Từ thực tiễn sản xuất nông nghiệp Huyện Long Hồ cho thấy, tín dụng ngắn hạn thật sự đã đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn bị thiếu hụt của bà con nông dân tại địa bàn huyện. Cho vay hộ sản xuất nông nghiệp đạt được kết quả cao và không ngừng phát triển. Hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp là hoạt động diễn ra thường xuyên tại NHNo & PTNT huyện Long Hồ Tỉnh Vĩnh Long.
Doanh số cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng, bởi vì thực tế tại huyện Long Hồ hầu hết nhu cầu vay vốn của người dân là để bổ sung nguồn vốn tạm thời thiếu hụt, mục đích xin vay là để mua con giống, cây giống, phân bón, thuốc trừ sâu, cải tạo vườn, mua máy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Trong đó, cho hộ sản xuất nông nghiệp vay để làm Kinh tế tổng hợp luôn chiếm phần lớn trong cho vay ngắn hạn. Ngoài ra, các hình thức cho vay khác như trồng trọt, chăn nuôi, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng rất quan trọng, ngân hàng luôn tìm cách để nâng cao doanh số cho vay của các đối tượng này. Cụ thể như sau:
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2030 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích hoạt động tín dụng hộ sản xuát nông nghiệp tạii Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
005, tổng doanh số cho vay tăng đáng kể với tốc độ 27,56% là 282.939 triệu đồng. Cụ thể như sau: cho vay ngắn hạn là 252.758 triệu đồng, chiếm phần lớn doanh số cho vay với tỷ trọng 89,33% tổng doanh số cho vay hộ sản xuất nông nghiệp, so với năm 2004 thì tăng 58.423 triệu đồng, tương ứng tốc độ tăng 30,06% và cho vay trung hạn là 30.181 triệu đồng, chiếm 10,67%, tăng 2.712 triệu đồng, tương ứng tốc độ 9,87%. Đến năm 2006 doanh số cho vay hộ sản xuất nông nghiệp đạt 283.593 triệu đồng, trong đó cho vay ngắn hạn đạt 264.091 triệu đồng, tăng 11.333 triệu đồng, tương ứng tăng 4,48% so với năm 2005. Cho vay trung hạn đạt 19.502 triệu đồng, và có chiều hướng giảm 10.679 triệu đồng, ứng tốc độ giảm 35,38% so với năm 2005.
Doanh số cho vay ngắn hạn hộ sản xuất nông nghiệp
Nhìn vào biểu đồ ở trên, doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng. Để thấy được tỷ trọng của từng thành phần trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn, chúng ta sẽ tiến hành phân tích từng khoản mục trong doanh số cho vay ngắn hạn như sau:
Bảng 8: Doanh số cho vay ngắn hạn hộ sản xuất nông nghiệp
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Số tiền
TT
(%)
Số tiền
TT
(%)
Số tiền
TT
(%)
Số tiền
%
Số tiền
%
Trồng trọt
1.154
0,60
1.941
0,77
2.047
0,78
787
68,20
106
5,46
Chăn nuôi
9.091
4,70
33.572
13,28
49.622
18,79
24.481
269,29
16.050
47,81
KTTH
184.090
95,00
217.245
85,95
212.422
80,44
33.155
18,01
-4.823
-2,22
Tổng
194.335
100,00
252.758
100,00
264.091
100,00
58.423
30,06
11.333
4,48
(Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết 2004, 2005, 2006 - Phòng Kế toán NHN0 & PTNT huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long)
Ghi chú: KTTH (Kinh tế tổng hợp)
Từ thực tiễn sản xuất nông nghiệp Huyện Long Hồ cho thấy, tín dụng ngắn hạn thật sự đã đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn bị thiếu hụt của bà con nông dân tại địa bàn huyện. Cho vay hộ sản xuất nông nghiệp đạt được kết quả cao và không ngừng phát triển. Hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp là hoạt động diễn ra thường xuyên tại NHNo & PTNT huyện Long Hồ Tỉnh Vĩnh Long.
Doanh số cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng, bởi vì thực tế tại huyện Long Hồ hầu hết nhu cầu vay vốn của người dân là để bổ sung nguồn vốn tạm thời thiếu hụt, mục đích xin vay là để mua con giống, cây giống, phân bón, thuốc trừ sâu, cải tạo vườn, mua máy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp…Trong đó, cho hộ sản xuất nông nghiệp vay để làm Kinh tế tổng hợp luôn chiếm phần lớn trong cho vay ngắn hạn. Ngoài ra, các hình thức cho vay khác như trồng trọt, chăn nuôi, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng rất quan trọng, ngân hàng luôn tìm cách để nâng cao doanh số cho vay của các đối tượng này. Cụ thể như sau:
@ Cho vay ngành trồng trọt:
Ngành trồng trọt bao gồm các loại như: trồng lúa, trồng màu, chăm sóc vườn ngắn hạn. Tuy đất đai ở địa bàn Huyện rất màu mỡ thuận lợi cho việc trồng trọt nhưng số lượng vốn vay để trồng trọt luôn chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng doanh số cho vay.
Năm 2004, doanh số cho vay trồng trọt là 1.154 triệu đồng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn là 0,6%. Đối với ngành trồng trọt, nhu cầu vay vốn để phục vụ cho việc trồng trọt là không lớn. Và tỷ trọng này đã có chiều hướng tăng trong tương lai.
Trong năm 2005 tốc độ tăng trưởng đạt 68,20% so với năm 2004. Sang năm 2006, doanh số cho vay tiếp tục tăng và đạt 2.047 triệu đồng, chiếm 0,78% trong doanh số cho vay ngắn hạn với tốc độ tăng trưởng là 5,46% so với năm 2005. Nguyên nhân là do ngày nay, rau màu là loại thực phẩm thiết yếu không thể thiếu trong bữa ăn gia đình, trong thời gian qua một số dịch bệnh xuất hiện trên động vật nên nhu cầu thực phẩm từ thịt gia súc, gia cầm giảm mạnh mà thay vào đó là sự gia tăng nhu cầu về các loại rau quả tươi, sạch, an toàn từ đó đã thúc đẩy ngành trồng trọt của Huyện không ngừng phát triển. Trong thời gian qua Huyện cũng đã có các chính sách khuyến khích người dân trồng rau sạch và sự hướng dẫn tận tình của cán bộ phòng Nông nghiệp nên người dân đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, đã làm doanh thu hàng năm tăng lên, cải thiện được đời sống người dân. Từ đó, người dân tích cực trồng trọt và đòi hỏi phải có vốn, bà con đã tìm đến Ngân hàng để vay vốn, vì vậy mà doanh số cho vay của Ngân hàng tăng lên.
@ Cho vay ngành chăn nuôi
Tuy tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp nhưng nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của chính quyền địa phương trong việc hạn chế và giải quyết vấn đề dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm nên phần nào đã kiềm chế được dịch bệnh và ổn định việc chăn nuôi của Huyện. Và đây cũng là đối tượng được Ngân hàng quan tâm đầu tư theo chỉ đạo về phát triển đàn vật nuôi trong Tỉnh. Cụ thể:
Năm 2004 doanh số cho vay của đối tượng này đạt 9.091 triệu đồng, chiếm 4,7% trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn, năm 2005 doanh số cho vay đạt 33.572 triệu đồng, tăng 24.481 triệu đồng, với tốc độ tăng trưởng 269,29% so năm 2004. Nguyên nhân do trong năm 2005, mặc dù tổng sản lượng ngành chăn nuôi có giảm, trong đó đàn heo, đàn gia cầm giảm mạnh nhưng bù lại đàn bò, đàn dê của Huyện có bước tăng trưởng cao do bò, dê là loài gia súc dễ nuôi, giá bán giảm không đáng kể, chỉ đầu tư về con giống, không phải tốn chi phí cho thức ăn và cho hiệu quả kinh tế khá.
Đến năm 2006, doanh số cho vay trong lĩnh vực này tiếp tục tăng với tốc độ tương đối cao đạt 49.622 triệu đồng, tăng 47,81% so năm 2005. Tốc độ tăng có hướng giảm là do trong năm 2006 số lượng đàn gia súc, gia cầm do bị ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nên đàn gia súc, gia cầm có khuyên hướng giảm đáng kể, tuy có sự hướng dẫn chỉ đạo giải quyết của chính quyền địa phương các cấp nhưng do tâm lý của người chăn nuôi vẫn thật sự chưa an tâm về tình hình dịch bệnh cũng như khi đầu tư vào lĩnh vực này nên tiến độ khôi phục đàn gia súc, gia cầm còn chậm từ đó ảnh hưởng làm giảm tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay ngắn hạn trong lĩnh vực này.
Triệu đồng
@ Cho vay Kinh tế tổng hợp
Hình 6: Biểu đồ biến động doanh số cho vay Kinh tế tổng hợp
Từ bảng số liệu trên cho thấy trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn thì cho vay trong lĩnh vực Kinh tế tổng hợp chiếm tỷ trọng cao nhất với từ trên 80% doanh số cho vay ngắn hạn trở lên. Cụ thể, trong năm 2004, doanh số cho vay trong lĩnh vực này chiếm đến trên 90% trong tổng doanh số cho vay ngắn hạn đạt 184.090 triệu đồng và tiếp tục tăng đáng kể ở năm sau với tốc độ tăng trưởng 18,01%. Hình thức KTTH này đã giúp bà con tăng thêm thu nhập, làm ăn ngày càng thu được nhiều lợi nhuận nên bà con đã mạnh mẽ đầu tư vào lĩnh vực này trong năm 2005 với doanh số cho vay đạt 217.245 triệu đồng, tương ướng tăng 33.155 triệu đồng so với năm 2004. Sang năm 2006 tuy con số này có hướng giảm nhưng không đáng kể. Do trong năm 2006 tiến độ thực hiện chương trình chuyển dịch kinh tế triển khai chậm và có chựng lại, thiên tai, giá cả một số hàng nông sản không ổn định, thị trường tiêu thụ bấp bênh… nên đã ảnh hưởng làm giảm doanh số cho vay trong lĩnh vực này.
Cho vay theo hình thức này mang đến nhiều thuận lợi cho Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng sẽ giảm bớt thời gian và chi phí vì giảm được thủ tục vay nhiều lần của hộ sản xuất nông nghiệp trong cùng một hộ; còn đối với hộ sản xuất thì chủ động hơn, linh hoạt hơn trong việc sử dụng đồng vốn vay sao cho đạt lợi nhuận cao nhất. Cả Ngân hàng và nông dân sẽ giảm được rủi ro khi đầu tư Kinh tế tổng hợp (bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi cá, buôn bán nhỏ kết hợp lại với nhau để đạt hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, các đối tượng này có thể tương trợ cho nhau trong quá trình sản xuất và cùng phát triển), như thế rủi ro sẽ được phân bổ không tập trung vào đối tượng nhất định nào.
Doanh số cho vay trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh doanh số cho vay ngắn hạn, doanh số cho vay trung hạn cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng doanh số cho vay, tuy nhỏ hơn cho vay ngắn hạn nhưng cũng góp phần vào nguồn thu nhập của Ngân hàng.
Bảng 9: Doanh số cho vay trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Trồng trọt
4.444
16,18
6.728
22,29
5.144
26,38
2.284
51,4
-1.584
-23,54
2. Chăn nuôi
4.303
15,66
5.894
19,53
4.698
24,09
1.591
36,97
-1.196
-20,29
3. KTTH
12.594
45,85
30
0,10
67
0,34
-12.564
-99,76
37
123,3
4. Máy NN
6.118
22,27
16.871
55,90
9.411
48,26
10.753
175,76
-7.460
-44,22
5. Cho vay khác
10
0,04
658
2,18
182
0,93
648
6480
-476
-72,34
Tổng cộng
27.469
100,00
30.181
100,00
19.502
100,00
2.712
9,87
-10.679
-35,38
(Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết 2004, 2005, 2006 - Phòng Kế toán NHN0 & PTNT huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long)
Ghi chú: + Máy NN: máy nông nghiệp
+ DSCV: doanh số cho vay
Qua 3 năm, doanh số cho vay trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp không ổn định, tăng trong năm 2005 là 2.712 triệu đồng so với năm 2004 nhưng sang năm 2006 lại giảm xuống còn 19.502 triệu đồng, tương đương giảm 10.679 triệu đồng. Nguyên nhân giảm doanh số cho vay trung hạn là do sự giảm sút đáng kể của cho vay máy NN và các khoản cho vay khác. Và sự biến động cụ thể từng món vay như sau:
@ Cho vay trồng trọt trung hạn
Hình 7: Biểu đồ biến động doanh số cho vay trồng trọt
Như đã phân tích ở trên, doanh số cho vay trung hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số cho vay. Nhưng doanh số cho vay trồng trọt trung hạn lại chiếm tỷ trọng tương đối cao trong doanh số cho vay trung hạn. Do trong thời gian qua trong Huyện đã hoàn thành công tác đê bao, gia cố tu bổ bờ bao, cống bọng cho mùa lũ tới để chống lũ bảo vệ vườn cây ăn trái, giúp bà con yên tâm hơn trong việc đầu tư cải tạo vườn, xoá bỏ những giống cây có giá trị kinh tế thấp mà thay bằng các loại cây có tính chiến lược của địa phương, tạo ra năng suất và sản lượng cao phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việc cải tạo vườn tạp, vườn già cỏi kém hiệu quả ngày càng được quan tâm phát triển mạnh cũng như việc đầu tư chăm sóc, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất và sản lượng.
Năm 2004, doanh số cho vay trồng trọt, cải tạo vườn đạt 4.444 triệu đồng, chiếm 16,18% trong tổng doanh số cho vay trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp. Năm 2005, doanh số này là 6.728 triệu đồng, tăng trên 50% bằng 2.284 triệu đồng so với năm trước.
Đến năm 2006, doanh số này có xu hướng giảm và đạt 5.144 triệu đồng, giảm 1.584 triệu đồng, ứng với tốc độ giảm 23,54% so năm 2005. Nguyên nhân giảm do công tác cải tạo vườn, ruộng trong thời gian qua đến năm 2006 đã tương đối hoàn chỉnh nên người dân đã đi vào trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao và nhu cầu về vốn trong lĩnh vực này giảm dần, mặt khác do những năm trước người dân đã vay trung hạn để làm vườn… nên những năm sau họ chỉ trả lãi và vốn gốc, do đó doanh số cho vay trung hạn giảm so với các năm trước. Bên cạnh, Long Hồ là huyện đầy tiềm năng phát triển kinh tế cả về công nghiệp lẫn nông nghiệp. Và trong năm 2006, do Huyện đang thực hiện đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nên các diện tích đất nông nghiệp giảm dần.
@ Cho vay chăn nuôi trung hạn
Đối với các hộ chăn nuôi với một số vật nuôi như bò thì thời gian từ lúc mua con giống đến lúc bán thu lại vốn và lợi nhuận từ trên một năm nên việc hoàn trả khoản vay cho ngân hàng là trên 12 tháng, do đó, các hộ sản xuất này xin vay vốn trung hạn để phục vụ nhu cầu sản xuất của mình.
Trong năm 2004, tuy tình hình dịch cúm gia cầm bùng phát khắp nơi nhưng doanh số cho vay đối tượng này cũng chiếm tỷ trọng đáng kể đạt 4.303 triệu đồng, ứng tỷ lệ 15,66% tổng doanh số cho vay trung hạn. Sang năm 2005, doanh số cho vay chăn nuôi trung hạn lại tiếp tục tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao đạt 5.894 triệu đồng, chiếm 19,53% cho vay trung hạn. Đến năm 2006, doanh số cho vay của Ngân hàng đạt 4.698 triệu đồng, giảm 1.196 triệu đồng, ứng với tốc độ giảm 20,29% so năm 2005. Do giá cả thị trường chưa ổn định đối với mặt hàng từ gia cầm vì tình hình dịch cúm gia cầm bùng phát khắp nơi, tuy đã được khống chế nhưng nhìn chung các nước khác trong khu vực có sự diễn biến phức tạp nên việc khôi phục đàn gia cầm của huyện còn là vấn đề lâu dài. Đối với đàn heo, do vào khoảng tháng 6/2006 dịch lở mồm long móng trên heo xuất hiện khắp nơi, mức tiêu thụ các thực phẩm từ thịt heo giảm mạnh làm giá heo hơi giảm đáng kể, tuy sau đó giá có lên lại nhưng vẫn chưa ổn định nên đàn heo của huyện chậm phục hồi và phát triển trở lại. Song song đó, bà con nông dân thời gian gần đây đang có xu hướng không nuôi heo mang tính hàng hóa như trước nữa mà chủ yếu nuôi tận dụng nguồn thức ăn gia đình nên nhu cầu vốn đã ảnh hưởng làm giảm doanh số cho vay đối tượng này trong năm 2006.
@ Cho vay Kinh tế tổng hợp trung hạn
Đây là loại hình sản xuất thu hút nhiều sự đầu tư của người dân với lợi nhuận cao hơn và tiết kiệm được nhiều khoản chi phí. Nên trong năm 2004, tỷ trọng cho vay trung hạn KTTH đạt 12.594 triệu đồng trong tổng doanh số cho vay trung hạn, tương ứng 45,85% doanh số cho vay trung hạn. Nhưng sang năm 2005, tỷ trọng này giảm đáng kể giảm 99,76% so với năm 2004. Đến năm 2006, tỷ trọng này có tăng trở lại nhưng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong doanh số cho vay trung hạn (0,34%). Nguyên nhân là do trong năm 2005, bà con nông dân ngày càng chú trọng vào loại hình sản xuất này và làm ăn ngày càng hiệu quả hơn và nhu cầu về vốn của bà con trong lĩnh vực này đòi hỏi phải quay vòng nhanh để bà con có vốn tiếp tục đầu tư vào sản xuất nên doanh số cho vay trung hạn trong lĩnh vực này có xu hướng giảm lại và thay vào đó là sự gia tăng đáng kể của doanh số cho vay Kinh tế tổng hợp ngắn hạn như đã phân tích ở trên.
@ Cho vay Máy nông nghiệp trung hạn
Triệu đồng
Hình 8: Biểu đồ biến động doanh số cho vay mua máy nông nghiệp
Ngày trước khi khoa học công nghệ tiên tiến chưa được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp thì lao động chân tay là chủ yếu. Ngày nay khoa học tiến bộ được vận dụng để giảm bớt lao động chân tay, tiết kiệm chi phí, tận dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất thu hoạch… làm giảm bớt nặng nhọc cho bà con nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy nhu cầu chủ yếu của nông dân trong sản xuất nông nghiệp là mua máy. Do vậy doanh số trong lĩnh vực này chiếm 22,27% tổng doanh số cho vay trung hạn trong năm 2004 đạt 6.118 triệu đồng.
Và doanh số cho vay này chiếm tỷ trọng cao nhất trong năm 2005 với tốc độ tăng trưởng 175,76% so với năm 2004. Trong năm 2005, tình trạng thiếu nhân công gặt lúa trở nên trầm trọng ở nông thôn. Một số hộ dân mạnh dạn đầu tư mua máy gặt lúa nhưng thiếu vốn nên tìm đến Ngân hàng xin vay để bổ sung phần vốn thiếu. Điều này cho thấy bà con nông dân ngày càng quan tâm hơn vào sản xuất nông nghiệp và mạnh mẽ đầu tư vào máy nông nghiệp để phục vụ cho sản xuất tăng thêm thu nhập cho mình, mặt khác do giá cả hàng nông sản không ổn định một phần không thể bán được nông sản tại chỗ mà phải vận chuyển sang địa bàn khác để tiêu thụ do đó nhu cầu mua ghe máy, phương tiện vận chuyển trên sông của người dân tăng.
Nhưng sang năm 2006 thì nhu cầu vay vốn mua máy nông nghiệp đã ổn định. Một phần do máy nông nghiệp là loại sử dụng lâu dài và người dân ý thức về việc sử dụng và bảo quản máy được lâu dài hơn nên doanh số cho vay của Ngân hàng đã giảm xuống. Cụ thể, năm 2006, doanh số đạt 9.411 triệu đồng, chiếm 48,26% tổng doanh số cho vay trung hạn, giảm 44,22% so với năm 2005.
@ Cho vay trung hạn khác
Cho vay trung hạn khác bao gồm cho vay xây dựng đê bao, bờ bao chống lũ bảo vệ vụ mùa sản xuất cho bà con. Doanh số cho vay trong lĩnh vực này tăng 648 triệu đồng so với năm 2004 (10 triệu đồng), tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh số cho vay trung hạn. Nguyên nhân do trong năm 2005 thiên tai diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất sản xuất của hộ nông dân nên bà con đã chủ động xây dựng đê bao, bờ bao chống lũ, thực hiện tốt công tác thủy lợi theo sự hướng dẫn của chính quyền địa phương nên nhu cầu vốn về lĩnh vực này đã phát sinh trong năm. Đến năm 2006, do cơ bản đã hoàn thành đê bao chống lũ xây dựng kiên cố trong năm 2005 nên nhu cầu về vốn trong lĩnh vực này đã có hướng giảm lại.
Nhìn chung, với doanh số cho vay theo thời hạn như trên, cho thấy tỷ trọng cho vay ngắn hạn luôn cao hơn trung hạn. Năm 2005 doanh số cho vay trung hạn có chiều hướng tăng so với năm 2004. Chứng tỏ chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà Nước đã thực sự thu hút người dân mạnh dạn đầu tư cả trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, cũng đã tạo ra phong trào ở nông thôn như: cải tạo vườn, đổi mới giống cây trồng, vật nuôi, từng bước nâng cao đời sống người dân.
3.3.2.2. Doanh số thu nợ
Trong kinh doanh không phải cho vay càng nhiều là càng có hiệu quả, càng thu được nhiều lợi nhuận. Mà vấn đề quan trọng là có thu hồi được nợ đầy đủ cả vốn lẫn lãi hay không sau khi khoản tiền vay được giải ngân cho khách hàng? Vì vậy, để thấy rõ được thực tế về tình hình tín dụng tại ngân hàng, ta phải nghiên cứu thêm tình hình thu nợ.
Doanh số thu nợ là số tiền mà Ngân hàng thu được từ doanh số cho vay trong năm và nợ chưa đến hạn thanh toán của các năm trước chuyển sang và tất cả các khoản nói trên đều là nợ trong hạn.
Cùng với doanh số cho vay thì doanh số thu nợ là một vấn đề mà Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Dựa vào doanh số thu nợ ta có thể biết được tình hình quản lý vốn, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tính chính xác khi thẩm định, đánh giá khách hàng để cho vay vốn của cán bộ tín dụng của Ngân hàng. Do đó, công tác thu nợ được xem là một việc hết sức quan trọng và cần thiết trong nghiệp vụ tín dụng, là nguồn đầu tư tín dụng nhằm bảo tồn nguồn vốn hiện có và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu thông.
Bảng 10: Tổng doanh số thu nợ hộ sản xuất
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Số
tiền
TT
(%)
Số
tiền
TT (%)
Số
tiền
TT
(%)
Số
tiền
%
Số
tiền
%
1. Ngắn hạn
162.241
77,01
241.017
85,94
253.819
90,75
78.776
48,55
12.802
5,31
2. Trung hạn
48.421
22,99
39.431
14,06
25.878
9,25
-8.990
-18,57
-13.553
-34,37
Tổng
210.662
100,00
280.448
100,00
279.697
100,00
69.786
33,13
-751
-0,27
(Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết 2004, 2005, 2006 - Phòng Kế toán NHN0 & PTNT huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long)
Ghi chú: + DSTN: Doanh số thu nợ
+ TT: Tỷ trọng
Triệu đồng
Hình 9: Biểu đồ biến động doanh số thu nợ qua các năm
Như đã phân tích ở trên, doanh số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn doanh số cho vay trung hạn nên doanh số thu nợ ngắn hạn cũng lớn hơn rất nhiều so với doanh số thu nợ trung hạn. Cụ thể năm 2004, doanh số thu nợ ngắn hạn đạt 162.241 triệu đồng chiếm 77,01% tổng doanh số thu nợ, còn doanh số thu nợ trung hạn đạt 48.421 triệu đồng chỉ chiếm 22,99% tổng doanh số thu nợ trong năm. Sang năm 2005, con số này đã tăng lên đáng kể cả về tỷ trọng lẫn tốc độ tăng trưởng đạt 241.017 triệu đồng tương đương tốc độ tăng trưởng 48,55% so với năm 2004 và chiếm tỷ trọng 85,94% doanh số thu nợ. Điều này cho thấy trong năm 2005 Cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng đã ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn cũng như việc xem xét kỹ trong khâu thẩm định dự án đầu tư nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu nợ về sau. Đến năm 2006, doanh số thu nợ có xu hướng giảm 13.553 triệu đồng. Do năm 2006, tình hình thiên tai, thời tiết phức tạp gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân nên phần nào ảnh hưởng đến công tác thu nợ của Ngân hàng.
Doanh số thu nợ ngắn hạn hộ sản xuất nông nghiệp
Do doanh số cho vay ngắn hạn hộ sản xuất nông nghiệp tăng dần qua các năm và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng. Doanh số thu nợ cũng có chiều hướng tăng như vậy tăng dần qua 3 năm và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng doanh số thu nợ của Ngân hàng. Cụ thể như sau:
Bảng 11: Doanh số thu nợ ngắn hạn hộ sản xuất nông nghiệp
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
%
Số tiền
%
Trồng trọt
1.156
0,71
1.762
0,73
1.966
0,77
606
52,52
204
11,58
Chăn nuôi
5.710
3,52
21.830
9,06
42.048
16,57
16.120
282,31
20.218
92,62
KTTH
155.375
95,77
217.425
90,21
209.805
82,66
62.050
39,94
-7.620
-3,50
Tổng cộng
162.241
100,00
241.017
100,00
253.819
100,00
78.776
48,55
12.802
5,31
(Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết 2004, 2005, 2006 - Phòng Kế toán NHN0 & PTNT huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long)
Doanh số thu nợ ngắn hạn của Ngân hàng tăng dần qua các năm, từ năm 2004 doanh số thu nợ đạt 162.241 triệu đồng, trong đó Ngân hàng thu nợ chủ yếu từ cho vay KTTH là 155.375 triệu đồng, chiếm 95,77% doanh số thu nợ ngắn hạn, thu nợ từ chăn nuôi chiếm tỷ trọng 3,52% trong tổng doanh số thu nợ ngắn hạn đạt 5.710 triệu đồng, đối với trồng trọt là 1.156 triệu đồng. Năm 2005, doanh số thu nợ của các đối tượng này đều tăng, do doanh số cho vay ngắn hạn tăng kéo theo doanh số thu nợ ngắn hạn cũng tăng.
Đến cuối năm 2006, doanh số thu nợ ngắn hạn đạt 253.819 triệu đồng, tăng 12.802 triệu đồng, ứng với tốc độ tăng 5,31% so năm trước. Bà con nông dân ở các xã cù lao đã chuyển đổi cây trồng như đốn nhãn trồng chanh và cam nên đã góp phần làm giá trị ở lĩnh vực này tăng đáng kể, nhất vẫn là cây chanh tàu ở xã An Bình. Bên cạnh, bà con thực hiện trồng xen canh một số loại cây khác vào cây nhãn nhằm cải tạo vườn và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó đã góp phần giúp Cán bộ tín dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong công tác thu nợ. Trong tổng doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2006, doanh số thu nợ chăn nuôi có tốc độ tăng cao nhất là 92,62% so với năm 2005. Nguyên nhân là do sang năm 2006, tình hình dịch cúm gia cầm tuy vẫn còn nhưng nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của chính quyền các cấp, công tác tuyên truyền, giám sát, phát hiện bao vây khống chế ổ dịch, thực hiện tiêu độc khử trùng, tiêm phòng vacxin thực hiện tốt đã góp phần ổn định tình hình dịch bệnh, bà con nông dân đã biết linh hoạt trong chăn nuôi đầu tư vào chăn nuôi bò và dê với hiệu quả kinh tế ngày càng cao làm ăn ngày càng hiệu quả và thu nhiều lợi nhuận từ đó đã góp phần giúp cán bộ tín dụng Ngân hàng thực hiện và hoàn thành tốt công tác thu nợ của mình.
Doanh số thu nợ trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh doanh số thu nợ ngắn hạn, doanh số thu nợ trung hạn cũng góp phần không nhỏ vào tổng doanh số thu nợ của Ngân hàng. Cụ thể như sau:
Bảng 12: Doanh số thu nợ trung hạn hộ sản xuất nông nghiệp
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005/2004
2006/2005
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số tiền
TT (%)
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Trồng trọt
2.874
5,94
5.425
13,76
6.188
23,91
2.551
88,76
763
14,06
Chăn nuôi
3.230
6,67
5.146
13,05
4.927
19,04
1.916
59,32
-219
-4,26
KTTH
24.732
51,09
0
0,00
94
0,36
-24.732
-100,00
94
0,00
Máy NN
17.541
36,23
28.227
71,59
14.463
55,89
10.686
60,92
-13.764
-48,76
Cho vay khác
35
0,07
633
1,61
206
0,80
598
1708,57
-427
-67,46
Tổng cộng
48.412
100,00
39.431
100,00
25.878
100,00
-8.981
-18,55
-13.553
-34,37
(Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết 2004, 2005, 2006 - Phòng Kế toán NHN0 & PTNT huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long)
Doanh số thu nợ trung hạn chiếm tỷ trọng thấp hơn doanh số thu nợ ngắn hạn và có hướng giảm dần qua các năm. Cụ thể, năm 2005 doanh số thu nợ giảm từ 48.412 triệu đồng xuống còn 39.431 triệu đồng, giảm 8.981 triệu đồng, tương ứng giảm 18,55% so năm 2004. Đến năm 2006, doanh số thu nợ trung hạn lại tiếp tục giảm còn 25.878 triệu đồng, giảm 13.553 triệu đồng, tương ứng giảm 34,37% so năm 2005. Trong đó:
E Thu nợ máy nông nghiệp: doanh số cho vay trung hạn máy nông nghiệp trong năm 2004 tương đối cao và sang các năm sau thì doanh số cho vay này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng doanh số cho vay trung hạn. Do vậy, năm 2004, thu nợ đối tượng này là 17.541 triệu đồng, chiếm 36,23% thu nợ trung hạn. Năm 2005, doanh số thu nợ đạt 28.227 chiếm tỷ trọng 71,59% trong tổng thu nợ trung hạn, tăng 10.686 triệu đồng, ứng với tốc độ tăng 60,92% so năm 2004. Đến năm 2006, doanh số này giảm xuống còn 14.463 triệu đồng, giảm 13.764 triệu đồng, tương ứng giảm 48,76% so năm 2005. Nguyên nhân làm số thu nợ này giảm mạnh như vậy do doanh số cho vay đối tượng này trong năm 2006 đã giảm.
E Thu nợ Chăn nuôi
Doanh số thu nợ đối tượng này có tăng trong năm 2005 là 1.916 triệu đồng nhưng sang năm 2006 lại giảm 219 triệu đồng ứng với tốc độ giảm 4,26%. Do ý thức của người tiêu dùng về tác hại của dịch bệnh trên heo, gà, vịt nên đã ảnh hưởng làm giảm giá các mặt hàng này hộ chăn nuôi bị lỗ nặng, các hộ sản xuất chuyên về chăn nuôi gà công nghiệp, vịt chạy đồng làm người dân chậm trễ trong việc trả nợ cho Ngân hàng nên khả năng trả nợ cho Ngân hàng bị ảnh hưởng. Mặt khác, do doanh số cho vay trung hạn trong lĩnh vực này vào năm 2006 đã giảm nên làm giảm doanh số thu nợ so với năm 2005.
E Thu nợ trồng trọt: thu nợ trồng trọt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích hoạt động tín dụng hộ sản xuát nông nghiệp tạii Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long.doc