MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THUỶ 7
1.1. Khái niệm, nguyên tắc và những điều kiện bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy 12
1.3. Các điều kiện bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy 19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY Ở TỈNH AN GIANG 23
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc điểm ý thức pháp luật, cơ sở hạ tầng giao thông đường thủy ảnh hưởng đến tình hình pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang 23
2.2. Tình hình pháp chế giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang từ năm 2003 đến nay 34
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân 52
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY Ở TỈNH AN GIANG 62
3.1. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang - yêu cầu cấp bách hiện nay 62
3.2. Giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang 65
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2743 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời chết, bị thương do tai nạn giao thông. Các chỉ đạo của tỉnh tập trung vào các nội dung sau:
- Xây dựng 08 vùng quy hoạch các vùng neo đậu bè cá tỉnh An Giang;
- Thực hiện Chỉ thị số 200/TTg ngày 29/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi trường Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 10/2005/CT-UB ngày 29/3/2005 về việc thực hiện các biện pháp tháo dỡ cầu tiêu không hợp vệ sinh, nhà ở vi phạm hành lang sông, kênh, rạch.
- Chỉ thị 09/2006/CT-UB ngày 12/6/2006 về việc lập lại trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Quyết định số 1772/QĐ.UBND ngày 12/9/2006 của UBND tỉnh về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 29/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa;
- Quyết định số 2383/QĐ.UBND ngày 01/12/2006 của UBND tỉnh về ban hành Chương trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 29/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa;
- Quyết định số 07/2007/QĐ-UBND ngày 31/01/2007 về việc công bố các tuyến đường thủy nội địa địa phương trên địa bàn tỉnh An Giang;
- Quyết định số 02/2007/QĐ.UBND ngày 04/01/2007 của UBND tỉnh về ban hành quy định về tổ chức, quản lý và khai thác các bến đò, phà trên địa bàn tỉnh An Giang (sửa đổi quy định cho phù hợp với Luật giao thông đường thủy nội địa và quyết định 07/2005/QĐ-BGTVT);
- Căn cứ các Quyết định số 162/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 và 16/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qui hoạch phát triển ngành giao thông vận tải đường bộ và đường sông đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 3247/QĐ-UBND ngày 07/12/2007 về việc phê duyệt qui hoạch hệ thống giao thông thủy, bộ tỉnh An Giang thời kỳ 2007 - 2020;
- Quyết định số 725/QĐ-UBND ngày 19/3/2007 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Đề án di dời nhà trên sông, kênh, rạch đảm bảo vệ sinh môi trường tỉnh An Giang đến năm 2020;
- Chỉ đạo ngành Giao thông vận tải thực hiện việc tổng điều tra phương tiện thủy nội địa trên địa bàn; đăng ký hành chính phương tiện không thuộc diện đăng kiểm trên địa bàn huyện, thị, thành và thực hiện đổi giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thủy nội địa theo quy định; chấn chỉnh công tác quản lý, cấp giấy phép hoạt động bến thủy nội địa, bến khách ngang sông.
Sau Khi Luật Giao thông đường thủy được ban hành và có hiệu lực, cộng với các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ và Bộ ngành có liên quan đã tạo cơ sở pháp lý rất thuận lợi cho địa phương triển khai thực hiện Luật, đến nay bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu quản lý các hoạt động giao thông đường thủy. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai địa phương vẫn còn gặp một số khó khăn, lúng túng do một số qui định do Trung ương ban hành chưa thật sự phù hợp với tình hình thực tế của địa phương (các qui định về đăng ký phương tiện), việc tổ chức bộ máy chưa thật sự hợp lý đã dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao (tỷ lệ phương tiện đăng ký, đăng kiểm đạt tỷ lệ thấp), vi phạm pháp luật giao thông đường thủy vẫn còn xảy ra do một bộ phận nhân dân và người điều khiển phương tiện thủy có ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế, chế tài áp dụng còn chưa đủ sức răn đe.
2.2.2. Quản lý nhà nước về giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang
- Cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm chung là UBND tỉnh, cơ quan quản lý nhà nước chuyên môn tại địa phương là Sở Giao thông Vận tải và các cơ quan phối hợp là Sở Tài nguyên & Môi trường (khai thác khoáng sản), Sở Nông nghiệp & PTNT (quản lý hệ thống kênh thủy lợi tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp); Sở Tài chính, Công an tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố.
Hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh tập trung vào các công việc sau: thực hiện các biện pháp bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa, chống lấn, chiếm hành lang bảo vệ luồng, bảo đảm trật tự an toàn giao thông trật tự đường thủy nội địa và chịu trách nhiệm về trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa; tổ chức cứu nạn, giải quyết hậu quả các vụ tai nạn trên phạm vi đường thủy nội địa; Xây dựng và tổ chức thực hiện qui hoạch phát triển giao thông đường thủy; tổ chức thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường thủy nội địa; kiểm tra, xử lý vi phạm về giao thông đường thủy nội địa theo thẩm quyền; áp dụng các biện pháp thiết lập trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa; kiểm tra việc thực hiện pháp luật ở các cơ quan, đơn vị cơ sở có hiệu quả; Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đơn vị cơ sở, cũng như của cán bộ công chức nhà nước thuộc quyền quản lý.
Căn cứ qui định của Luật và hướng dẫn của Bộ Giao thông Vận tải tại Quyết định số 07/2005/QĐ-BGTVT ngày 07/01/2005 của Bộ Trưởng Bộ Giao thông Vận tải về việc ban hành qui chế quản lý hoạt động của cảng, bến thủy nội địa, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành quyết định số 02/2007/QĐ.UBND ngày 04/01/2007 về việc ban hành quy định về tổ chức quản lý và khai thác các bến khách ngang sông trên địa bàn tỉnh An Giang, theo đó nhằm tổ chức quản lý việc cho phép mở bến khách, điều kiện an toàn hoạt động của bến, phương tiện và người điều khiển phương tiện; qui định việc tổ chức, đấu thầu khai thác bến khách ngang sông; qui định khoản thu ngân sách từ kết quả đấu thầu các bến khách; đầu tư xây dựng, sửa chữa bến bãi bảo đảm an toàn thuận tiện.
Quản lý đăng ký phương tiện thủy từ ngày 01/9/1996 đến ngày 30/12/2006 là 13.126 chiếc = 545.204 mã lực và 495.751,5 tấn/phương tiện, 9.848 ghế, tuổi thọ trung bình của phương tiện thủy là 14,8 năm; Từ năm 1993 đến năm 2006 đã tổ chức đào tạo bổ túc và cấp bằng thuyền trưởng, máy trưởng cho 5.113 người dân hành nghề trên sông nước, trong đó: bằng thuyền trưởng hạng III là 2.047, bằng thuyển trưởng hạng IV là 2.445 và bằng máy trưởng tàu sông là 621 hồ sơ.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về đường thủy Trung ương đóng trên địa bàn: Đoạn quản lý đường sông số 13, Đoạn quản lý đường sông số 15; Cảng vụ đường thủy nội địa (khu vực IV), Đội Thanh tra giao thông đường thủy số 7, Chi cục Đăng kiểm phương tiện thủy.
Hoạt động của các cơ quan trung ương trên địa bàn tập trung vào các nhiệm vụ sau: quản lý các tuyến kênh, sông do thuộc thẩm quyền; hướng dẫn và cấp phép xây dựng các công trình nằm trong phạm vi hành lang bảo vệ luồng chạy tàu, quản lý và cấp phép các cảng biển, cảng biển pha sông, bến bốc dỡ hàng hóa, bến chuyên dùng; tổ chức đăng kiểm các phương tiện thủy có tải trọng trên 5 tấn; tiếp nhận thông tin về tình hình luồng, lạch để thông báo kịp thời cho các chủ, thuyền trưởng hoặc người điều khiển phương tiện trước khi rời cảng, bến.
Ngoài việc độc lập thực hiện chức năng quản lý nhà nước được giao, tỉnh An Giang và các cơ quan chuyên môn Trung ương đóng trên địa bàn đã có sự phối hợp thông qua việc tổ chức các Đoàn Công tác kiểm tra liên ngành Đường thủy nội địa thường xuyên tổ chức đợt công tác kiểm tra tiến hành giải tỏa phương tiện neo đậu lấn chiếm luồng và phương tiện bơm cát nằm ngay cua cong, giải tỏa vị trí đặc đáy cá trên sông ra khỏi luồng tàu chạy nhằm đảm bảo giao thông thông suốt và an toàn; kiểm tra các bến khách ngang sông, bến thủy nội địa; Kiểm tra phương tiện, biển báo hiệu, trục vớt và thanh thải chướng ngại vật, khơi thông và nạo vét luồng chạy tàu.
Từ khi Luật Giao thông đường thủy nội địa có hiệu lực thi hành (01/01/2005) Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang đã ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai Luật, tập trung chủ yếu là việc hàng năm đều ban hành Chỉ thị về việc chấn chỉnh hoạt động của các bến khách ngang sông, nghiêm cấm việc đặt đăng, chà, đáy vó trên sông từ năm 2005, đã chấn chỉnh và hạn chế tối đa nạn khai thác cát sông trái phép, cơ bản đã dỡ bỏ được tình trạng xây cất cầu tiêu trên sông rạch gây ô nhiễm môi trường và vi phạm hành lang bảo vệ luồng chạy tàu theo Chỉ thị 200/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Công tác cải cách hành chính trong việc đăng ký phương tiện, cấp đổi đăng ký phương tiện, gia hạn và cấp đổi bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn đối với người điều khiển phương tiện đã đi vào nề nếp, nhiều loại giấy tờ thủ tục đã được đơn giản hóa tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi làm thủ tục và phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương;
Ngoài ra, cơ quan chịu trách nhiệm chung trong vấn để bảo đảm trật tự an toàn giao thông về đường bộ và đường thủy của tỉnh là Ban An toàn giao thông. Trưởng Ban do đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh đảm nhiệm, các Phó trưởng Ban là giám đốc Sở Giao thông Vận tải, Giám đốc Công an tỉnh và thủ trưởng các Sở, ngành, tổ chức đoàn thể có liên quan là thành viên (các đồng chí này hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm), Văn phòng thường trực Ban An toàn Giao thông là bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm tham mưu, theo dõi tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn để báo cáo cho Trưởng Ban có những chỉ đạo kịp thời các vấn đề liên quan đến công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Tương ứng ở cấp huyện, thị, xã cũng có các Ban An toàn giao thông (nhưng không có bộ phận chuyên trách).
Bộ máy tổ chức của ngành giao thông vận tải đã được bố trí đầy đủ theo qui định, nhưng tính hiệu quả và khoa học chưa cao. Trên địa bàn tỉnh trải dài và rộng với 11 đơn vị hành chính, nhưng chỉ có 01 Chi cục đăng kiểm phương tiện thủy của Trung ương đặt tại TP. Long Xuyên; về phía tỉnh An Giang chưa có Chi cục đăng kiểm phương tiện thủy; Công tác tổ chức đăng ký phương tiện thủy tập trung tại Sở Giao thông Vận tải (chưa triển khai về huyện) nên việc thời gian đi lại và các thủ tục còn chưa hợp lý đã dẫn đến tình trạng người dân chấp nhận chịu phạt còn rẻ hơn chi phí và thời gian di chuyển về trung tâm hành chính là thành phố Long Xuyên để đăng ký, đăng kiểm phương tiện. Tại chính quyền cơ sở hiện chỉ tập trung vào giao thông đường bộ nông thôn nên công tác quản lý về giao thông thủy chưa được quan tâm đúng mức do thiếu kinh phí và con người;
Lực lượng tuần tra kiểm soát Cảnh sát giao thông đường thủy và Thanh tra giao thông là các lực lượng thực hiện chức năng tuần tra kiểm soát các hoạt động giao thông đường thủy trên địa bàn tỉnh. Lực lượng Cảnh giao giao thông đường thủy chỉ bố trí 45 biên chế cho cấp tỉnh và cấp huyện không có cảnh sát giao thông đường thủy; Lực lượng Thanh tra giao thông trực thuộc Sở Giao thông Vận tải không bố trí thanh tra viên chuyên trách về đường thủy và không có phương tiện tuần tra.
Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động giao thông đường thủy của địa phương thời gian qua tuy có tiến bộ, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và hiệu quả chưa cao. Do đặc thù về tập quán cư trú của nhân dân và thời gian dài thiếu sự quản lý nên tình trạng lấn chiếm hành lang bảo vệ luồng và luồng chạy tàu xảy ra phổ biến, do đó công tác khắc phục rất khó khăn; cơ quan quản lý chuyên ngành thiếu sự phối hợp và kiểm tra, giám sát cộng với chính quyền cơ sở chưa thật sự quan tâm đã dẫn đến tình trạng các bến khách ngang sông vi phạm các qui định về an toàn kỹ thuật xảy ra phổ biến và kéo dài; việc bố trí bộ máy tổ chức chưa hợp lý nên tỷ lệ không đăng ký, đăng kiểm của phương tiện thủy vẫn còn cao.
2.2.3. Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật
2.2.3.1. Công tác tuyên truyền phổ biến Luật
Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm có ảnh hưởng quyết định đến việc thực hiện thành công công tác triển khai thực hiện Luật, Ban An toàn giao thông tỉnh An Giang và ngành giao thông Vận tải đã chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng có liên quan như cơ quan văn hóa thông tin, Công an, Sở Tư pháp và huy động sự ủng hộ của các đoàn thể, tổ chức như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Dân vận TU, Ban Tuyên giáo TU Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh ký kết các kế hoạch liên tịch hàng năm để tổ chức các hoạt động tuyên truyền như: cung cấp các tài liệu sổ tay Luật giao thông đường thủy nội địa, bản Quy tắc báo hiệu Đường thủy nội địa; cấp sổ tay Nghị định số 09/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa cho lực lượng Cảnh sát giao thông và thanh tra giao thông cùng 11 huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị có liên quan và cho các chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện thủy; Đại diện Cảng vụ khu vực IV, Đoạn Quản lý Đường sông số 13 phối hợp UBND các huyện, thị xã vận động nhân dân tháo dỡ cầu khỉ, cầu tiêu trên sông, kênh, rạch.
Định kỳ hàng năm đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh kiêm trưởng Ban An toàn giao thông đều thực hiện ký kết kế hoạch liên tịch với các tổ chức, đoàn thể để vận động các hội viên cùng tham gia tuyên truyền, giáo dục pháp luật giao thông đường thủy trong cộng đồng. Hoạt động nổi bật nhất là Liên đoàn lao động, Tỉnh Đoàn, Hội Nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh đã phối hợp cùng Công an tỉnh, Sở Giao thông Vận tải tổ chức triển khai nhiều hoạt động thiết thực để tuyên truyền phổ biến pháp luật, như tổ chức các hội thi “Tìm hiểu Luật giao thông Thủy - Bộ” cho đoàn viên các trường Trung học phổ thông trong toàn tỉnh và Trường dạy nghề An Giang, các đoàn viên tham gia đứng chốt cùng lực lượng cảnh sát giao thông, các đêm diễn văn nghệ chủ đề về an toàn giao thông, các chị phụ nữ vận động các thành viên trong gia đình chấp hành luật giao thông.
Đài PT-TH An Giang và Đài PT-TH Trung ương thường trú tại Cần Thơ thực hiện các phóng sự như: “Tổng kết công tác tuyên truyền năm 2005 và phương hướng công tác tuyên truyền năm 2006”, “Thực trạng mắc lưới điện ở khu vực chợ nổi Long Xuyên ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông”, “Bến bãi và phương tiện không đăng ký, đăng kiểm”, “Bằng cấp, CCCM của người người đăng ký phương tiện tham gia giao thông và những hình thức phạt bổ sung khi vi phạm trật tự an toàn giao thông”, “Biển báo hiệu, phao tiêu hướng dẫn luồng trong mùa mưa lũ”, “Kiểm tra hoạt động các bến bãi trong mùa mưa lũ lụt”; Tổ chức được nhiều hội thi tìm hiểu “Luật giao thông Đường thủy nội địa” với nhiều bài dự thi và tiểu phẩm về an toàn giao thông đường thủy.
- Ngành Giao thông vận tải đã chủ động phối hợp Chi Cục Đường sông phía Nam mở lớp tập huấn triển khai “Luật giao thông Đường thủy nội địa và các văn bản có liên quan khác” cho cán bộ và công nhân viên chức của các đơn vị trực thuộc Sở Giao thông Vận, Công ty Phà An Giang, Chi Cục Đăng kiểm An Giang, Đội Thanh tra Giao thông Đường thủy số 7, Cảng vụ Mỹ Thới, các doanh nghiệp vận tải, các đơn vị quản lý bến và Đại diện Cảng vụ ĐTNĐ khu vực IV tại Long Xuyên; tổ chức tập huấn, phổ biến kiến thức quản lý và khai thác đường thủy cho 3.500 người trực tiếp tham gia vận tải đường thủy. Tổ chức vận động, tuyên truyền các chủ đò, người lái phương tiện tại các bến khách ngang sông làm cam kết thực hiện nghiêm chỉnh công tác an toàn giao thông thủy trong dịp tết cổ truyền Ất Dậu và trong mù lũ năm 2006.
Sau hơn 03 năm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được đánh giá là sôi nổi, sâu rộng, có trọng tâm đã góp phần nâng cao được ý thức của người dân và người điều khiển phương tiện thủy. Tai nạn giao thông và số người chết trong lĩnh vực này tuy vẫn còn nhưng đã giảm đáng kể, tình trạng khai thác cát sông đã được chấn chỉnh, đã thực hiện việc xóa các cầu tiêu trên sông rạch gây ô nhiễm môi trường và cản trở lưu thông. Tuy nhiên công tác tuyên truyền vẫn chưa được tổng kết, đánh giá rút ra được các hạn chế, việc đánh giá kết quả vẫn dựa vào cảm tính mà chưa có con số cụ thể, để từ đó chưa tập trung khắc phục những yếu kém trong quá trình triển khai thực hiện, vẫn còn một số chính quyền cơ sở chưa quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giao thông đường thủy, thậm chí còn vì lợi ích cục bộ từ việc thu phí đấu thầu bến khách ngang sông, thu phí giăng chà, đáy, lưới mà dung túng cho các vi phạm; vẫn còn bộ phận người điều khiển phương tiện chưa có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật nên vẫn còn xảy ra tình trạng lấn chiếm hành lang bảo vệ luồng và luồng chạy tàu, chở quá tải, không đăng ký đăng kiểm, không bằng cấp chuyên môn.
2.2.3.2. Tình hình tai nạn giao thông và xử lý vi phạm pháp luật
- Về tình hình trật tự an toàn giao thông đường thủy trên địa bàn
Qua thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia thì An Giang đứng thứ 5/64 tỉnh thành cả nước về tai nạn giao thông đường thủy và theo báo cáo của Ban an toàn giao thông tỉnh thì từ năm 2004 đến 2007 trên địa bàn tỉnh An Giang riêng giao thông đường thủy nội địa đã xảy ra 33 vụ TNGT, làm chết 15 người và 03 người bị thương.
Sau khi Luật Giao thông đường thủy nội địa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành, đồng thời cùng với quyết tâm của hệ thống chính trị, tình hình trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn tỉnh An Giang đã có bước chuyển biến tích cực, số vụ tai nạn giao thông đường thủy và số người chết do tai nạn đã giảm rõ rệt so với trước khi có Luật, tình hình cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Tình hình tai nạn giao thông đường thủy từ 2005-2007
Số vụ
Số người chết
Số người bị thương
Thiệt hại về TS
Năm 2005
06
04
0
256 triệu đồng
Năm 2006
04
02
1
407 tiệu đồng
Năm 2007
08
06
01
310 triệu đồng
Nguồn: Phòng CSGT Đường thủy tỉnh AG- PC.25.
Bảng 2.3: Nguyên nhân tai nạn giao thông đường thủy
Năm
Số vụ
Vi phạm nguyên tắc tránh vượt
Đi không đúng luồng tuyến
Vi phạm về bằng cấp, CCCM
Nguyên nhân khác hoặc do thời tiết
2005
06
03
01
01
01
2006
04
02
02
-
-
2007
08
04
-
03
01
Nguồn: Phòng CSGT Đường thủy tỉnh AG- PC.25.
- Một số vụ tai nạn điển hình
+ Năm 2005
. Vụ thứ 1: Vào lúc 18h30 ngày 17/11/2004 tại bến phà Chợ Vàm thuộc thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú Tân. Xe tải 76K-2225 có tải trọng 9,5tấn do Trần Thanh Hùng (1978) điều khiển xe xuống phà số hiệu ĐT 9893H qua sông sang bờ Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Trong lúc xe xuống phà thì xe bị lệch về phía bên phải, do đó làm phà bị nghiêng nước tràn vào cabin phà và chìm tại chỗ. Hậu quả: làm chết 02 người (Ngô Tấn Hùng, SN 1972; Võ Mạnh Em SN 1971), thiệt hại về tài sản 20,4 tấn đậu nành.
Nguyên nhân: Phà thiếu cột bít để chằng buộc phà khi cho phương tiện lên xuống bến, không có người hướng dẫn phương tiện lên xuống phà; Chủ phương tiện bất chấp qui định về cấm chở xe tải.
. Vụ thứ 2: Vào lúc 19h15 ngày 06/4/2005 tại đoạn kênh thuộc tổ 6, ấp Xuân Biên, xã Xuân Tô, huyện Tịnh Biên đã xảy ra vụ tai nạn giao thông đường thủy giữa 02 xuồng có gắn động cơ. Hậu quả làm chết 01 người là anh Võ Văn Hồ. Nguyên nhân: do Nguyễn Văn Ca điều khiển xuồng đi sai tuyến, đụng phải xuồng gắn máy do anh Lê Văn Gát điều khiển đi từ hướng An Phú đi Xuân Tô.
+ Năm 2006
. Vụ Thứ 1: Vào lúc 9h00 ngày 28/11/2006 tại khu vực tổ 3, ấp Long Hưng, xã Long Sơn, huyện Phú Tân. Tàu đẩy mang số hiệu SG-0930 có trọng tải 4.234,6 tấn, công suất 720CV do Trần Văn Chẩn điều khiển đẩy 09 xà lan Lash chở lúa mì của Công ty Đường sông Miền Nam chạy từ hướng Phú Tân lên Tân Châu đã va chạm 11 bè nuôi cá đang neo đậu dọc bờ sông. Làm thiệt hại về tài sản khoảng 700 triệu đồng. Nguyên nhân: do người điều khiển phương tiện tài kéo đẩy đi không đúng luồng.
. Vụ thứ 2: Vào lúc 03h35 ngày 25/9/2006 tại đoạn sông kênh cầu chữ S, khu vực ấp Bình Thới, xã Bình Phú, huyện Châu Phú xảy ra tai nạn giao thông đường thủy giữa 03 xuồng gắn động cơ. Nguyên nhân do Lê Phước Hậu (1973) điều khiển xuồng gắn máy đi từ hướng kênh chữ S - kênh 13, đến khu vực trên do tránh chướng ngại vật đã va phải xuồng máy do Võ Văn Đoán (1976) điều khiển đi ngược chiều, sau đó tiếp tục va chạm vào phương tiện do do Nguyễn Văn Phúc (1972) điều khiển đi ngược chiều. Hậu quả làm chết Nguyễn Văn Phúc, chìm 02 xuồng máy.
+ Năm 2007
. Vụ Thứ 1: Vào lúc 5h30 ngày 28/01/2007 tại ngã ba kênh Vàm Xáng, thuộc tổ 5, ấp Long Thạnh, xã Long An, huyện Tân Châu. xảy ra tai nạn giữa xà lan tự hành mang số hiệu CT-01692 có tải trọng 125 tấn, công suất 145CV (không tải) do Lâm Công Dân (1969) điều khiển đi từ hướng Châu Đốc đến Tân Châu khi đến ngã ba Vàm Xáng đụng vào xuồng tam bản có gắn động cơ 05CV do Cao Văn Hải (1976) điều khiển đi từ hướng ngược lại. Hậu quả làm chết 04 người đi trên xuồng tam bản. Nguyên nhân: do người điều khiển phương tiện xà lan tự hành không có bằng cấp chuyên môn theo qui định và do thời tiết có sương mù, tầm nhìn bị hạn chế nên không phát hiện được phương tiện đi ngược chiều.
. Vụ thứ 2: Vào lúc 02h00 ngày 20/8/2007 tại ngã ba sông Vàm Nao thuộc khu vực ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, huyện Phú Tân xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy tự chìm. Trần Văn Nhớ (1990) điều khiển phương tiện không số, có tải trọng 04 tấn, công suất 09 CV, chở 4.181Kg củ kiệu và 05 người làm thuê thu hoạch củ kiệu. Khi đến đoạn sông trên gặp dòng xoáy, phương bị chìm. Hậu quả làm chết 02 người. Nguyên nhân: chở quá tải trọng, người điều khiển phương tiện không thông thuộc luồng lạch, sắp xếp hàng hóa cồng kềnh.
Theo báo cáo điều tra nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường thủy nội địa và qua các vụ tai nạn điển hình đã nêu trên, thì có đến 82% số vụ tai nạn giao thông dẫn đến chết người là do lỗi chủ quan của người điều khiển phương tiện. Đồng thời cũng theo báo cáo trên cho thấy, An Giang là tỉnh đứng thứ 5 toàn quốc về tai nạn giao thông đường thủy nội địa, nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông đường thủy trên địa bàn là vô cùng phức tạp, không chỉ xảy ra đối với người không được học tập pháp luật, không có chứng chỉ chuyên môn mà còn xảy ra đối với người đã được đào tạo, có bằng cấp; không chỉ xảy ra trên các tuyến giao thông chính mà còn xảy ra ở vùng sâu, vùng xa; không chỉ xảy ra ở nơi có mật độ giao thông lớn mà còn xảy ra ở nơi có ít phương tiện lưu thông.
- Kết quả kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong 03 năm
Tổng kiểm tra 48.640 trường hợp, phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính 43.664 trường hợp (89,7%), ra quyết định xử phạt 42.954 trường hợp với số tiền 18.975,3 triệu đồng; bao gồm các loại vi phạm sau đây:
+ Vi phạm của phương tiện:
. Vi phạm về quản lý và bảo vệ công trình kết cấu hạ tầng giao thông 24 trường hợp;
. Vi phạm về phương tiện thủy nội địa 16.170 trường hợp;
. Vi phạm về thuyền viên, người lái phương tiện 6.414 trường hợp;
. Vi phạm qui tắc giao thông và tín hiệu của phương tiện 162 trường hợp;
. Vi phạm qui định về hoạt động của cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa 21.054 trường hợp (trong đó chở quá vạch mớn nước, quá tải 20.463 trường hợp).
Kết quả kiểm tra, xử lý các lỗi vi phạm chủ yếu của các phương tiện thủy cho thấy tình trạng chở quá vạch mớn nước, quá tải của các phương tiện thủy diễn ra khá phổ biến nhất (chiếm 46,9% / tổng số vi phạm), vi phạm về điều kiện kỹ thuật phương tiện (37,3%), vi phạm về bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên, người lái phương tiện (14,6%). Đây là những lỗi vi phạm trực tiếp và do ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật về giao thông đường thủy của bộ phận không nhỏ người điều khiển phương tiện, chủ phương tiện. Việc các chủ phương tiện chấp nhận đóng phạt để chở quá tải là căn bệnh phổ biến của các phương tiện vận tải thủy ở đồng bằng Sông Cửu Long nói chung và của tỉnh An Giang nói riêng, nguyên nhân là do chủ phương tiện không có ý thức chấp hành pháp luật, do lợi nhuận về kinh tế chi phối và điều quan trọng là chế tài áp dụng đối với lỗi vi phạm này còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
+ Vi phạm của bến cảng, bến khách ngang sông
Theo báo cáo của Đại diện Cảng vụ khu vực IV, đến nay đã quản lý 261 cảng, bến (trong đó có 3 cảng do Cục Đường Sông Việt Nam công bố), qua kiểm tra đã tạm đình chỉ 35 bến, 26 bến ngưng hoạt động, 47 bến hết hạn , 51 bến không giấy phép mở bến.
Lực lượng thanh tra giao thông trong 03 năm đã tổ chức 11 đợt kiểm tra 259 lượt bến khách ngang sông với 576 phương tiện đưa rước. Trong đó phát hiện: 44 bến không có giấy phép mở bến, 98 bến vi phạm các điều kiện về bảo đảm an toàn giao thông - an toàn kỹ thuật, 256 phương tiện không đăng ký, đăng kiểm; không bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn 229 trường hợp; giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật phương tiện hết hiệu lực 157 trường hợp.
Hoạt động vận tải hàng hóa và khai thác của các bến khách ngang sông trên địa bàn tỉnh An Giang nhìn chung rất sôi nổi và nhộn nhịp. Tuy nhiên tình trạng không có giấy phép mở bến, phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, người điều khiển phương tiện không có hoặc bằng cấp chứng chỉ chuyên môn không phù hợp diễn ra khá phổ biến. Nguyên nhân tình trạng này còn tồn tại dai dẳng và ngày càng có xu hướng tăng là do chế tài xử lý đối với các hành vi này còn quá nhẹ, việc tạm đình chỉ hoạt động đối với các bến khách ngang sông là khó thực hiện vì ảnh hưởng đến việc đi lại của bộ phận không nhỏ của nhân dân trong khu vực, chính quyền địa phương thiếu kiên quyết, buông lõng quản lý.
+ Vi phạm hành lang bảo vệ luồng và luồng chạy tàu
Nghề nuôi trồng thủy sản ở địa phương đã hình thành và phát triển từ lâu, nhất là các làng bè nổi trên sông Tiền, sông Hậu. Đồng thời với tập quán sống của người dân Nam Bộ (trên bến, dưới thuyền) đã gây cản trở không nhỏ đến hoạt động giao thông vận tải đường thủy tại địa phương; Tình trạng bè nuôi cá neo đậu lấn chiếm hành lang bảo vệ luồng, thậm chí lấn chiếm luồng chạy tàu hiện nay vẫn còn xảy ra trên tuyến Sông Hậu,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- mục lục.doc