhanh nhưng so
với tổng doanh số cho vay tất cả các thành phần kinh tế thì doanh số cho vay cá
thể vẫn còn thấp chỉ chiếm trên 40% trên tổng doanh số cho vay toàn ngành,
trong khi khách hàng của đối tượng kinh tế này rất đa dạng. Chính vì vậy, Ban
lãnh đạo ngân hàng cần đưa ra mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng
cá thể trong năm tới.
Tuy nhiên, không phải vì muốn gia tăng doanh số cho vay mà ngân hàng
lơ là trong việc xem xét các yêu cầu vay vốn của khách hàng. Ngược lại trong bối
cảnh hội nhập hiện nay, ngân hàng cần phải xem xét thận trọng các khoản cho
vay để nâng cao chất lượng tín dụng đáp ứng yêu cầu cổ phần hoá ngân hàng sắp
tới. Thực tế ngân hàng vẫn còn gặp phải hai vấn đề khó khăn ảnh hưởng đến việc
gia tăng doanh số cho vay xuất phát từ cả hai phía ngân hàng và khách hàng đó là
uy tín khách hàng và vấn đề tài sản đảm bảo vay vốn. Đặc thù riêng của sản xuất
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 36 SVTH: Ngô Phạm Duy
nông nghiệp là sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thời tiết, bên cạnh đó,
phương pháp nuôi trồng, giá cả phân bón, thuốc trừ sâu cũng ảnh hưởng lớn đến
công việc sản xuất của các hộ nông dân. Thực tế cho thấy, nhiều hộ nông dân
lâm vào tình trạng mắc nợ ngân hàng mà không có khả năng chi trả sau đợt dịch
cúm gia cầm do nguồn thu nhập chính là đàn gia cầm mắc bệnh đã bị tiêu huỷ.
Hay một thực tế khác là ngay khi tất cả các điều kiện đều rất thuận lợi nhưng
người nông dân vẫn phải chịu cảnh được mùa mất giá. Sau khi thu hoạch, họ phải
chấp nhận bán với mức giá hoà vốn thậm chí với mức giá lỗ do trên thị trường
cung sản phẩm đã vượt quá so với mức cầu sản phẩm. Hậu quả kéo theo là họ
không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Hiện tượng cung cao hơn cầu thường
xảy ra đối với các sản phẩm nông nghiệp do đa số người dân còn sản xuất riêng
lẽ, tự phát. Do đó, họ chưa tạo được uy tín, lòng tin đối với ngân hàng, gây tâm
lý lo ngại cho ngân hàng khi cho họ vay vốn.
Một vấn đề khác ảnh hưởng đến doanh số cho vay của ngân hàng là vấn
đề liên quan đến tài sản đảm bảo vay vốn. Đa số khách hàng đến vay vốn ngân
hàng đều yêu cầu họ có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Nếu không đáp
ứng được yêu cầu trên thì họ không được vay vốn. Trường hợp có tài sản đảm
bảo nhưng khả năng mua bán tài sản đó trên thị trường thấp ngân hàng cũng
không xét đơn vay vốn của họ.
Hiện nay, ngân hàng có chính sách phân địa bàn hoạt động cho từng cán
bộ tín dụng. Mỗi cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn nào họ phải nắm vững tình
hình phát triển của địa bàn đó. Như vậy, khi đến vay vốn khách hàng phải trình
bày rõ mục đích sử dụng vốn vay cho cán bộ phụ trách địa bàn đó. Do quen
thuộc địa bàn, cán bộ tín dụng có thể nhận biết được khách hàng có trung thực
trong việc trình bày mục đích vay vốn hay không hoặc phương án sử dụng vốn
vay có hiệu quả hay không. Nếu thấy không hiệu quả hay tài sản đảm bảo khó
phát mãi, ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng.
4.3.2. Doanh số thu nợ kinh tế cá thể
Công tác thu hồi nợ có ý nghĩa rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn vốn
cho hoạt động tái đầu tư sinh lời của ngân hàng. Nếu đồng vốn mà ngân hàng đã
chuyển giao quyền sử dụng cho khách hàng có thể thu hồi theo đúng thời hạn đã
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 37 SVTH: Ngô Phạm Duy
thoả thuận trên hợp đồng tín dụng thì mới đảm bảo điều kiện vật chất cho sự duy
trì và phát triển của ngân hàng.
Trong 3 năm vừa qua, công tác thu hồi nợ rất được sự quan tâm của ban
lãnh đạo ngân hàng, nhờ đó doanh số thu nợ đạt được kết quả khá tốt.
4.3.2.1. Doanh số thu nợ kinh tế cá thể theo thời gian
Doanh số thu nợ của ngân hàng có những biến động khá rõ rệt. Năm 2004
tổng vốn thu hồi từ kinh tế cá thể đạt 354.883 triệu đồng, trong đó thu nợ ngắn
hạn là 296.610 triệu đồng, trung & dài hạn là 58.273 triệu đồng. Doanh số thu nợ
trong năm thấp là do ngân hàng đã cho phép một số cơ sở sản xuất các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ được gia hạn vốn. Dịch cúm gia cầm, dịch bệnh vàng lùn, lùn
xoắn lá và cơn bão lớn đi qua đã làm ảnh hưởng đến các hộ chăn nuôi gia cầm,
các hộ trồng lúa và hoa màu. Từ đó làm cho công tác thu nợ của ngân hàng gặp
nhiều khó khăn. Tuy nhiên qua năm 2005 hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa
bàn có sự chuyển biến tốt. Nhiều khoản nợ cũ và mới được thu hồi làm cho
doanh số thu nợ tăng lên rất cao. Năm 2005, nguồn vốn thu hồi đã tăng lên
342.132 triệu đồng, trong đó thu hồi các khoản nợ ngắn hạn tăng 339.055 triệu
đồng, các khoản nợ trung & dài hạn tăng 3.077 triệu đồng. Sang năm 2006,
nguồn vốn thu hồi tiếp tục tăng. Trong năm ngân hàng thu hồi được 813.184 triệu
đồng, tăng 116.169 triệu đồng so với năm trước. Trong đó thu từ các khoản nợ
ngắn hạn là 739.027 triệu đồng, tăng 103.362 triệu đồng, thu từ các khoản nợ
trung & dài hạn là 74.157 triệu đồng, tăng 12.807 triệu đồng (xem bảng 7 và hình
7 về doanh số thu nợ).
BẢNG 7: DOANH SỐ THU NỢ KINH TẾ CÁ THỂ THEO THỜI GIAN.
ĐVT: triệu đồng.
So sánh
2005/2004
So sánh
2006/2005
CHỈ TIÊU 2004 2005 2006
ST % ST %
Ngắn hạn 296.610 635.665 739.027 339.055 114,3 103.362 16,3
Trung & dài hạn 58.273 61.350 74.157 3.077 5,3 12.807 20,9
Tổng 354.883 697.015 813.184 342.132 96,4 116.169 16,7
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 38 SVTH: Ngô Phạm Duy
0
200.000
400.000
600.000
800.000
1.000.000
2004 2005 2006
Trung & dài hạn
Ngắn hạn
Từ việc tăng lên của doanh số thu nợ cho thấy ngân hàng đã có sự thận
trọng trong việc xem xét các phương án sử dụng vốn vay của khách hàng trước
khi chuyển giao quyền sử dụng vốn cho họ nên đã hạn chế phần nào khả năng
không thu hồi được nợ. Ngoài ra, trong các điều khoản của hợp đồng tín dụng
ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện: "Khi khách hàng vi phạm các điều khoản
của hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn quyền xử lý tài sản để thu hồi
nợ", điều này làm tăng thêm thiện chí trả nợ của khách hàng.
4.3.2.2. Doanh số thu nợ kinh tế cá thể theo mục đích sử dụng vốn.
Doanh số thu nợ theo từng mục đích vay vốn có những chuyển biến tích
cực, trong 3 năm qua số vốn thu hồi có xu hướng tăng. Tình hình tăng cụ thể như
sau:
Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh:
Năm 2004 công tác thu hồi nợ của chi nhánh chưa đạt được kết quả như
mong muốn. Số vốn thu hồi còn bị chậm trễ do nhiều khách hàng vay vốn không
có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn. Trong năm dịch cúm gia cầm bùng phát
trên địa bàn, các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa làm cho nhiều hộ nông dân
mất đi nguồn thu nhập chính trả nợ ngân hàng. Một số cơ sở sản xuất do nguồn
hàng xuất bán chưa thu tiền kịp nên chậm trễ trong việc thanh toán nợ ngân hàng.
Bên cạnh đó, do công tác giải tỏa mặt bằng xây dựng trung tâm bách hóa, nhiều
hộ kinh doanh tạm thời bị mất chỗ mua bán nên không có khả năng trả nợ ngân
Hình 6: DOANH SỐ THU NỢ KINH TẾ CÁ THỂ THEO THỜI GIAN.
Nguồn: Phòng khách hàng
Triệu đồng
Năm
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Ths. Nguyễn Văn Duyệt 39 SVTH: Ngô Phạm Duy
hàng. Vì vậy, doanh số thu nợ trong năm thấp. Sang năm 2005, ngân hàng có sự
quan tâm nhiều hơn công tác thu hồi nợ. Đối với các khoản nợ đến hạn, ngân
hàng tiến hành nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ. Có khi cán bộ tín dụng p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế cá thể tại ngân hàng Công Thương chi nhánh Vĩnh Long.pdf