Luận văn Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC 8

1.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 8

1.2. Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 38

1.3. Các yếu tố bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 41

Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 49

2.1. Quá trình hình thành, phát triển của của Kiểm toán Nhà nước 49

2.2. Thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 54

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 84

3.1. Các quan điểm cơ bản về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam hiện nay 84

3.2. Các giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam hiện nay 90

KẾT LUẬN 121

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

doc130 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dựng theo phương án luật chi tiết để khi ban hành có thể thực hiện được ngay, nội dung của Luật phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động kiểm toán trong tương lai. Quán triệt các quan điểm chỉ đạo trên đây, Luật Kiểm toán nhà nước đã ghi nhận nguyên tắc hoạt động kiểm toán của KTNN là “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Trung thực, khách quan” [50]. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản, quan trọng xuyên suốt đối với hoạt động kiểm toán của KTNN được quy định trên cơ sở bản chất và yêu cầu về hiệu quả của hoạt động KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính từ bên ngoài (ngoại vi) của Nhà nước. Nguyên tắc này đảm bảo cho hoạt động KTNN phù hợp với thông lệ quốc tế. Trung thực, khách quan là nguyên tắc gắn với bản chất, chi phối toàn diện hoạt động kiểm toán và không thể tách dời với nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hoạt động kiểm toán. Để đảm bảo tính độc lập cho KTNN, Luật KTNN đã quy định địa vị pháp lý của KTNN; địa vị của Tổng KTNN, cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN, Phó tổng KTNN cũng như bảo đảm kinh phí hoạt động của KTNN… - Về địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước Để bảo đảm nguyên tắc Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật’’, KTNN phải có địa vị pháp lý tương xứng: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật’’ (Điều 13). Quy định như trên đã khắc phục được tình trạng địa vị pháp lý của KTNN còn thấp chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao của KTNN và chưa phù hợp thông lệ quốc tế. - Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước (Điều 14). Đây là các chức năng kiểm toán hiện đại được các quốc gia có nền KTNN tiên tiến trên thế giới áp dụng. Để thực hiện chức năng trên, KTNN có các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 15, Điều 16 của Luật KTNN, trong đó có nhiều nhiệm vụ mới rất quan trọng là: + Kiểm toán Nhà nước quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện (khoản 1 Điều 15); + Trình ý kiến của Kiểm toán Nhà nước để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công trình quan trọng quốc gia… (khoản 4 Điều 15). Đây chính là hình thức kiểm toán trước của Kiểm toán Nhà nước, nhằm bảo đảm các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu phát triển của đất nước cũng như tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước; tránh được những sai sót, gian lận ngay từ khi lập và phân bổ dự toán, dự án. + Tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu cầu trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh. Đây chính là hoạt động tư vấn của Kiểm toán Nhà nước. Từ thực tiễn hoạt động kiểm toán và những chuẩn mực nghề nghiệp khách quan, Kiểm toán Nhà nước phát hiện những sơ hở, bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành và yêu cầu điều chỉnh pháp luật các quan hệ kinh tế phát sinh trong kinh tế thị trường, Kiểm toán Nhà nước đề xuất, kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật, góp phần bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật. - Về địa vị pháp lý của Tổng Kiểm toán Nhà nước Để bảo đảm nguyên tắc “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ. nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ; lương và các chế độ khác của Tổng Kiểm toán Nhà nước như lương và các chế độ khác của Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định trên cơ sở chính sách, chế độ tiền lương của Nhà nước (Điều 17). Với quy định như trên, Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã quy định thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm cao nhất ở nước ta hiện nay đối với Tổng Kiểm toán Nhà nước để bảo đảm tính độc lập, khách quan của Tổng Kiểm toán Nhà nước nói riêng và cơ quan Kiểm toán Nhà nước nói chung trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. - Về tổ chức của KTNN Để bảo đảm nguyên tắc “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Kiểm toán Nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp (Điều 21). Đây là mô hình thích hợp và hiệu quả qua thực tiễn hoạt động hơn 10 năm qua của KTNN, phù hợp với quy định về quản lý, điều hành NSNN theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. - Về Kiểm toán viên nhà nước Để bảo đảm nguyên tắc “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, phải có con người thực hiện nhiệm vụ kiểm toán - đó là kiểm toán viên với các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều 29 Luật Kiểm toán nhà nước; khi thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong việc nhận xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán (điểm a, khoản 2 Điều 48); quyền bảo lưu bằng văn bản ý kiến về kết quả kiểm toán trong phạm vi được phân công (điểm d, khoản 2 Điều). Quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với Kiểm toán viên nhà nước (khoản 1 Điều 12). Quy định những trường hợp kiểm toán viên nhà nước không được thực hiện kiểm toán ( Điều 31). - Về hoạt động kiểm toán Để bảo đảm nguyên tắc “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, hoạt động kiểm toán được xây dựng theo trình tự thủ tục mang tính tố tụng, bảo đảm chặt chẽ. Quy trình tiến hành một cuộc kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước được thực hiện theo 4 bước: chuẩn bị kiểm toán; thực hiện kiểm toán; lập và gửi báo cáo kiểm toán và kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 50). - Về kinh phí hoạt động Để bảo đảm nguyên tắc Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật’’, Kiểm toán Nhà nước có kinh phí hoạt động riêng, là đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương. Kinh phí hoạt động của Kiểm toán Nhà nước do Kiểm toán Nhà nước lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương tiện khác để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Chế độ tiền lương, phụ cấp, trang phục đối với cán bộ, công chức Kiểm toán Nhà nước và chế độ ưu tiên đối với Kiểm toán viên nhà nước do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định (Điều 67, Điều 68, Điều 69). Lần đầu tiên, các vấn đề về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán (Điều 9, trách nhiệm gửi và cung cấp báo cáo kiểm toán (Điều 15), vấn đề công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán(Điều 58, Điều 59), được quy định cụ thể, chi tiết trong Luật Kiểm toán nhà nước là cơ sở pháp lý rất quan trọng cho hoạt động KTNN. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về KTNN hiện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là: Một là: do chưa được quy định trong Hiến pháp, nên quy định về địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước trong Luật Kiểm toán nhà nước chưa đúng với bản chất là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất. Với quy định địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước tại Điều 13 của Luật KTNN: "Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" đã khắc phục tình trạng địa vị pháp của cơ quan Kiểm toán Nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất trong hệ thống kiểm soát của Nhà nước trước khi Luật Kiểm toán nhà nước được ban hành; thể hiện chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về phát huy vị trí, vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, đồng thời phù hợp yêu cầu hội nhập quốc tế và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới của Việt nam. Tuy nhiên, thuật ngữ “chuyên môn’’ trong quy định về địa vị pháp lý của KTNN tại Điều 13 của Luật Kiểm toán nhà nước là không phù hợp, chưa thể hiện được bản chất của cơ quan KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất hoặc KTNN là cơ quan kiểm toán tối cao như các nước trên thế giới đã quy định. Chính vì Luật quy định: “...KTNN là cơ quan chuyên môn...” dẫn đến nhận thức của các cấp, các ngành, công chúng và xã hội nói chung về vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của KTNN chưa đầy đủ và toàn diện, thậm chí còn có nhận thức sai lệch, không đúng đắn về vị trí pháp lý, tổ chức và hoạt động KTNN. Hai là: chưa có sự tương thích về một số quy định giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan. Để đáp ứng yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta phục vụ công cuộc đổi mới đất nước và thực hiện cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới, đòi hỏi Luật Kiểm toán Nhà nước phải đồng bộ với các luật có liên quan, nhất là các luật được ban hành sau Luật Kiểm toán nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật ban hành văn bản QPPL... - Luật KTNN quy định: "Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với thủ tướng Chính phủ (khoản 2 Điều 17). Tuy nhiên, cả Luật Tổ chức Quốc hội (mặc dù mới được sửa đổi, bổ sung sau khi Luật KTNN được ban hành) và Luật tổ chức Chính phủ đều không có nội dung nào quy định về vấn đề nêu trên. - Với vị thế là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng KTNN thuộc nhóm các cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng, bao gồm: cơ quan Thanh tra nhà nước, cơ quan điều tra, KTNN, Viện kiểm sát, Tòa án; đồng thời Luật phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng. Do vậy, Luật KTNN cần bổ sung quy định về nhiệm vụ của KTNN trong phòng, chống tham nhũng cho tương thích với Luật phòng, chống tham nhũng. - Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng đề cao vai trò và quy định rõ trách nhiệm của KTNN trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thông qua việc thực hiện chức năng kiểm toán. Do vậy, Luật KTNN cần bổ sung quy định về nhiệm vụ của KTNN trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cho tương thích với Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 03/6/2008, thay thế Luật BHVBQPPL năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL năm 2002 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009. Để khắc phục tình trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm nhiều loại văn bản, Luật quy định một số cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức văn bản. Theo đó, Tổng Kiểm toán nhà nước chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết định. - Luật Ngân sách nhà nước và Luật Kiểm toán nhà nước quy định việc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các cấp được thực hiện trước khi Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách. Tuy nhiên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành thì thời gian lập, chỉnh lý và gửi báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương, bộ, ngành theo quy định của Luật NSNN quá dài (chậm nhất là ngày 01/10 năm sau), nên việc kiểm toán để phục vụ Hội đồng nhân dân các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách gặp nhiều khó khăn do thời gian kiểm toán ngắn; nhiều cuộc kiểm toán không thể thực hiện kiểm toán trước khi Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Vấn đề này cũng làm ảnh hưởng đến tiến độ phát hành báo cáo kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Ba là: một số nội dung chưa được quy định hoặc quy định không rõ ràng trong Luật Kiểm toán nhà nước đã gây khó khăn, lúng túng cho việc tổ chức thực hiện - Khoản 3 Điều 9 Luật Kiểm toán nhà nước quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng kết luận kiểm toán quyết định việc chấp nhận kết luận kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Kết luận kiểm toán đã được cơ quan, người có thẩm quyền chấp nhận có giá trị bắt buộc thực hiện”. Tuy nhiên, quy định này còn trừu tượng dễ dẫn đến làm cho người nghiên cứu hiểu không đúng tinh thần và lời văn của quy phạm. Từ thực tế công tác tập huấn Luật KTNN cho các bộ, ngành, địa phương vừa qua đã cho thấy còn có sự hiểu không đúng quy định này: một số đại biểu cho rằng kết luận, kiến nghị kiểm toán chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với đơn vị được kiểm toán khi đã được đơn vị được kiểm toán chấp nhận. Vấn đề cần phải hiểu đúng: đây là 2 khoản mục riêng biệt có nội dung khác nhau để áp dụng cho các chủ thể khác nhau, cụ thể là: khoản 3 Điều 9 áp dụng cho cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng kết luận kiểm toán, còn đối với đơn vị được kiểm toán được áp dụng theo điểm đ khoản 2 Điều 9. Để bảo đảm yêu cầu ngôn ngữ của văn bản quy phạm pháp luật: chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải đơn giản, dễ hiểu, đối với những thuật ngữ chuyên môn cần phải xác định rõ nội dung trong văn bản; do vậy, cần phải xác định rõ cơ quan, người có thẩm quyền là những chủ thể nào, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể này đối với quyết định của mình. - Luật Kiểm toán nhà nước còn thiếu một số quy định về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu về dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước; quy định: “Người đứng đầu đơn vị được kiểm toán phải ký biên bản kiểm toán” (khoản 5 Điều 65)..., trong một số trường hợp đã gây khó khăn cho hoạt động kiểm toán. - Khoản 4 Điều 64 Luật Kiểm toán nhà nước quy định đơn vị được kiểm toán có quyền: “...kiến nghị với Tổng Kiểm toán Nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đánh giá, xác nhân, kết luận và kiến nghị kiểm toán khi có căn cứ cho rằng đánh giá, xác nhân, kết luận và kiến nghị đó là trái pháp luật”; đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Kiểm toán nhà nước: “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của đơn vị được kiểm toán về báo cáo kiểm toán, Tổng Kiểm toán Nhà nước phải xem xét, giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không quá bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị”. Tuy nhiên, Luật Kiểm toán nhà nước chưa quy định rõ đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền này trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ khi nhận được báo cáo kiểm toán. Để bảo đảm trật tự pháp lý trong hoạt động kiểm toán, cần bổ sung quy định về thời hạn cho phép đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền kiến nghị; đồng thời quy định đơn vị được kiểm toán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các bằng chứng để chứng minh cho ý kiến kiến nghị của mình. - Lĩnh vực kiểm toán doanh nghiệp chưa bao quát hết nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính và tài sản công của Nhà nước ở doanh nghiệp; mới chỉ thực hiện kiểm toán ở các doanh nghiệp nhà nước, chưa thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước ở các doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Bốn là: Chưa có những quy định cụ thể về chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước Trong hoạt động kiểm toán cũng như trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào khác, hệ thống pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh nhất thiết phải bao gồm các quy định về chế tài để xử lý các vi phạm của các bên tham gia trong các quan hệ đó. Các quy định về chế tài có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng để tăng cường pháp chế trong hoạt động kiểm toán đảm bảo hoạt động kiểm toán diễn ra theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan hầu như chưa có các quy định về chế tài trong các trường hợp vi phạm của đơn vị được kiểm toán, của Kiểm toán viên, đoàn kiểm toán, cơ quan kiểm toán, các tổ chức và cá nhân có liên quan (trừ một loại quy định rất chung như: “ chịu trách nhiệm trước pháp luật”; “đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật... ” . Chính do chưa có các quy định về chế tài một cách cụ thể và đầy đủ cho nên việc chấp hành pháp luật về kiểm toán chưa nghiêm, phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu lực của hoạt động kiểm toán của KTNN. 2.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm toán nhà nước Thực tiễn thi hành pháp luật đã cho thấy xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ là một việc khó khăn, phức tạp, song vấn đề còn khó khăn, phức tạp hơn và mang tính quyết định là làm thế nào để đưa được các quy định của pháp luật vào cuộc sống, trở thành hành động thực tiễn của con người. Đối với lĩnh vực KTNN, ngay từ khi mới được thành lập cùng với việc quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, KTNN rất chú trọng công tác tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là từ khi Luật Kiểm toán nhà nước được ban hành. Thực trạng tổ chức thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan được thể hiện qua các nội dung chủ yếu như sau: Thứ nhất, xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật KTNN Để nhanh chóng đưa Luật KTNN vào cuốc sống, KTNN đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Ngay sau khi Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua, Tổng KTNN đã ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thi hành Luật Kiểm toán nhà nước. Ban Chỉ đạo đã huy động cán bộ, kiểm toán viên có nhiều kinh nghiệm trong toàn ngành tập trung trí tuệ và thời gian để phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, bộ, ngành liên quan xây dựng trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước. Cho đến nay 7 Nghị quyết của UBTVQH, 02 Nghị định của Chính phủ, 04 Thông tư và Thông tư liên tịch đã được ban hành hướng dẫn chi tiết, đồng bộ Luật Kiểm toán nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 15/9/2005 của UBTVQH về cơ cấu tổ chức của KTNN và Nghị định số 91/2008/NĐ-CP ngày 18/8/2008 của Chính phủ về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN. Trong phạm vi thẩm quyền, Tổng KTNN đã ban hành 63 Quyết định trong đó có 19 văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hoá các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, quy chế hoá các hoạt động làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động KTNN trên thực tế, làm cơ sở để quản lý, điều hành các hoạt động của ngành theo hướng minh bạch, công khai, chuyên nghiệp và chính quy hoá, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là để nâng cao chất lượng kiểm toán và kiểm soát, quản lý đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Việc chủ động và khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước đầy đủ và đồng bộ đã bảo đảm hiệu lực thi hành và tính khả thi của Luật KTNN. Tuy nhiên, một số quy định của Luật Kiểm toán nhà nước cần được quy định cụ thể như về thành lập hệ thống kiểm toán nội bộ (khoản 3 Điều 6); KTNN trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương (khoản 4 Điều 15) đến nay vẫn chưa được ban hành cũng làm ảnh hưởng đến tính đồng bộ và gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Việc tổ chức nghiên cứu, triển khai xây dựng, hoàn thiện một số văn bản quan trọng làm cơ sở cho quản lý, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán còn chậm, như: hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán, Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán, Quy trình kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán...còn chậm đã ảnh hưởng đến việc chỉ đạo, điều hành và nâng cao chất lượng kiểm toán. Thứ hai, tuyên truyền, tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước Để nhanh chóng đưa Luật kiểm toán nhà nước vào cuộc sống, cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó công tác tuyên truyền, tập huấn Luật kiểm toán nhà nước cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc phạm vi áp dụng của Luật kiểm toán nhà nước (Điều 2) là một biện pháp quan trọng. Thấy rõ tầm quan trọng của công tác này, ngay sau khi Quốc hội thông qua Luật, Kiểm toán Nhà nước đã có kế hoạch đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến sâu rộng Luật kiểm toán nhà nước đến các cơ quan nhà nước và các đơn vị từ trung ương đến địa phương có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước để các cơ quan, đơn vị đó thực hiện đúng luật; đồng thời phối hợp tạo điều kiện giúp Kiểm toán Nhà nước hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Để giúp cho công tác tuyên truyền, tập huấn có hiệu quả, KTNN đã tranh thủ nhiều nguồn lực (từ các dự án do nước ngoài tài trợ) để biên soạn, in ấn và phát hành tài liệu miễn phí (với 17.000 cuốn Hỏi- Đáp về Luật Kiểm toán nhà nước, 3.400 cuốn tài liệu tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước, 2.000 cuốn Quy chế làm việc của KTNN và Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN,… ) bảo đảm rõ ràng, dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân nghiên cứu, hiểu Luật Kiểm toán nhà nước một cách có hệ thống và đầy đủ. Năm 2006 và năm 2007 Kiểm toán Nhà nước đã phối hợp với Dự án DANIDA/KTNN tổ chức 40 lớp tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước (năm 2007 tổ chức 32 lớp, năm 2008 tổ chức 8 lớp), trong đó 5 lớp tập huấn chuyên sâu cho cán bộ, công chức, Kiểm toán viên nhà nước; 35 lớp cho các Bộ, cơ quan trung ương, các Tổng công ty 91 của Nhà nước và các địa phương trên phạm vi toàn quốc. Tổng số đại biểu tham dự các lớp tập huấn Luật kiểm toán nhà nước gần 6000 học viên là đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các cán bộ làm công tác quản lý tài chính, kế toán tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước... Việc tổ chức kịp thời, có chất lượng các lớp tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước đã góp phần phục vụ tích cực cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Kiểm toán nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm toán của KTNN. Tuy nhiên, mặc dù công tác tuyên truyền, tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước đã đạt được kết quả quan trọng, song chưa đáp ứng nhu cầu tìm hiểu Luật Kiểm toán nhà nước ngày càng sâu, rộng của các cấp, các ngành và của xã hội. Do Luật Kiểm toán nhà nước là một đạo luật quan trọng, có liên quan đến các cấp ngân sách, đến tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, do vậy, Kiểm toán Nhà nước cần tổ chức tập huấn Luật kiểm toán nhà nước sâu rộng hơn nữa đến các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhất là các cấp lãnh đạo và những người trực tiếp thực hiện, giúp họ tuân thủ pháp luật và phối hợp tạo điều kiện giúp Kiểm toán Nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Thứ ba, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm toán Hoạt động kiểm toán là một trong những nội dung quan trọng của Luật Kiểm toán nhà nước. Do vậy, Luật Kiểm toán nhà nước đã dành một chương riêng (Chương IV) gồm 7 mục với 30 điều quy định về hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Các quy định của Chương này được quy định khá chi tiết và đầy đủ về các loại hình kiểm toán và nội dung của từng loại hình đó; quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục và quy trình tiến hành một cuộc kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Hoạt động kiểm toán được xây dựng theo trình tự thủ tục mang tính tố tụng, bảo đảm chặt chẽ. Với khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt động KTNN ngày càng rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức kiểm toán, tiến bộ về chất lượng kiểm toán, công khai về kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật. - Về quy mô kiểm toán, đã tăng dần số lượng cuộc kiểm toán theo từng năm; từ năm 2006 (năm đầu triển khi thực hiện Luật Kểm toán nhà nước) mỗi năm KTNN thực hiện kiểm toán từ 90 đến 130 đầu mối (Bộ, ngành, cơ quan trung ương, tỉnh, thành phố, tập đoàn, tổng công ty ), bình quân gấp 2 lần so với giai đoạn trước, riêng lĩnh vực đầu tư XDCB có số lượng các dự án đầu tư được kiểm toán gấp 4 lần. Đối với lĩnh vực NSNN, số lượng đầu mối và tổng số thu, chi NSNN được kiểm toán tăng nhanh. Nếu năm 2004, kiểm toán tại 8 Bộ, ngành và 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 5,38% chi ngân sách trung ương, 29% tổng số chi NSĐP, và 38% tổng số thu NSNN thì đến năm 2008, kiểm toán tại 20 Bộ, ngành và 35 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 29% tổng chi ngân sách Trung ương, 49% tổng số chi NSĐP và 60% tổng số thu NSNN đã được kiểm toán. Khoảng cách bình quân giữa 2 lần kiểm toán mỗi đơn vị cũng rút ngắn. Trong 05 năm gần đây, hầu hết các đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, bảo hiểm được kiểm toán 2-3 năm một lần; trung bình mỗi năm kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN của 50% số tỉnh, thành phố. Nhiều đơn vị được kiểm toán thường xuyên hàng năm theo luật định như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội.... Đồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan