Luận văn Phân tích tác động của hệ thống bảo hiểm xã hội đến sự tăng trưởng kinh tế bền vững quốc gia

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

MỞ ĐẦU . 1

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn.1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.3

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về BHXH các nước .3

2.2. Những nghiên cứu về quản lý đối tượng tham gia BHXH .4

2.3. Những nghiên cứu về quản lý nhà nước về BHXH.6

2.4. Những nghiên cứu về tình hình quản lý quỹ của BHXH Việt Nam .7

3. Mục tiêu nghiên cứu .10

3.1. Mục tiêu tổng quát .10

3.2. Mục tiêu cụ thể .10

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.10

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.10

6. Dự kiến đóng góp của luận văn.11

7. Kết cấu của luận văn .11

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ SỰ

TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG. 12

1.1.Một số khái niệm cơ bản.12

1.1.1. Bảo hiểm xã hội .12

1.1.2. Tổng quan về tài chính BHXH.17

1.1.3. Tăng trưởng kinh tế bền vững.23

1.2. Hệ thống BHXH của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho BHXH Việt

Nam .30

pdf110 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích tác động của hệ thống bảo hiểm xã hội đến sự tăng trưởng kinh tế bền vững quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau giữa các thành phố, thường bằng 3 lần mức lương bình quân của địa phương trong năm trước. Mức trần tại Thượng Hải là 16.353 NDT, và ở Bắc Kinh là trên 19.389 NDT tính tại thời điểm tháng 4/2016. Tuy nhiên, vào giữa năm 2016, một số tỉnh và thành phố, bao gồm cả Bắc Kinh, bắt đầu giảm tỷ lệ đóng góp của NSDLĐ xuống, ví dụ: Bảng 1.3. Tỷ lệ đóng góp quỹ BHXH tại Thƣợng Hải, Bắc Kinh – Trung Quốc năm 2016 BHXH NSDLĐ NLĐ Tại Thƣợng Hải Tại Bắc Kinh Tại Thƣợng Hải Tại Bắc Kinh Trƣớc 1/1/ 2016 Từ 1/4/2016 Trƣớc 30/1/2016 Từ 1/7/2016 Hưu trí 21% 20% 20% 20% 8% 8% Y tế 11% 10% 10% 10% 2% 2%+3 Thất nghiệp 1.5% 1% 1% 1% 0.5% 0.2% Tai nạn lao động 0.5% 0.2% 0.5% 0.2% -- -- Thai sản 1% 1% 0.8% 0.8% -- -- Quỹ nhà ở 7% 7% 12% 12% 7% 12% Tổng cộng 42% 39.2% 44.3% 44% 17.5% 22.2%+3 Nguồn: China TaylorWessing Chế độ hưu trí đối với công chức, viên chức: kinh phí thực hiện được bảo đảm bởi Nhà nước và cá nhân không phải đóng góp. Mức trợ cấp hưu trí được xác định trên cơ sở mức lương cơ bản và số năm phục vụ. Hiện tại, chế độ này bao phủ trên 30 triệu công chức, viên chức. Đối với quân nhân cũng có chế độ hưu trí tương tự 37 nhưng là hệ thống hưu trí độc lập với chế độ hưu trí công chức, viên chức. 1.2.1.3. Nhật Bản Nhật Bản là một đảo quốc ở vùng Đông Á, tổng diện tích của Nhật Bản gần 378.000 km2, dân số Nhật Bản vào khoảng 126 triệu người, đứng thứ mười thế giới. Nhật Bản có 47 đơn vị hành chính địa phương tương đương cấp tỉnh trực thuộc chính quyền Trung ương. GDP trên đầu người là 40,090 USD. Tình trạng già hóa dân số một cách nhanh chóng thời gian gần đây trở thành vấn đề nghiêm trọng với Nhật Bản. BHXH luôn là nội dung chủ yếu của hệ thống ASXH, các chế độ BHXH, bao gồm: BHXH (bảo hiểm hưu trí, BHYT) và bảo hiểm lao động (bảo hiểm việc làm, bảo hiểm bồi thường tai nạn cho NLĐ). Hiện nay, bảo hiểm hưu trí là chế độ quan trọng nhất trong chính sách BHXH của Nhật Bản. Về phân cấp quản lý Chế độ hưu trí của Nhật Bản là chế độ đa tầng, với hai dạng cơ bản là hưu trí nhà nước và hưu trí tư nhân; được phân chia, xác định theo ba loại khác nhau: 1- Hưu trí cơ bản (cung cấp mức tiền hưu như nhau đối với mọi đối tượng mà không căn cứ vào thu nhập, đóng góp hay quốc tịch); 2- Hưu trí cho người làm công ăn lương (áp dụng đối với tất cả những người làm công ăn lương và mức thanh toán căn cứ vào thu nhập cũng như đóng góp của người đó); 3- Hưu trí tự nguyện (do các công ty tư nhân đóng góp cho công nhân hoặc những quỹ hưu trí tập thể đóng cho những người làm ăn cá thể). Hình 1.2: Khái quát hệ thống hƣu trí ở Nhật Bản (Nguồn: Sakenomics) 38 Các tầng thứ nhất và thứ hai lương hưu đều do Chính phủ điều hành và công khai. Tầng thứ ba là một chương trình tùy chọn. Nó được cung cấp bởi các công ty tư nhân (NSDLĐ) cho nhân viên của họ (Quỹ lương hưu nhân viên), hoặc bởi Quỹ trợ cấp quốc gia cho người tự làm chủ, trong đó chính phủ là công ty bảo hiểm. Quỹ lương hưu nhân viên do NSDLĐ, nhưng có một phần lớn các nguồn tài chính từ Bảo hiểm hưu trí của nhân viên và do đó có tính chất bán công khai. Chế độ bảo hiểm hưu trí và BHYT do cơ quan BHXH quản lý và tổ chức thực hiện, Bảo hiểm việc làm do cơ quan Bảo đảm việc làm của Chính phủ thực hiện, Bảo hiểm bồi thường tai nạn do cơ quan Thanh tra lao động thực hiện. Hệ thống cơ quan BHXH bao gồm cơ quan Trung ương, cơ quan BHXH địa phương với văn phòng chi nhánh BHXH, có trách nhiệm quản lý và thực hiện chế độ BHYT (trừ BHYT của hiệp hội và BHYT quốc gia) và các chế độ bảo hiểm hưu trí. Về đối tượng tham gia BHXH Đối tượng thu BHXH tương ứng chia làm 3 nhóm: (1) Nhóm I: lao động cá thể, nông dân, người không có việc làm, sinh viên tham gia chế độ hưu trí quốc gia; (2) Nhóm II: lao động trong khu vực tư nhân và nhà nước, tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí cho NLĐ; (3) Nhóm III: người ăn theo là vợ hoặc chồng sống dựa vào thu nhập của NLĐ thuộc nhóm II, tham gia chế độ hưu trí quốc gia. Những người có thu nhập thấp và vợ hoặc chồng của người làm công không đi làm được miễn giảm mức phí đóng, một phần hoặc toàn bộ. Tất cả mọi công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến 60 đều có thể tham gia vào chương trình Hưu trí quốc gia. NLĐ đương nhiên là thành viên của Chương trình hưu trí quốc gia khi họ có bảo hiểm hưu trí NLĐ. Đối tượng tham gia Hưu trí quốc gia chủ yếu là nông dân và NLĐ tự do. Bảo hiểm tự nguyện cho người sống ở Nhật Bản từ 60 đến 64 tuổi và cho công dân nước ngoài (từ 20 đến 64 tuổi, trong trường hợp đặc biệt là 69 tuổi). Về nguồn thu quỹ BHXH Nguồn quỹ hưu trí được hình thành từ đóng góp của người tham gia: NLĐ, chủ SDLĐ và NSNN. Hệ thống hưu trí Nhật Bản bao gồm nhiều quỹ khác nhau 39 đảm bảo chế độ hưu trí cho nhiều tầng lớp dân cư khác nhau. Các quỹ hưu trí do Vụ hưu trí Bộ Y tế phúc lợi chịu trách nhiệm giám sát chung. Cơ quan BHXH quản lý hành chính trên toàn quốc gia và dưới là các chi nhánh cơ quan BHXH địa phương quản lý thực hiện thu và chi trả trợ cấp: + Quỹ Hiệp hội tương trợ đảm bảo chế độ hưu trí cho tầng lớp có thu nhập cao như: Viên chức các cấp, thuỷ thủ, giáo sư đại học và những NLĐ trong các cơ quan nhà nước. + Quỹ hưu trí do Chính phủ quản lý (EPI): Đảm bảo chi trả trợ cấp cho những người làm việc trong các đơn vị tư nhân có từ 5 lao động trở lên. + Quỹ hưu trí quốc gia đảm bảo chế độ trợ cấp hưu trí cho những NLĐ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, trong các xí nghiệp nhỏ, tư nhân với mức thu nhập thấp nhất trong xã hội. Chương trình hưu trí hưởng theo thuế đóng góp có dạng thời hạn cố định (thường là 10 năm). Các chương trình hưu trí đóng góp cố định có hai loại: dựa trên cơ sở cá nhân và dựa trên cơ sở hợp tác. Chương trình đóng góp cố định trên cơ sở cá nhân dành cho người làm tư và được đề ra nhằm áp dụng với những người tự kinh doanh có nguyện vọng hưởng hưu trí. Chương trình này do Hội quỹ hưu trí quốc gia điều hành và phí đóng góp do cá nhân tự trả. Hưu trí đóng góp cố định dựa trên cơ sở hợp tác là một kiểu hưu trí hợp tác. Các hợp tác xã có thể đưa ra kiểu hưu trí này cho NLĐ, phí bảo hiểm hoàn toàn do các chủ lao động trả. Về căn cứ đảm bảo đóng BHXH - Chế độ hưu trí: + Quỹ Hiệp hội tương trợ: Mức đóng góp từ 10% đến 16% lương tháng. Nhà nước hỗ trợ từ 15 - 18% tổng mức trả tiền hưu hằng năm của quỹ. + Quỹ hưu trí do Chính phủ quản lý (EPI): Mức đóng góp của NLĐ và chủ SDLĐ tương tự nhau: 8,68% lương tháng của NLĐ (đối với những người làm nghề mỏ và ngư nghiệp 9,58%). Hằng năm Nhà nước hỗ trợ 20% tổng số tiền chi trả hằng năm và chi phí quản lý hành chính. 40 + Quỹ hưu trí quốc gia: Nhà nước hỗ trợ 1/3 tổng mức trả tiền hưu hằng năm của quỹ. - Chế độ TNLĐ cho NLĐ ở các đơn vị sản xuất và kinh doanh: mức đóng của chủ SDLĐ có 27 mức từ 0,6% đến 13,4% lương tuỳ theo ngành nghề, mức độ rủi ro và số lao động làm việc. Quỹ hưu trí NLĐ là quỹ được lập ra ở các công ty có hơn 500 lao động để giúp NLĐ đảm bảo mức hưởng lợi cao hơn từ quỹ hưu dựa trên sự đóng góp của chủ lao động là 1,6% và NLĐ là 1,9% mức lương của NLĐ. Hiện nay có khoảng 36% số công nhân tham gia vào chương trình này. Tất cả các cư dân đóng góp vào bảo hiểm hưu trí. Sinh viên, người tự kinh doanh và thất nghiệp ở độ tuổi từ 20 đến 59 phải trả phí bảo hiểm căn hộ hàng tháng là 14.980 YEN. Phí bảo hiểm này được điều chỉnh vào tháng 4 hàng năm và được xác định bởi các yếu tố như biến động giá và chỉ số lương thực. Lao động có lương dưới 70 tuổi trả một phần trăm lương chuẩn của họ. Tính đến tháng 9 năm 2017, mức phí bảo hiểm cho NLĐ làm công ăn lương là 18,30%, được trả nửa cho NSDLĐ và một nửa do NLĐ. 1.2.2. Bài học kinh nghiệm Tùy thuộc vào nền kinh tế xã hội, đặc điểm lịch sử, trình độ phát triển, mỗi quốc gia có mô hình ASXH đặc thù, từ đó việc triển khai chính sách, chế độ BHXH cũng khác nhau. Trong xu thế hợp tác, hội nhập, BHXH Việt Nam đã không ngừng giao lưu, trao đổi, học hỏi mô hình, tổ chức, quản lý ASXH của các quốc gia phát triển trên thế giới. Sau hơn 25 năm đổi mới, đến nay cấu trúc các chế độ bảo hiểm cho NLĐ đã từng bước định hình và phù hợp với quan niệm về quyền an sinh trong Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng như quan niệm của ILO trong Công ước 102 về quy phạm tối thiểu. Đặc biệt, những năm gần đây, hoạt động điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực BHXH đã có sự vận động rất tích cực với các văn bản pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ với phạm vi, đối tượng điều chỉnh ngày càng bao quát. Điều này đã góp phần từng bước mở rộng đối tượng tham gia, tăng phạm vi bao phủ của chính sách bảo biểm. Tuy nhiên, chế độ và việc thực hiện chính sách BHXH ở nước 41 ta vẫn còn khó khăn, hạn chế. Tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm còn rất thấp so với nhu cầu thực tế, chênh lệch các chỉ số phân phối lợi ích an sinh giữa người có việc làm và chưa có việc làm, giữa lao động chính thức (làm công ăn lương) với lao động không chính thức, giữa thành thị với nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn lớn; mức độ an toàn của các quỹ chưa cao; các quy định về điều kiện tham gia bảo hiểm tự nguyện thiếu hợp lý. Trên cơ sở kinh nghiệm thực hiện chính sách BHXH của các quốc gia trên, một số bài học kinh nghiệm được rút ra nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng hệ thống BHXH tại Việt Nam. Một là, cần có chiến lược phát triển BHXH trong dài hạn Theo thống kê cho thấy, dân số nước ta trong thời gian tới sẽ bị già hóa như các nước khác trong khu vực. Do vậy, việc xây dựng chế độ BHXH lâu dài, bền vững là một trong những nhiệm vụ đặt ra hàng đầu. Hiện nay, tỷ lệ người cao tuổi đang tăng và sẽ tiếp tục tăng, thậm chí tăng nhanh, tốc độ già hóa nhanh nên việc xây dựng hệ thống BHXH lâu dài, bền vững rất quan trọng. Ngoài ra, cần có lộ trình rõ ràng, chi tiết về tăng tuổi nghỉ hưu để giảm áp lực cho quỹ BHXH trong tương lai, có thể nghiên cứu phương án tăng tuổi nghỉ hưu như: 2 năm tăng 1 tuổi nghỉ hưu cho đến khi đạt đến một mức nào đó phù hợp. Hai là, hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện mở rộng đối tượng tham gia BHXH tăng thêm quyền lợi BHXH Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung luật BHXH trong đó quy định rõ quản lý quỹ và đầu tư quỹ, cho phép đa dạng hóa các loại hình thức đầu tư và cách thức đầu tư, mở rộng các danh mục đầu tư quỹ BHXH đảm bảo an toàn và hiệu quả, có thể kể đến đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu công ty thương mại, đầu tư bất động sản, ủy thác đầu tư vào thị trường vốn nước ngoài bằng ngoại tệ, Mở rộng diện bao phủ đối tượng đóng BHXH, xây dựng các chính sách phát triển BHXH một cách linh hoạt như thủ tục tham gia đóng BHXH đơn giản, quy trình được lan tỏa rộng rãi, khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ đối với người tham gia BHXH là nông dân, NLĐ tự do. Mở rộng đối tượng BHXH tự nguyện đối với nông dân, người kinh doanh nhỏ lẻ, người không có việc làm ổn định nhưng con cháu, 42 người nhà có thể đóng hộ, nên tuyên truyền rộng rãi và thường xuyên hơn nữa. Triển khai quyết liệt việc cấp và sử dụng mã số cá nhân điện tử cho các đối tượng tham gia BHXH, mỗi người chỉ có 1 mã duy nhất, có thể tự quản lý các thông tin điện tử liên quan đến quá trình tham gia BHXH của mình. Bên cạnh đó, cần triển khai việc thực hiện hình thức bảo hiểm hưu trí bổ sung, hình thức bảo hiểm hưu trí tự nguyện bổ sung thông qua việc mua các sản phẩm bảo hiểm hoặc đóng góp vào Quỹ hưu trí tự nguyện là hướng đi rất đúng đắn, góp phần hỗ trợ, bổ sung thêm trụ cột bảo hiểm của cả nước và đặt ra cơ hội mới cho mọi người tham gia vào hoạt động bảo hiểm hưu trí, tạo điều kiện cho mọi người có được thêm những nguồn thu nhập ổn định và cao hơn trong tương lai khi đến tuổi về hưu hoặc gặp trường hợp rủi ro. Phát triển loại hình bảo hiểm hưu trí tự nguyện là một trong ba trụ cột chính của chế độ hưu trí trên thế giới hiện nay, đây là các chương trình hưu trí bổ sung với đối tượng tham gia là NLĐ muốn tăng thêm quyền lợi hưu trí ngoài hưu trí DN, NLĐ tự do, nông dân... Nghiên cứu chuyển đổi chế độ bảo hiểm tự nguyện thành bảo hiểm việc làm (tương tự Nhật Bản); kết hợp giữa bảo đảm việc làm, phát triển năng lực, kỹ năng nghề và trợ cấp thất nghiệp coi đây là những trụ cột nền tảng của chính sách việc làm. Ba là, quy định rõ căn cứ đảm bảo đóng BHXH trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích giữa NLĐ, NSDLĐ Quy định tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH nên cân đối hài hòa giữa NLD và NSDLĐ, hạn chế trường hợp nợ đóng và trốn đóng BHXH tại các DN. Cân đối tỷ lệ thu theo từng giai đoạn, không chỉ dài hạn mà cả trong ngắn hạn, có thể thay đổi 3 đến 5 năm 1 lần, căn cứ vào chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thực tế cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa mức lương và thu nhập của NLĐ. Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ lương đóng BHXH phù hợp, không nên chênh lệch lớn, một số nước quy định mức trần tiền lương đóng BHXH không quá 3 lần tiền lương trung bình của xã hội, nhưng ở Việt Nam mức trần tiền lương gấp 20 lần tiền lương cơ bản, tương đương 6 lần tiền lương trung bình của xã hội. 43 Bốn là, tăng cường vai trò của Nhà nước và kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý BHXH Tăng cường vai trò của nhà nước đối với công tác quản lý thu BHXH, hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách BHXH, định hướng, bảo hộ, bảo trợ cho quỹ BHXH nhằm đảm bảo duy trì ổn định bền vững cho quỹ. Kiện toàn bộ máy quản lý thu BHXH, tinh giản biên chế, cơ cấu lại bộ máy cồng kềnh, sắp xếp lại các bộ phận nhằm tăng tính hiệu quả cũng như giảm chi phí nuôi bộ máy hoạt động. Đào tạo, bồi dưỡng các đội ngũ cán bộ làm việc trong hệ thống quản lý thu BHXH đảm bảo trình độ chuyên môn sâu, đạt chất lượng cao sánh ngang tầm quốc tế, cử cán bộ giỏi đi thực tế và học tập ở nước ngoài để nâng cao kiến thức và học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Cần đa dạng hóa bộ máy thu BHXH, phát triển dịch vụ thu như các đại lý thu BHXH với các cơ quan thuế, ngân hàng, bưu điện,.. Gán trách nhiệm đối với các đơn vị, cá nhân, đặc biệt là chính quyền địa phương, thu BHXH nhằm theo dõi sát sao người tham gia đóng BHXH, hưởng BHXH và coi những người tham gia BHXH như những khách hàng. 44 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Trên cơ sở giới thiệu tổng quan về BHXH, BHYT, BHTN và tài chính BHXH, luận văn đã chỉ ra BHXH đóng một vai trò nhất định trong nền kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay. Cách đặt vấn đề này sẽ tăng thêm tầm quan trọng của BHXH đối với sự phát triển bền vững quốc gia. Để tiếp tục nâng cao vai trò của hệ thống BHXH, các quốc gia cần phải quan tâm tới các nội dung BHXH, cụ thể là: Quản lý đối tượng tham gia BHXH; quản lý rủi ro BHXH; tiếp tục hoàn thiện khung chính sách BHXH, đổi mới mô hình hoạt động, tổ chức bộ máy của các cơ quan quản lý bảo hiểm, quản lý tốt quỹ BHXH. Ngoài ra, luận văn đã phân tích kinh nghiệm quốc tế về hệ thống BHXH của 3 quốc gia Trung Quốc, Singapore và Nhật Bản. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia này, luận văn đã rút ra 03 bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH. Những vấn đề lý luận được hệ thống hóa là tiền đề quan trọng trong việc phân tích thực trạng hoạt động BHXH ở Việt Nam được trình bày ở Chương 2. 45 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐẾN SỰ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG 2.1. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam 2.1.1. ô hình t chức, thực hiện chế độ, chính sách BHXH 2.1.1.1. Về tổ chức thực hiện chế độ, chính sách Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về "đổi mới chính sách BHXH" đã đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991, ngày 15/04/1992, tại kỳ họp thứ 04 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó tại Điều 56 Hiến pháp quy định “Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với NLĐ”. Cụ thể hóa các quy định tại Hiến pháp 1992, trên cơ sở kết quả thí điểm thực hiện BHXH cho NLĐ thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, ngày 22/6/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH, trong đó quy định cụ thể 05 chế độ BHXH, bao gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất được áp dụng bắt buộc đối với công nhân, viên chức thuộc khu vực hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang, các tổ chức Đảng, Đoàn thể; NLĐ làm việc hưởng lương hoặc tiền công ở những doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên; NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và trong các tổ chức khác của nước ngoài tại Việt Nam và NLĐ Việt Nam làm việc trong khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt. 2.1.1.2. Về tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHYT Ngày 15/04/1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VIII đã biểu quyết thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, tại Điều 39, Hiến pháp quy định: “Thực hiện BHYT tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe”. Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng, là tiền đề cho việc triển 46 khai thực hiện chính sách BHYT ở nước ta. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992, ngày 15/08/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 299/HĐBT ban hành Điều lệ BHYT; tiếp theo ngày 01/09/1992, Bộ trưởng Bộ Y tế ra Quyết định số 935/BYT-QĐ triển khai Nghị định số 299/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, theo đó, hệ thống BHYT chính thức được thành lập. Đã phát hành được trên 07 triệu thẻ BHYT, trong đó gần 05 triệu thẻ BHYT bắt buộc đối với cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước; trên 452 ngàn thẻ đối tượng người có công và trên 2,2 triệu thẻ BHYT tự nguyện. Tổng thu toàn ngành là trên 400 tỷ đồng. 2.1.2. Sự hình thành, phát triển và cơ cấu t chức của BHXH Việt Nam 2.1.2.1. Sự hình thành, phát triển của BHXH Việt Nam Trên cơ sở Bộ Luật Lao động được thông qua tại kỳ họp thứ 05, Quốc hội khóa IX, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 về Điều lệ BHXH, theo đó quy định thực hiện BHXH bắt buộc đối với công chức, công nhân viên chức nhà nước và NLĐ làm việc tại các doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống LĐ-TB&XH và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện thống nhất các chế độ, chính sách BHXH theo quy định của pháp luật. Từ đây đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới căn bản về thực hiện chính sách BHXH ở nước ta phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; theo đó: từng bước hình thành Quỹ BHXH độc lập, tách khỏi NSNN; Quỹ BHXH được hình thành trên nguyên tắc cùng đóng góp giữa NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước; khẳng định nguyên tắc đóng - hưởng của BHXH; mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế. Sau khi hoàn thiện các văn bản pháp lý, kể từ ngày 01/10/1995, BHXH Việt Nam chính thức đi vào hoạt động theo mô hình 3 cấp Trung ương, tỉnh, huyện. Tiếp đó, theo tinh thần Nghị quyết TW7 khoá VIII và Chương trình Tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001 - 2010, ngày 24/01/2002, Thủ tướng 47 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển giao tổ chức bộ máy và nhiệm vụ thực hiện chính sách BHYT, từ BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Kể từ thời điểm này, BHXH Việt Nam được xác định là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT và quản lý, sử dụng các quỹ BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật. Trong quá trình hình thành và phát triển, ngành BHXH luôn được sự quan tâm sâu sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng bằng các Chỉ thị, Nghị quyết, cụ thể: Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị khẳng định quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, đồng thời xác định những định hướng mới mang tầm chiến lược: “BHXH và BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội... Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân"; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về cải cách chính sách BHXH, trong đó nêu rõ mục tiêu cải cách chính sách BHXH: “Để BHXH thực sự là một trụ cột chính của hệ thống ASXH, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Phát triển hệ thống BHXH hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách BHXH tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch”. Đây là những định hướng quan trọng, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của Hệ thống BHXH, BHYT nói chung và BHXH Việt Nam nói riêng. 2.1.2.2. Chức năng và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam BHXH Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT; thanh tra chuyên ngành việc đóng BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật. 48 Hình 2.1: Cơ cấu hệ thống tổ chức của ngành BHXH (Nguồn: Tổng hợp từ BHXH Việt Nam) HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ BHXH VIỆT NAM Ban Dƣợc và Vật tƣ y tế Văn phòng Vụ Hợp tác quốc tế Vụ Thi đua - Khen thƣởng Vụ Tổ chức cán bộ Vụ Kiểm toán nội bộ Ban Thực hiện chính sách BHYT Ban Sổ - Thẻ Vụ Tài chính - Kế toán Vụ Thanh tra - Kiểm tra Vụ Quản lý đầu tƣ quỹ Vụ Pháp chế Ban Thực hiện chính sách BHXH Ban Thu Viện Khoa học BHXH Trung tâm Công nghệ thông tin Trung tâm Truyền thông Trung tâm Lƣu trữ CÁC ĐƠN VỊ CHUYÊN MÔN GIÚP VIỆC CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP Vụ Kế hoạch và Đầu tƣ Trung tâm Giám định BHYT và Thanh toán đa tuyến khu vực phía Bắc Trung tâm Giám định BHYT và Thanh toán đa tuyến khu vực phía Nam Báo BHXH Trƣờng Đào tạo nghiệp vụ BHXH Tạp chí BHXH BHXH TỈNH BHXH HUYỆN 49 2.2. Phân tích tình hình hoạt động của hệ thống BHXH 2.2.1. Tình hình thu BHXH, BHTN, BHYT 2.2.1.1. Phân tích thực trạng và sự biến động số lao động tham gia BHXH, chỉ tiêu đánh giá sự phát triển số lao động tham gia BHXH qua các năm Bảng 2.1: Đối tƣợng tham gia BHXH từ năm 2016 – 2019 STT Loại hình Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 I BHXH bắt buộc 12.851.833 13.596.146 14.455.069 15.199.985 1 HCSN, Đảng, ĐT, LLVT 3.736.807 3.710.468 3.737.963 3.676.775 2 Xã, phường, thị trấn 275.701 229.900 229.197 225.079 3 Ngoài công lập 106.479 111.393 119.474 129.308 4 DN Nhà nước 1.115.740 1.041.829 999.078 961.015 5 DN có vốn NN 3.693.309 4.129.910 4.402.753 4.735.555 6 Doanh nghiệp NQD 3.704.957 4.166.716 4.720.012 5.202.092 7 Lao động có thời hạn ở nước ngoài 3.999 5.185 7.319 8.906 8 Cán bộ không chuyên trách cấp xã 146.500 137.131 132.601 129.155 9 Hợp tác xã 47.091 42.636 43.103 42.723 10 Hội nghề nghiệp, tổ hợp tác 19.097 20.812 20.059 21.199 11 Người nước ngoài 37.052 68.178 II BHXH tự nguyện 203.871 224.243 277.190 573.943 III BH thất nghiệp 11.060.178 11.538.854 12.643.135 13.429.401 (Nguồn: BHXH Việt Nam) 50 Hiện nay, chủ trương mở rộng diện bao phủ BHXH đang được triển khai mạnh mẽ, điều kiện tham gia BHXH bắt buộc ngày càng được đơn giản hóa và dễ áp dụng cho các tầng lớp lao động. Từ 1/1/2007, NLĐ có HĐLĐ từ đủ 3 tháng trở lên đủ điều kiện tham gia BHXH bắt buộc. Từ 1/1/2018, NLĐ có HĐLĐ từ 1 tháng trở lên, NLĐ là lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải tham gia BHXH. Từ bảng số liệu trên cho thấy, số lượng lao động tham gia BHXH ở các loại hình, bao gồm cả BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện hàng năm đều tăng. Với lao động tham gia BHXH bắt buộc, số lao động tham gia tăng từ 12.851.833 người năm 2016 lên 15.199.985 người năm 2019, tức là về tuyệt đối tăng 2.348.152 người (tương ứng 18,3%). Với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, năm 2016, số người tham gia là 203.871 người tăng lên 573.943 người năm 2019, tăng thêm 370.072 người (tương ứng 181,52%). Xét chung về số lao động tham gia bảo hiểm ta có: - Số lao động tham gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phan_tich_tac_dong_cua_he_thong_bao_hiem_xa_hoi_den.pdf
Tài liệu liên quan