Luận văn Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng - Từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang

MỞ ĐẦU. 1

CHưƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI

TRưỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC ĐÁ LÀM VẬT LIỆU XÂY

DỰNG . 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt

động khai thác đá làm vật liệu xây dựng . 9

1.1.1. Khái niệm . 9

1.1.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm

vật liệu xây dựng. 18

1.1.3. Vai trò của pháp luật đối với việc bảo vệ môi trường trong hoạt động

khai thác đá làm vật liệu xây dựng. 19

1.2. Các nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai

thác đá làm vật liệu xây dựng . 23

1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường

trong lành. 23

1.2.2. Nguyên tắc tính thống nhất trong quản lý và bảo vệ môi trường . 24

1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm sự phát triển bền vững. 25

1.2.4. Nguyên tắc coi trọng tính phòng ngừa. 26

1.2.5. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. 27

1.3. Nội dung pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá

làm vật liệu xây dựng. 29

1.3.1. Các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với bảo vệ

môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. 29

1.3.2. Các quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác

đá làm vật liệu xây dựng của các tổ chức, cá nhân. 31

pdf92 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng - Từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yển chất thải rắn công nghiệp thông thƣờng phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý theo quy định nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải đảm bảo an toàn cho môi trƣờng và sức khỏe con ngƣời. - Quy định pháp luật về phòng ngừa ứng phó sự cố môi trƣờng trong HĐKTĐ Một trong những đặc điểm của HĐKTĐ là thƣờng gây ảnh hƣởng rất lớn tới môi trƣờng và sức khỏe của ngƣời lao động cũng nhƣ ngƣời dân vùng lân cận. Vì vậy, để BVMT và sức khỏe con ngƣời cũng nhƣ đảm bảo HĐKTĐ đƣợc thực hiện có hiệu quả, an toàn, tiết kiệm thì mọi tổ chức, cá nhân đƣợc phép khai thác phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu phù hợp, thân thiện với môi trƣờng. Pháp luật về BVMT trong HĐKTĐ đƣa ra các quy định yêu cầu các chủ thể khi tham gia khai thác khoáng sản phải chủ động xây dựng các phƣơng án, các kế hoạch và dự báo các tình huống xảy ra khi thực hiện dự án để chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về ngƣời và tài sản do HĐKTĐ gây ra. Quy định về sử dụng công nghệ phù hợp, thiết bị thân thiện với môi trƣờng trong khai thác: Theo Điều 30 Luật Khoáng sản 2010, tổ chức, cá nhân HĐKTKS phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trƣờng; thực hiện các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trƣờng và cải tạo, phục hồi môi trƣờng. Cũng theo Điều 38 Luật BVMT 2014, tổ chức, cá nhân khi tiến hành khai thác khoáng sản phải có biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trƣờng; việc sử dụng máy móc, thiết bị có tác động xấu đến môi trƣờng, hóa chất độc hại trong khai thác chế biến khoáng sản phải chịu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan QLNN về BVMT. - Quy định pháp luật về đóng cửa mỏ khoáng sản; cải tạo, phục hồi môi trƣờng sau khi kết thúc HĐKTĐ 35 Luật Khoáng sản, Luật BVMT, Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT tại Chƣơng II quy định cải tạo, phục hồi môi trƣờng và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trƣờng đối với HĐKTKS xác định phải thực hiện cải tạo, phục hồi môi trƣờng ngay trong quá trình HĐKTKS. Từ đó đƣa ra yêu cầu xây dựng đề án cải tạo phục hồi môi trƣờng, đề án cải tạo, phục hồi môi trƣờng bổ sung; phục hồi môi trƣờng; tổ chức thực hiện đề án cải tạo, phục hồi môi trƣờng. Sau khi hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trƣờng theo đề án hoặc đề án bổ sung đƣợc phê duyệt phải lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận, trong hồ sơ phải lấy ý kiến của cộng đồng nơi hoàn thành việc cải tạo, phục hồi môi trƣờng. Trong thời hạn theo luật định, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận hoàn thành toàn bộ nội dung cải tạo, phục hồi môi trƣờng và là cơ sở để tiến hành các thủ tục đóng cửa mỏ, bàn giao đất và các công trình cải tạo, phục hồi môi trƣờng cho địa phƣơng quản lý theo quy định. Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải lập dự án cải tạo, phục hồi môi trƣờng bao gồm: + Tổ chức, cá nhân lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản. + Tổ chức, cá nhân đang khai thác khoáng sản nhƣng chƣa có phƣơng án đƣợc phê duyệt hoặc chƣa ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trƣờng. + Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản đã có phƣơng án đƣợc phê duyệt nhƣng không triển khai thực hiện dự án trong thời gian 24 tháng kể từ thời điểm đƣợc phê duyệt thì phải lập lại phƣơng án. Các đối tƣợng phải lập phƣơng án cải tạo, phục hồi môi trƣờng bổ sung gồm: + Tổ chức, cá nhân đã có giấy phép khai thác khoáng sản và phƣơng án đƣợc phê duyệt nhƣng thay đổi diện tích, độ sâu, công suất khai thác khoáng sản. + Tổ chức, cá nhân đề nghị thay đổi nội dung cải tạo, phục hồi môi trƣờng so với phƣơng án đã đƣợc duyệt. 36 Luật Khoáng sản năm 2010 cũng quy định, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải lập đề án đóng cửa mỏ khoáng sản sau khi kết thúc HĐKTKS. Kinh phí thực hiện đề án đóng cửa mỏ khoáng sản đƣợc lấy từ tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trƣờng của tổ chức, cá nhân đƣợc phép khai thác. 1.3.3. Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng Trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân có những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT trong HĐKTĐ đƣợc hiểu là chế tài mà các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền sẽ áp dụng đối với ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật về BVMT hoạt động khai khai thác đá. Hay nói cách khác, việc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trƣờng trong HĐKTĐ chính là những biện pháp bảo đảm tính cƣỡng chế của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật môi trƣờng trong HĐKTĐ. Vi phạm pháp luật môi trƣờng HĐKTĐ là các hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể thực hiện HĐKTĐ gây ra, xâm phạm các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật môi trƣờng bảo vệ và thƣờng gây hậu ô nhiễm, suy thoái môi trƣờng. Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi phạm pháp luật về BVMT trong HĐKTĐ phải xác định cấu thành vi phạm pháp luật, bao gồm: mặt khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể. Những yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật này sẽ đƣợc làm rõ khi nghiên cứu trách nhiệm pháp lý cụ thể. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đối với mỗi loại vi phạm pháp luật về BVMT trong HĐKTKS có loại trách nhiệm pháp lý tƣơng ứng, đó là: trách nhiệm hành chính, dân sự hay hình sự. 1.4. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng 1.4.1. Cơ chế và chính sách pháp luật về môi trường Đây là yếu tố ảnh hƣởng có tính chất quyết định đến pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng vì cơ 37 chế tạo ra khuân khổ, định hƣớng và chính sách pháp luật là hành lang pháp lý, là cơ sở để quản lý xã hội nói chung và bảo vệ môi trƣờng nói riêng, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp thông lệ quốc tế sẽ là cơ sở vững chắc cho cả đối tƣợng quản lý, đối tƣợng bị quản lý. Thông qua pháp luật, Nhà nƣớc đề ra các chính sách phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội và bảo vệ môi trƣờng; xác định cơ cấu, tổ chức và hoạt động, các biện pháp kiểm tra, giám sát của nhà nƣớc về môi trƣờng; đƣa ra các biện pháp hữu hiệu để xử lý những hiện tƣợng tiêu cực. Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nƣớc và cũng là công cụ để thực hiện hóa các mệnh lệnh quản lý của nhà nƣớc. Pháp luật là công cụ để cho nhà nƣớc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nƣớc và mọi công dân. Pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực để hƣớng dẫn cách sử sự cho mọi ngƣời trong xã hội, vì thế, pháp luật giúp cho mọi chủ thể trong xã hội đều có thể tìm đƣợc cách xử sự phù hợp với ý chí, mong muốn của nhà nƣớc, giúp nhà nƣớc quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. Đồng thời pháp luật giúp nhà nƣớc tổ chức và quản lý các lĩnh vực khác của đời sống nhƣ văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, y tế,... Muốn bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, xã hội, nhân dân, nhà nƣớc, dựa trên căn cứ pháp lý và theo những trình tự thủ tục luật định. Dựa vào pháp luật, Nhà nƣớc giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời đấu tranh chống lại những hiện tƣợng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm môi trƣờng [14, tr. 4]. 1.4.2. Nguồn lực trong quản lý và bảo vệ môi trường 1.4.2.1. Nhân lực Trình độ, năng lực cán bộ và kỹ năng quản lý của đội ngũ làm công tác quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng có ảnh hƣởng rất lớn, có tính chất quyết định đến hiệu lực, hiệu quả công vụ trong quản lý nhà nƣớc về môi trƣờng. 38 Ý thức của chủ doanh nghiệp, tay nghề và kỹ năng lao động của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp khai thác đá làm vật liệu xây dựng cũng ảnh hƣởng rất lớn đến việc bảo vệ môi trƣờng trong các doanh nghiệp đó, vì nếu chủ doanh nghiệp (doanh nghiệp hoặc công nhân không ý thức hoặc cố ý lách luật, nhờn luật, không tuân thủ hoặc ăn bớt quy trình, quy định về xử lý chất thải trƣớc khi xả thải ra môi trƣờng thì sẽ là mối nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến ô nhiễm hoặc thảm họa môi trƣờng... 1.4.2.2. Vốn và công nghệ và tài nguyên Đối với các doanh nghiệp khai thác đá làm vật liệu xây dựng thì vốn và công nghệ là một nhân tố quan trọng quyết định đến công tác bảo vệ môi trƣờng. Nếu một doanh nghiệp ít vốn hoặc không chú ý đầu tƣ ứng dụng công nghệ tiên tiến cả trong trong khai thác, chế biến đá và xử lý chất thải trƣớc khi xả thải ra môi trƣờng thì sẽ không tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu và xả thải nhiều phế liệu hoặc phải xử lý nhiều phế thải trƣớc khi xả thải ra môi trƣờng. Ngƣợc lại, nếu doanh nghiệp có tiềm năng về kinh tế và đầu tƣ công nghệ hiện đại thì sẽ sử dụng hiệu quả tối đa nguồn nguyên liệu và năng lƣợng, ít phế thải hoặc ít phải xử lý phế thải hơn và đƣơng nhiên sẽ đạt hiệu quả tối đa [21, tr. 30]. 1.4.3. Sự đồng thuận trong nhận thức và hành động của cộng đồng dân cư, chủ thể trong xã hội Cộng đồng dân cƣ sinh sống xung quanh các mỏ khai thác đá làm vật liệu xây dựng nếu có ý thức và trách nhiệm cao trong việc giám sát việc xả thải của các doanh nghiệp thì đây là một nguồn lực rất lớn giúp cho pháp luật bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng đƣợc thực thi kịp thời và đầy đủ. Trong thực tế, các doanh nghiệp khai thác đá làm vật liệu xây dựng có xả thải gây ô nhiễm môi trƣờng nhƣng ngƣời dân không báo chính quyền hoặc cơ quan chức năng thì vụ việc sẽ không hoặc chậm đƣợc phát hiện trƣớc khi gây hậu quả nghiêm trọng. 39 Tiểu kết chương 1 Ô nhiễm môi trƣờng đang tác động trực tiếp đến việc hƣởng thụ các quyền con ngƣời, trƣớc hết là quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành. Vì vậy, bảo vệ môi trƣờng nhằm bảo vệ sự phát triển bền vững của môi trƣờng, nâng cao chất lƣợng môi trƣờng sống cũng chính là bảo vệ cuộc sống của con ngƣời, là tiền đề quan trọng để con ngƣời phát triển và hoàn thiện. Hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng bao gồm tổng hợp các hoạt động nhằm thu hồi tài nguyên đá, loại tài nguyên không thể tái tạo. Hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, hoạt động này cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trƣờng và con ngƣời. Hoạt động khai thác đá cần phải đƣợc kiểm soát một cách hiệu quả và chặt chẽ. Một trong số những biện pháp bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng hữu hiệu, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị cũng nhƣ ý thức ngƣời dân Việt Nam là kiểm soát bằng pháp luật. Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ phát sinh và tồn tại trong lĩnh vực khai thác đá giữa các chủ thể nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại xảy ra cho môi trƣờng, khắc phục và xử lý hậu quả nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trƣờng, góp phần duy trì và phát triển nền kinh tế. Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác đá là công cụ để phòng ngừa ô nhiễm môi trƣờng, giúp nâng cao ý thức, góp phần làm thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trƣờng của ngƣời dân, thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam. 40 Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC ĐÁ LÀM VẬT LIỆU XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG 2.1. Thực trạng thực hiện trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng 2.1.1. Trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, phương án cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng Luật BVMT năm 2014 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã quy định chi tiết trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng, xác nhận hoàn thành công trình BVMT, phƣơng án cải tạo, phục hồi môi trƣờng đối với hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng, cụ thể: - Về thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng đã đƣợc quy định tại Điều 23, 24, 25 Luật BVMT năm 2014; Điều 14 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc, đánh giá tác động môi trƣờng và kế hoạch BVMT; Điều 8, 9 Thông tƣ số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29/5/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng về đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc, đánh giá tác động môi trƣờng và kế hoạch BVMT - Về xác nhận hoàn thành công trình BVMT đã đƣợc quy định tại Điều 32 Luật BVMT năm 2014; Điều 17 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc, đánh giá tác động môi trƣờng và kế hoạch BVMT; 41 Chƣơng IV Thông tƣ số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29/5/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng về đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc, đánh giá tác động môi trƣờng và kế hoạch BVMT. - Về phƣơng án cải tạo, phục hồi môi trƣờng đã đƣợc quy định tại Luật BVMT năm 2014; Điều 7, 9, 10 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT; Chƣơng II Thông tƣ số 38/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng cải tạo, phục hồi môi trƣờng. Các quy định cụ thể nêu trên đã giúp cho việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan quản lý tốt hơn. Thông qua thẩm định các đề án, báo cáo trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng giúp Nhà nƣớc có thể quản lý đƣợc một cách đầy đủ và toàn diện nội dung của hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng, xác định ranh giới, diện tích khai thác và loại thiết bị, công nghệ đƣợc sử dụng. Trong quá trình thẩm định báo cáo ĐTM đối với hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng, cơ quan có thẩm quyền cần phải phân tích, đánh giá chính xác quy mô, phạm vi của hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng, sự tác động của hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng đối với môi trƣờng, xem xét tính khả thi, tính hiệu quả của các giải pháp BVMT trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng đƣợc phản ánh trong báo cáo ĐTM để bảo đảm chỉ phê duyệt những báo cáo ĐTM đối với các hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật và kế hoạch BVMT hiệu quả. Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, công tác lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM, xác nhận bản cam kết BVMT đã đƣợc triển khai thực hiện khá tốt và đảm bảo theo quy định của Luật BVMT; Nghị định 18/2015/NĐ-CP, 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ; Thông tƣ 27/2015/TT-BTNMT, 38/2015/TT- BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, theo đó, 100% các cơ sở hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng đều đã có báo cáo đánh giá tác động môi 42 trƣờng đƣợc phê duyệt. Công tác BVMT trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang không có những đặc thù riêng cụ thể nào cần phải giải quyết, xử lý nên đến nay, tỉnh Tuyên Quang không ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trƣờng riêng cho địa phƣơng mà áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trƣờng của quốc gia ban hành. Tất cả các hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn vê môi trƣờng của quốc gia khi đƣợc ban hành đều đƣợc tỉnh Tuyên Quang triển khai áp dụng thực hiện kịp thời tại địa phƣơng theo đúng quy định pháp luật góp phần vào công tác kiểm soát ô nhiễm môi trƣờng tại địa phƣơng đạt kết quả tốt. Việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng, xác nhận hoàn thành công trình BVMT, phƣơng án cải tạo, phục hồi môi trƣờng đối với hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng cho thấy công tác đánh giá tác động môi trƣờng ở tỉnh Tuyên Quang đã đƣợc cơ quan chức năng thực hiện theo đúng quy định. Công tác kiểm soát, phòng ngừa ô nhiễm đƣợc thực hiện ngay trong quá trình thẩm định hồ sơ liên quan: việc thẩm định Báo cáo đánh ĐTM, phƣơng án cải tạo phục hồi môi trƣờng đƣợc Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tổ chức thẩm định theo quy định của pháp luật với sự tham gia của các cá nhân có chuyên môn về lĩnh vực môi trƣờng, khoáng sản công tác tại các cơ quan, viện nghiên cứu ở Trung ƣơng và địa phƣơng (Sở Công Thƣơng, Sở Xây dựng, các phòng chuyên môn thuộc Sở Tài nguyên và Môi trƣờng...) tham gia vào Hội đồng thẩm định và các phòng chuyên môn. Trong quá trình thẩm định đã tập trung đánh giá, dự báo cơ bản đầy đủ các tác động tới môi trƣờng để chủ động kiểm soát. Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, vẫn còn những bất cập trong thực hiện đánh giá tác động môi trƣờng cụ thể nhƣ: - Bản chất của ĐTM là có tính chất dự báo, xoay quanh 2 đối tƣợng: đối tƣợng gây ra tác động và đối tƣợng bị tác động nhƣng chỉ xem xét tác động một chiều nên chỉ dự báo đƣợc các tác động đến môi trƣờng (tự nhiên) mà chƣa thể dự báo các tác động đến môi trƣờng xã hội, sức khỏe con ngƣời, 43 kinh tế, không đánh giá đƣợc các rủi ro nhất là trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng điều đó cho thấy yêu cầu tiến hành những ĐTM bất khả thi, do một vùng, một ngành nhƣng không có hoặc không xác định đƣợc đối tƣợng tác động và bị tác động. Đòi hỏi quá nhiều về tác động kinh tế, xã hội trong khi các phƣơng pháp của ĐTM không cho phép giải quyết, gây tốn kém không cần thiết và nhiều khi không khả thi vì nhiều lý do khác nhau. - Chƣa hiểu đúng, đầy đủ về vị trí và vai trò của ĐTM; ĐTM chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tƣ và có vai trò là một trong những căn cứ và chỉ có giá trị đích thực cho việc ra quyết định phê duyệt dự án đầu tƣ hoặc cấp giấy phép khai thác khoáng sản nên ĐTM đƣợc áp dụng không đúng vị trí không phát huy hiệu quả; dự báo đƣợc thực hiện khi sự việc đã đi qua, gây tốn kém không cần thiết. - Thiếu thông tin cần thiết cho ĐTM, thông tin đầu vào phải có đủ cả hai loại: đối tƣợng tác động - nội dung cụ thể của dự án và đối tƣợng bị tác động - diễn biến tình trạng môi trƣờng, sức chịu tải của môi trƣờng; vì thiếu thông tin nên ĐTM không khả thi và chất lƣợng ĐTM không bảo đảm yêu cầu đặt ra. - Thiếu những chuẩn mực cần thiết cho ĐTM, quy chuẩn kỹ thuật về môi trƣờng cần thiết đối với tất cả các loại tác động (liên quan đến chất thải và không liên quan đến chất thải) nhƣng hiện tại chỉ có các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải, không có các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về những yếu tố không liên quan đến chất thải; cũng nhƣ chƣa có quy chuẩn kỹ thuật địa phƣơng về chất thải để áp dụng cho những nơi sức chịu tải của môi trƣờng xung quanh đã tới hạn hoặc đã quá tải. Do đó, không đủ chuẩn mực để so sánh và xác định mức độ tác động, công tác ĐTM không đáp ứng yêu cầu thực tế của công tác BVMT và phát triển bền vững nhất là trong hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. 44 - ĐTM là công cụ mang tính khoa học và kỹ thuật cao cần có những hƣớng dẫn kỹ thuật càng tỷ mỷ, cụ thể càng tốt nhƣng hiện nay thiếu nhiều hƣớng dẫn kỹ thuật cần thiết về ĐTM nên chất lƣợng ĐTM chƣa cao, áp dụng các cách tiếp cận khác nhau theo nhiều kiểu khác nhau không phù hợp với yêu cầu và quy định của Việt Nam. - Năng lực thẩm định báo cáo ĐTM của các cơ quan có thẩm quyền còn nhiều hạn chế nên còn có việc thẩm định sai quy định hoặc chất lƣợng thẩm định không cao, thậm chí không đáp ứng yêu cầu đặt ra. - Khi thẩm định ĐTM với mục đích chính của việc huy động các bên tham gia là để tăng sự minh bạch của ĐTM, thu thập những thông tin chƣa đƣợc công bố, khai thác kiến thức bản địa; cung cấp thông tin về dự án và các tác động của dự án, nhất là dự án khai thác khoáng sản để tìm kiếm sự ủng hộ của các bên có liên quan nhƣng công tác này còn rất hạn chế nhƣ: đối tƣợng, nội dung, hình thức tham vấn quá hạn hẹp; trách nhiệm tham vấn "đè" quá nặng lên UBND cấp xã trong khi cấp này chƣa đủ năng lực và các điều kiện cần thiết; dẫn đến ĐTM xa rời thực tế, thiếu thông tin cần thiết, nhiều trƣờng hợp tham vấn chỉ mang tính hình thức và đôi khi gặp phải những phản ứng không cần thiết trong quá trình triển khai thực tế. - Hiện nay cơ chế tài chính chƣa rõ ràng, thỏa đáng cho ĐTM nhƣ: quy định về thu phí thẩm định ĐTM ở mức thu quá thấp, mức chi cho thẩm định ĐTM cũng quá thấp không thỏa đáng; bên cạnh đó còn chƣa có các quy định về chi phí cho lập ĐTM nên đối với các dự án khai thác đá thì tình trạng đấu thầu, cạnh tranh không lành mạnh xảy ra gây lộn xộn giữa các cơ quan liên quan. Các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ĐTM chƣa làm tốt hoạt động hậu ĐTM (là hoạt động từ khi phê duyệt báo cáo ĐTM đến khi dự án hoàn thành giai đoạn xây dựng để đi vào hoạt động chính thức) do không đủ các nguồn lực cần thiết, nhất là nhân lực, thiếu các hƣớng dẫn kỹ thuật cần thiết 45 nên xảy ra ô nhiễm, suy thoái môi trƣờng khi vận hành trong thực tế hoặc xảy ra nhiều khiếu kiện phải giải quyết làm mất thời gian, tiền của. - Thời gian qua, ĐTM mới chỉ làm theo từng dự án riêng lẻ mà chƣa đƣợc tiến hành ĐTM tổng hợp (là ĐTM của nhiều dự án khác nhau trên cùng một vùng lãnh thổ) nên chƣa nhìn thấy bức tranh tổng hợp về tác động của một vùng lãnh thổ, nên không đủ căn cứ cho hay không cho thêm dự án đầu tƣ nào đƣợc bố trí thêm vào vùng đó, nhất là đối với các dự án khai thác đá khi đƣợc bố trí không tƣơng thích với khả năng chịu tải về môi trƣờng của nơi đó thì nguy cơ xảy ra ô nhiễm, suy thoái môi trƣờng nghiêm trọng là điều khó tránh khỏi. Với các phân tích nêu trên cho thấy Luật BVMT năm 2014 đã có những quy định quan trọng trong quy trình thực hiện ĐTM nhƣ quy trình thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM; báo cáo kiểm tra, xác nhận về môi trƣờng trƣớc khi dự án đi vào vận hành, nhƣng vẫn chƣa có quy định về quy trình thực hiện ĐTM, nhất là việc thực hiện ĐTM đối với các dự án hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. 2.1.2. Trong công tác cấp phép khai thác đá làm vật liệu xây dựng Theo Điều 53 Luật Khoáng sản năm 2010 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã có những quy định cụ thể về điều kiện đƣợc cấp Giấy phép khai thác đá. Việc xét cấp giấy phép khai thác đá phải căn cứ vào chiến lƣợc phát triển ngành công nghiệp liên quan nhƣ: năng lƣợng, hóa chất, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; căn cứ vào hiệu quả kinh tế-xã hội cụ thể, gắn liền với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng, BVMT sinh thái, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nói chung, bảo vệ di tích lịch sử và các lợi ích công cộng khác; căn cứ vào khả năng tài chính của tổ chức, cá nhân xin phép; tƣ cách pháp lý của các chủ đầu tƣ... Điều 54 Luật Khoáng sản 2010 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành quy định giấy phép khai thác khoáng sản phải có các nội dung sau: Tên tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản; loại khoáng sản, địa 46 điểm, diện tích khu vực khai thác khoáng sản; trữ lƣợng, công suất, phƣơng pháp, thời hạn khai thác khoáng sản; nghĩa vụ tài chính và nghĩa vụ khác có liên quan. Thời hạn khai thác khoáng sản không quá 30 năm và có thể đƣợc gia hạn nhiều lần nhƣng tổng thời gian gia hạn không quá 20 năm. Hoạt động cấp giấy phép khai thác đá là biện pháp mang tính pháp lý để nhà nƣớc theo dõi, quản lý, kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình khai thác và sử dụng. Hoạt động này một mặt sẽ góp phần hạn chế việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bừa bãi, lãng phí đồng thời kiểm soát đƣợc những tác động xấu đến môi trƣờng từ các hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Mặt khác, hoạt động này nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho những ngƣời tiến hành hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Giấy phép hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng là những chứng thƣ pháp lý xác định những quyền và nghĩa vụ của ngƣời hoạt động khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Những quyền và nghĩa vụ này không chỉ nhằm bảo vệ tài nguyên với tƣ cách là tƣ liệu sản xuất mà còn với tƣ cách là một thành phần của môi trƣờng quan trọng, góp phần duy trì sự tồn tại và phát triển của con ngƣời và đất nƣớc. Hiện nay, Nghị định số 158/2016/NĐ-CP, đã giải quyết một cách cơ bản, toàn diện và khá triệt để những tồn tại, bất cập; tháo gỡ các khó khăn, vƣớng mắc của các địa phƣơng, doanh nghiệp khi thực hiện Luật Khoáng sản; chấn chỉnh và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoáng sản thời gian tới. Nghị định số 158/2016/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung các nội dung về thành phần, hình thức hồ sơ cấp phép khai thác khoáng sản nhƣ, bỏ quy định về Giấy chứng nhận đầu tƣ thay bằng quyết định chủ trƣơng đầu tƣ; cho phép nộp bản sao kèm theo bản chính để đối chứng. Nghị định cũng đã điều chỉnh các nội dung liên quan đến trình tự, thời gian thẩm định hồ sơ cấp phép khai thác khoáng sản theo hƣớng rõ ràng, minh bạch hơn, làm rõ trách nhiệm của cơ quan liên quan trong quá trình phối hợp thẩm định hồ sơ, trách nhiệm của 47 tổ chức, cá nhân đề nghị cấp phép hoạt động khoáng sản khi chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ... Nghị định đã bổ sung tiêu chí "là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_bao_ve_moi_truong_trong_hoat_dong_khai.pdf
Tài liệu liên quan