MỤC LỤC
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BIỂU TÌNH
Trang
Phần mở đầu.1
1. Khái niệm biểu tình .6
2. Phân biệt giữa biều tình với một số hoạt động khác . . 13
3. Ý nghĩa của biểu tình . .15
4. Vì sao phải luật hóa biểu tình trong thời gian sớm nhất . . 16
5. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác . . 19
5.1. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình và biểu tinh . . 19
5.2. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình và quyền tự do ngôn luận . . .20
5.3. Quyền biểu tình và quyền tự do hội họp . . . .22
6. Xu hướng phát triển của biểu tình trên thế giới .23
6.1. Xu hướng phát triển chung của thế giới .23
6.2. Xu hướng quốc tế hóa biểu tình .24
Kết luận chương I .25
CHƯƠNG II
PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
1. Quy định về việc thông báo khi tổ chức biểu tình.30
2 Cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình trong một số trường hợp .36
3. Cấm và thời gian cấm biểu tình . 38
4 Phạm vi cấm biểu tình. .41
5 Vấn đề quy trách nhiệm.43
5.1 Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức. .43
5.2 Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước. .44
6. Chế tài xử phạt.45
7. Cấm sử dụng loa ở một số địa điểm.48
8. Quyền hạn chế hoặc giải tán cuộc biểu của Nhà nước . .49
9. Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo xây dựng luật biểu tình.50
Kết luận chung.50
110 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5491 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về biểu tình ở Việt Nam và một số nước trên thế giới - Thực trạng và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c do bom đạn, lây truyền bệnh tật. Một cuộc biểu tình thường có rất nhiều người tham gia. Trong thời gian gần đây, những hoạt động khủng bố diễn ra bất ngờ, dịch bệnh có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế và sức khỏe người dân. Trong những điều kiện đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tạm thời cấm biểu tình là hợp lý và cần thiết.
Pháp luật của Anh có những quy định về việc cấm các cuộc công diễu hay tụ họp tại các Mục 13, 14A của (POA 1986). Mục 13 của Đạo luật này quy định về một lệnh cấm công diễu (Prohibiting public processions.) Nội dung chính như sau. Một cảnh sát trưởng của một quận, huyện có thể yêu cầu Hội đồng địa phương xem xét về một lệnh cấm công diễu, nếu như ông ta cho rằng các quy định tại Mục 12 không đủ để ngăn chặn các cuộc công diễu hoặc đó là do kết quả của một sự gây mất trật tự công cộng nghiêm trọng (do hành vi công diễu gây ra).
Một lệnh cấm như vậy kéo dài tới 3 tháng, áp dụng cho bất kỳ một đám diễu hành nào [59]. Lệnh cấm này phải được Hội đồng địa phương đó thực hiện trên cơ sở có ý kiến chỉ đạo của các Thư ký Chính phủ (Secretary of state)[60].
Một lệnh cấm công diễu của công chúng như vậy trong một số trường hợp là cần thiết. Bởi vì, hoạt động công diễu là một trong những hoạt động gây nên những hậu quả hết sức đáng ngại cho chính quyền cũng như đất nước. Chúng ta có thể thấy rằng đối với những cuộc biểu tình của phe Áo đỏ diễn ra ở Thủ đô Bangkok (Thái Lan) đã gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn cho Thái Lan[61].
Tuy nhiên, theo các tác giả, thời gian cấm công diễu lên tới 3 tháng quá lâu với một hoạt động có tính chất đặc thù như công diễu. Khi một vấn đề gây bức xúc mới phát sinh thường thu hút được sự quan tâm của dư luận. Người dân mong muốn bày tỏ thái độ quan điểm của mình ngay lập tức khi nó vẫn còn mang tính thời sự.
Thời gian cấm công diễu tới ba tháng là quá dài nên vấn đề mà người dân quan tâm dường như cũng nguội lạnh. Nhiều khi, Nhà nước cần những thông tin phản hồi từ dân chúng thì lại không được cập nhập kịp thời để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất, phù hợp với nguyện vọng của đại bộ phận người dân. Như vậy, chính sách của Nhà nước không đáp ứng được yêu cầu thực tế, uy tín Nhà nước bị giảm sút còn quyền lợi của người dân thì không được đảm bảo.
Tại mục 14A của Đạo luật này còn cho phép một lệnh cấm đối với các cụm tụ họp (Prohibiting trespassory assemblies.). Theo đó các viên chức cảnh sát có thể đề nghị Hội đồng địa phương ban hành một lệnh cấm các cụm tụ họp công cộng của người dân vì các lí do sau: “được tổ chức tại một nơi mà công chúng không được phép tiến hành hoặc bị hạn chế tiến hành việc tụ họp. Tụ họp có khả năng được tổ chức mà không được phép của người cho thuê đất hoặc việc thực hiện tụ họp đã vượt quá giới hạn sự cho phép của của người cho thuê đất. Việc làm gián đoạn nghiêm trọng đến cuộc sống của cộng đồng hoặc được tiến hành tại địa điểm có tầm quan trọng về kiến trúc khảo cổ, khoa học[62]”.
Việc quy định về các lệnh cấm tụ họp của người dân trong một thời hạn nhất định đặc biệt là cấm tại các cụm quan trọng là một trong những biện pháp bảo đảm an ninh khi có căn cứ cho rằng nếu thực hiện những hạn chế về tụ họp thì sẽ ngăn chặn được các thiệt hại có thể xãy ra trên thực tế. Đồng thời, đó sẽ là công cụ giúp chính quyền quản lý, kiểm soát hoạt động biểu tình một cách dễ dàng.
Từ những nhận định và phân tích trên các tác giả có kiến nghị về vấn đề này như sau.
Việc cấm một số hình thức biểu tình gây cản trở hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong một khoảng thời gian ở một số trường hợp cụ thể là cần thiết. Trong một số trường hợp đặc biệt, Nhà nước có quyền ban hành những lệnh cấm biểu tình nhưng việc ban hành lệnh cấm này phải tuân thủ một trình tự đặc biệt đã được quy định trong luật, không được tùy tiện và chỉ áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết. Lệnh cấm này chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian hợp lý.
Tuy nhiên, luật nên có quy định linh hoạt về khoảng thời gian hạn chế trong những trường hợp cụ thể nhưng tối đa không quá một tháng. Khi xem xét áp dụng những biện pháp hạn chế việc biểu tình tại Việt Nam trong các trường hợp cần thiết, nhất là tránh tình trạng hiện nay biểu tình diễn ra tại nhiều địa điểm của một địa phương, gây khó khăn trong việc kiểm soát của chính quyền. Chúng ta nên học tập theo mô hình này nhưng theo hướng kiểm soát các cuộc biểu tình tại các địa điểm cụ thể, tức là giới hạn những khu vực được phép và các khu vực không được phép.
4. Phạm vi cấm biểu tình
Về phạm vi cấm biểu tình, được quy định tại tiểu Mục 6 Mục 14A của (POA 1986) và Mục 138 của ( SOCPA 2005).
Tại tiểu mục 6 Mục 14A của (POA 1986) nêu rõ các yêu cầu xem xét một lệnh cấm tụ họp theo quy định tại Mục 14 được thông qua thì một lệnh cấm sẽ không quá 4 ngày hoặc trong một khu vực có phạm vi với bán kính 5 dặm từ một trung tâm quy định[63].
Tuy nhiên, việc nhà làm luật quy định việc cấm các cụm tụ họp trong một phạm vi 5 dặm Anh tính từ một trung tâm theo quy định có phần không hợp lý.
1 dặm Anh tương đương với 1.609 m như vậy, 5 dặm Anh khoảng trên 8 km. Theo các tác giả khoảng cách này tương đối lớn điều này sẽ làm giảm khả năng thể hiện quan điểm và bày tỏ ý chí của người tham gia. Ví dụ: một nhóm người đang ở tại một khu vực áp dụng lệnh này thì họ phải đi xa tận 8 km tính từ nơi họ xuất phát thì mới thực hiện được việc tụ họp là điều bất hợp lý.
Tại Mục 138 của (SOCPA 2005) thì các Thư ký Nhà nước (Secratery of State) sẽ theo lệnh chỉ định một khu vực theo quy định mà có mục đích biểu tình như các mục từ 132 - 137 của Đạo luật này. Khu vực bị áp dụng các hạn chế có bán kính không nhỏ hơn 1 km tính từ tòa nhà Quốc hội đến điểm gần nhất của cuộc biểu tình[64].
Từ việc phân tích hai mục trên cho thấy các nhà làm luật đã xác định các phạm vi của việc hạn chế của việc thực hiện các hoạt động liên quan tới biểu tình.
Các tác giả cho rằng việc hạn chế này là cần thiết. Bởi vì, không chỉ hoạt động của cơ quan lập pháp mà hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp là cực kỳ quan trọng. Với chức năng nhiệm vụ vô cùng to lớn, phải giải quyết các công việc của cả một quốc gia thì việc đảm bảo an ninh cho các cơ quan này là ưu tiên hàng đầu. Chúng ta khuyến khích và cổ vũ cho việc phát triển tự do dân chủ trong cộng đồng trong xã hội nhưng tự do phải trong khuôn khổ và sự cho phép của pháp luật, đồng thời cân bằng được lợi ích giữa các bên trong xã hội.
Từ những phân tích đánh giá như trên, các tác giả có kiến nghị về vấn đề này như sau. Luật biểu tình mà chúng ta hướng đến xây dựng cũng cần phải có quy định hạn chế biểu tình tại một số cơ quan đầu não, một số nơi trọng yếu của quốc gia như: khu quân sự, tòa nhà Chính phủ, trụ sở Tòa án, nơi làm việc của Quốc hội... hoặc những địa điểm mà nhiều người có thể lợi dụng quyền biểu tình để gây phương hại cho an ninh quốc gia, an toàn xã hội.
5. Vấn đề quy trách nhiệm
5.1. Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức
Hội họp thường rất phức tạp, người tham gia rất đông và thuộc mọi thành phần trong xã hội. Khi tụ họp đông người hoặc biểu tình không đúng luật, lấy ai ra để quy trách nhiệm không phải đơn giản. Tuy vấn đề quy trách nhiệm khó khăn nhưng để đảm bảo trật tự của xã hội và tính nghiêm minh của pháp luật thì không thể không xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm. Điều 4 (Luật số 101) đã xác định “người tổ chức cuộc hội họp phải chịu trách nhiệm về cuộc hội họp”. Thật ra, hội họp trái pháp luật nhiều khi không phải hoàn toàn do lỗi của người tổ chức, cũng có thể do những người hội họp khác. Việc xác định những người không phải là người tổ chức để quy trách nhiệm rất khó. Bởi vì, lượng người trong một cuộc tụ họp hay biểu tình rất lớn. Luật số 101 đã chỉ đích danh người tổ chức phải chịu trách nhiệm về cuộc hội họp. Quy định theo cách như vậy có điểm hay đó là, việc xác định người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật dễ dàng. Nhược điểm của quy định này là bỏ sót những người tụ họp trái luật mà không phải là người tổ chức. Nếu chúng ta xác định được chính xác những người không phải là người tổ chức tụ họp trái luật mà không bị xử lý là một nghịch lý.
Bên cạnh các quy định về quy trách nhiệm cho những người tổ chức, người tham gia biểu tình mà có những hành vi không đúng thì pháp luật cần phải có những quy định về trách nhiệm đối với những trường hợp cản trở việc thực hiện quyền biểu tình của công dân. Chúng ta nên kế thừa những quy định tại Điều 6 (Luật số 101) “Người nào ngăn cản hoặc phá hoại các cuộc hội họp hợp pháp của người khác, ép buộc người khác tham dự vào các cuộc hội họp bất hợp pháp, bất cứ bằng cách nào, có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm”. Đặc biệt đối với những trường hợp lợi dụng các quyền tự do biểu tình để mưu đồ bất chính thì phải nghiêm trị. Đây là quan điểm đã được thể hiện trong Điều 7 (Luật số 101) “Người nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt động trái pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, âm mưu phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ, hành động có phương hại đến trật tự an ninh chung, hoặc đến thuần phong mỹ tục, sẽ bị truy tố trước toà án và xử phạt theo luật lệ hiện hành, và cuộc hội họp sẽ bị cấm hoặc bị giải tán”.
Dù chưa có quy định về vấn đề quy trách nhiệm cho các tập thể trong việc tổ chức biểu tình trong các văn bản đã phân tích nhưng theo quan điểm của các tác giả thì việc quy trách nhiệm cho các tổ chức cũng nên được đặt ra.
Để khắc phục nhược điểm trên khi xây dựng luật biểu tình, các tác giả có kiến nghị đối với vấn đề này như sau:
Trách nhiệm cá nhân:
Luật biểu tình phải xác định rõ trách nhiệm của những người khi tiến hành hoạt động biểu tình nhưng đã gây ra những hệ quả xấu cho cộng đồng, xã hội…theo ý kiến của các tác giả thì người phải chịu trách nhiệm đầu tiên là những người tổ chức biểu tình. Trách nhiệm của họ có thể được miễn trong trường hợp những sự cố nằm ngoài tầm kiểm soát và hoàn toàn không có lỗi gây ra những thiệt hại. Bên cạnh đó, nếu xác định được người tham gia gây thiệt hại thì tùy theo mức độ nặng nhẹ mà họ có thể phải chịu trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.
Đối với những người không tham gia biểu tình nhưng có hành vi cản trở hoặc lợi dụng biểu tình để thực hiện những hành vi trái pháp luật cũng phải bị xử lý theo quy định.
Trách nhiệm của tổ chức:
Một tổ chức đứng ra tổ chức biểu tình mà có sai phạm dẫn đến thiệt hại hoặc nguy cơ đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm dân sự, hành chính hoặc cả hai.
5.2. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước
Mở đầu của các quy định về quyền tự do hội họp của công dân, Luật số 101 đã dành hẳn một điều để nói về trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền này của công dân. Điều 1 (Luật số 101) quy định “Quyền tự do hội họp của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do hội họp”. Qua sự ghi nhận này, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một lần nữa khẳng định quyền tự do hội họp là một quyền cơ bản của công dân. Mọi người dân có quyền hưởng nó chứ không phải được Nhà nước ban phát. Nhà nước thể hiện sự “tôn trọng” bằng cách thừa nhận thông qua những quy định cụ thể của Pháp luật. Nếu chỉ dừng lại ở sự thừa nhận của Pháp luật thì không có ý nghĩa trên thực tế. Bởi vì, cái mà người dân cần đó chính là sự thực thi quyền này như thế nào. Việc “bảo đảm” cho quyền tự do hội họp được thực hiện cũng là một điều kiện cho quyền biểu tình được thực hiện trên thực tế.
Với một quy định rất ngắn gọn, Điều này đã nêu lên được hai vấn đề quan trọng thuộc về trách nhiệm của Nhà nước đối với người dân. Thứ nhất: sự thừa nhận quyền tự do hội họp là một quyền cơ bản của công dân. Thứ hai: sự bảo đảm của Nhà nước để quyền này được thực hiện. Tuy nhiên, Điều luật chỉ nêu đơn thuần sự bảo đảm mà chưa có quy định cụ thể bảo đảm như thế nào. Vì vậy, khi công dân thực hiện quyền biểu tình nếu có không có sự bảo đảm từ phía Nhà nước người dân cũng không có cơ sở để phản ánh và đòi hỏi. Khi ấy, trách nhiệm của Nhà nước chỉ mang tính hình thức và quyền lợi của người dân không được đảm bảo. Tức là việc quy trách nhiệm của Nhà nước trong việc không đảm bảo ấy là chưa có đủ căn cứ.
Biểu tình là một quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp đã thừa nhận Nhà nước có trách nhiệm trong việc đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền này. Vì thế, trong điều kiện có thể mà Nhà nước không làm tròn trách nhiệm của mình thì cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Luật biểu tình phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức trong những trường hợp sau.
Thứ nhất: hạn chế hoặc cấm biểu tình không đúng luật.
Thứ hai: thiếu trách nhiệm trong việc đảm bảo thực hiện quyền biểu tình của người dân.
6. Chế tài xử phạt
Để đảm bảo hiệu lực thi hành, pháp luật phải có những chế tài cụ thể để xử lý người vi phạm. Luật số 101 đã dự liệu những trường hợp vi phạm điển hình, tùy vào mức độ nặng nhẹ và đưa ra các hình phạt đi kèm. Trường hợp thứ nhất: được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng cuộc hội họp đã không tuân theo thể lệ về xin phép trước “Nếu không theo đúng thể lệ về việc xin phép trước thì người tổ chức, tuỳ trường hợp nặng nhẹ, sẽ bị cảnh cáo hoặc truy tố trước toà án và cuộc hội họp có thể bị cấm hoặc bị giải tán[65]”. Cuộc hội họp chưa được tổ chức có thể sẽ bị cấm hoặc cuộc hội họp đã được tổ chức có thể bị giải tán tùy vào mức độ nghiêm trọng của sự vi phạm. Người tổ chức bị xử lý dưới hai hình thức: cảnh cáo hoặc truy tố. Trường hợp sự vi phạm có mức độ nghiêm trọng thì người tổ chức có thể bị phạt tiền và phạt tù hoặc cả hai. Quy định này góp phần tạo sự lựa chọn cho cơ quan Nhà nước có thể linh động xem xét xử lý. Mức cao nhất của phạt tiền có thể lên đến hai mươi lăm vạn đồng và sáu tháng tù. Nhìn vào mức hình phạt ta có thể thấy, hình phạt tù tương đối nhẹ nhưng phạt tiền rất nặng. Năm vạn đồng đến hai mươi lăm vạn đồng thời điểm năm 1957 là cực kỳ lớn đối với mọi người. Có thể dụng ý của những người ban hành Luật số 101 đó là đánh vào khả năng kinh tế của người vi phạm. Thông qua đó, Nhà nước hạn chế được sự vi phạm mà vẫn đảm bảo tính răn đe. Trường hợp thứ hai: bị cấm hội họp mà vẫn tiến hành “Trường hợp cuộc hội họp bị cấm mà vẫn cứ tổ chức hoặc đã bị giải tán mà vẫn cứ tổ chức lại, thì người chịu trách nhiệm sẽ bị truy tố trước toà án và sẽ bị phạt tù từ một tháng đến một năm[66]”. Đây là trường hợp có mức độ nghiêm trọng hơn. Hình phạt tiền không được áp dụng nữa mà người vi phạm sẽ bị truy tố ra tòa và áp dụng hình phạt có tính cưỡng chế cao hơn đó là phạt tù. Mức phạt tù cao nhất cũng tăng hơn so với trường hợp cho phép hội họp nhưng không đúng thể lệ, từ sáu tháng lên một năm. Việc xây dựng khung hình phạt cho Luật biểu tình chúng ta cần cân nhắc đến cả hai hình thức phạt tiền và phạt tù. Người vi phạm bị phạt tiền là cần thiết nhưng nếu quá chú trọng đến mức phạt tiền thì sẽ không đảm bảo hiệu hiệu quả, nhiều người sẵn sàng nộp tiền để tiếp tục biểu tình trái luật. Vì vậy, hình phạt tù là một biện pháp cưỡng chế có sức răn đe mạnh nhất, cần đưa vào áp dụng một cách nghiêm khắc hơn.
Không chỉ xử lý người tổ chức và người tụ họp trái luật. Điều 6 của Luật số 101 cũng đưa ra những chế tài xử phạt đối với người ngăn cản và phá hoại các cuộc hội họp. “Người nào ngăn cản hoặc phá hoại các cuộc hội họp hợp pháp của người khác, ép buộc người khác tham dự vào các cuộc hội họp bất hợp pháp, bất cứ bằng cách nào, có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm”. Mức độ nghiêm khắc đối với người cản trở cuộc hội họp của người khác cũng tương đương với người tổ chức hội họp trái luật. Đối với người lợi dụng hội họp để thực hiện mưu đồ riêng thì luật không đưa ra biện pháp xử lý rõ ràng. “Người nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt động trái pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, âm mưu phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ, hành động có phương hại đến trật tự an ninh chung, hoặc đến thuần phong mỹ tục, sẽ bị truy tố trước toà án và xử phạt theo luật lệ hiện hành, và cuộc hội họp sẽ bị cấm hoặc bị giải tán[67]”. Xử lý vi phạm là rất cần thiết nhưng không thể quy định chung chung theo cách “sẽ bị truy tố trước toà án và xử phạt theo luật lệ hiện hành”. Lợi dụng hội họp để chống chính quyền hay tuyên truyền chiến tranh… là những hành vi rất nguy hiểm. Đối với vấn đề biểu tình, những kẻ xấu cũng có thể lợi dụng để thực hiện những hành vi nguy hiểm trên. Vì vậy, chế tài của luật cũng phải theo hướng cụ thể và nặng hơn những trường hợp thông thường.
Xây dựng khung pháp lý để người dân thực hiện tốt quyền biểu tình là một yêu cầu cấp thiết, nhưng để luật biểu tình thực sự là công cụ của Nhà nước quản lý xã hội và dành được sự tôn trọng của nhân dân thì chế tài xử phạt phải phù hợp và đa dạng tùy vào từng hành vi sai phạm.
Những hành động phạm pháp có liên quan đến biểu tình cần phải được cụ thể hóa trong những chế tài xử phạt của Luật hành chính và Bộ Luật hình sự. Nếu chúng ta xây dựng luật biểu tình mà không kịp thời bổ sung các biện pháp xử phạt thì Luật biểu tình không thể được thực nghiêm chỉnh. Bởi vậy, việc xây dựng luật biểu tình cần tiến hành song song với việc quy định thêm hành vi nào bị xử phạt hành chính và các hành vi nào sẽ cấu thành tội phạm để xử lý hình sự cho thỏa đáng.
Trong lĩnh vực hành chính, chúng ta có thể kế thừa các quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật sau. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 04/2008/UBTVQH12 ngày 2 tháng 4 năm 2008 (sau đây gọi là Pháp lệnh 04/2008). Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều cuả Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
Tại Điểm a Khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh 04/2008 có quy định “phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội…”. “Phạt tiền tối đa đến 40.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực giao thông đường bộ, giao thông đường thủy nội địa, văn hóa thông tin, du lịch, phòng chống tệ nạn xã hội”[68]. Với những quy định này, các hành vi như lợi dụng biểu tình để gây mất an ninh trật tự, hay dùng bạo lực trái với quy định của Luật biểu tình có thể bị xử lý. Ngoài ra, Khoản 3 Pháp lệnh 04/2008 còn có một quy định mở đáng lưu ý “đối với những hành vi vi phạm hành chính chưa được quy định tại Khoản 2 Điều này thì Chính phủ quy định mức phạt tiền nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng. Trong trường hợp luật quy định mức phạt tiền tối đa khác với quy định tại Điều này thì áp dụng quy định của luật”. Như vậy, Chính phủ có thể bổ sung các hành vi phạm pháp liên quan đến biểu tình để xử lý. Theo quan điểm của các tác giả thì việc liệt kê hành vi thuộc lĩnh vực xử phạt mà không cần nêu cụ thể tên hành vi trái luật là hợp lý. Việc xử phạt bao nhiêu sẽ do cơ quan hoặc người có thẩm quyền xử phạt quyết định một cách linh hoạt tùy từng hoàn cảnh và đối tượng khác nhau, có như vậy pháp luật mới bền vững tránh sửa đổi nhiều lần
Để xử lý triệt để những hành vi vi phạm pháp luật mà tính chất và mức độ nguy hiểm của nó đã vượt quá giới hạn xử lý hành chính. Chúng ta cần bổ sung thêm một tội danh nữa vào Bộ Luật hình sự hiện hành. Đó là tội “vi phạm các quy định về biểu tình”. Hoạt động biểu tình luôn luôn liên quan đến nhiều người và khả năng ảnh hưởng đến trật tự công cộng là rất lớn. Vì vậy, các tác giả kiến nghị xếp tội này vào Chương XIX về các tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng.
Kiến nghị của các tác giả đối với vấn đề này đó là luật biểu tình phải có quy định chế tài xử phạt cụ thể cho từng trường hợp, từng đối tượng. Việc lựa chọn chế tài xử phạt phải thật nghiêm minh. Cùng với quá trình xây dựng luật biểu tình thì chúng ta cần kế thừa và bổ sung thêm những hành vi trái luật liên quan đến biểu tình. Đồng thời, Bộ luật hình sự nên bổ sung thêm một tội “vi phạm các quy định về biểu tình”. Có như vậy, Luật biểu tình mới được thực hiện nghiêm minh, tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung mới triệt để .
7. Cấm sử dụng loa ở một số địa điểm
Đạo luật (SOCPA 2005) còn dành hẳn một mục riêng cho việc quy định về loa phóng thanh tại các khu vực quy định. Mục 137 chỉ rõ rằng trong một số khu vực nhất định thì việc sử dụng loa phóng thanh bị cấm, bất kể mục đích của việc dùng loa đó là gì, kể cả hoạt động biểu tình[69]. Nhà làm luật cũng đã nêu ra các trường hợp ngoại lệ như: sử dụng loa của xe chữa cháy, xe cứu thương, xe cảnh sát, thực hiện chức năng của cơ quan Nhà nước, cảnh báo trong giao thông đường thủy…được quy định tại các Điểm a đến Điểm i của tiểu mục 2 của mục này[70].
Việc quy định về vấn đề cấm sử dụng loa phóng thanh tại một số nơi công cộng (theo quy định) đối với bất kỳ hoạt động nào và mục đích nào là phù hợp. Có những nơi cần được ưu tiên cho việc đảm bảo yên tĩnh như: bệnh viện, trường học, cơ quan Nhà nước…thì việc sử dụng loa phải được hạn chế. Do tính đặc thù của một số nơi, sử dụng loa sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bình thường và sức khỏe của những người đang ở trong khu vực đó. Việc thực hiện lệnh này chỉ áp dụng cho một số nơi theo quy định của pháp luật chứ không áp dụng cho tất cả mọi nơi công cộng. Như vậy, pháp luật vẫn đảm bảo được việc sử dụng loa phóng thanh trong hoạt động biểu tình ở những nơi khác.
Về vấn đề này các tác giả kiến nghị luật biểu tình phải có quy định việc cấm sử dụng loa phóng thanh và đưa đưa ra những địa điểm cụ thể cấm sử dụng loa phóng thanh. Việc làm này sẽ tạo sự rõ ràng, tránh việc luật không có quy định cấm sử dụng loa phóng thanh hoặc có quy định nhưng khu vực cấm không rõ ràng dẫn đến chuyện người biểu tình sử dụng loa thì cơ quan Nhà nước lại xử lý.
8. Quyền hạn chế hoặc giải tán cuộc biểu tình của Nhà nước
Điều 5 (Luật số 101) quy định “Nếu không theo đúng thể lệ về việc xin phép trước thì người tổ chức, tuỳ trường hợp nặng nhẹ, sẽ bị cảnh cáo hoặc truy tố trước toà án và cuộc hội họp có thể bị cấm hoặc bị giải tán[71]”. Điều 7 (Luật số 101) cũng áp dụng hình thức cấm hoặc giải tán cuộc hội họp. Đây là những trường hợp vi phạm có mức độ nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng rất lớn đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Vấn đề cấm biểu tình đã được các tác giả phân tích ở Mục 2.3 nhưng với hình thức giải tán thì chúng ta cũng có thể học tập để áp dụng khi xây dựng luật biểu tình. Giải tán chỉ áp dụng đối với trường hợp đã tổ chức biểu tình mà không theo đúng thể lệ còn chưa tổ chức biểu tình thì mới áp dụng hình thức cấm. Quy định giải tán là cần thiết để bảo vệ những lợi ích lớn hơn khi mà cuộc biểu tình đi quá đà.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội và các hoạt động kinh tế nói chung không bị ảnh hưởng thì các tác giả có kiến nghị như sau
Đối với những sai phạm nhỏ so với thông báo như: số lượng người nhiều hơn, thời gian tổ chức sớm hơn, một số người không làm theo những chỉ dẫn của cơ quan Nhà nước...lúc đó, cơ quan có thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp hạn chế biểu tình. Sự hạn chế đó có thể là rút ngắn thời gian biểu tình, thu hẹp phạm vi được biểu tình đồng thời bắt buộc phải tuân thủ những điều đã thông báo trước đó.
Khi biểu tình mà có sự sai phạm nghiêm trọng so với nội dung đã thông báo hoặc biểu tình mà không thông báo thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp giải tán cuộc biểu tình.
9. Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo xây dựng luật biểu tình
Cũng như trình tự xây dựng bất cứ một văn bản luật nào khác, để một văn bản pháp luật thực sự đi vào đời sống và đáp ứng đúng nguyện vọng của người dân thì phải đưa dự thảo luật biểu tình lấy ý kiến đóng góp của người dân một cách sâu rộng. Bởi vì, chính người dân là những người sẽ trực tiếp tham gia vào các hoạt động biểu tình và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật biểu tình. Vì vậy, ý kiến của người dân rất có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng luật.
Kết luận chung
Quyền biểu tình là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều này đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế. Trong pháp luật Việt Nam cũng có quy định về vấn đề này thông qua các bản Hiến pháp. Đây là cơ sở lý luận vững chắc cho quyền biểu tình của công dân trong xã hội. Thực tế cho thấy biểu tình là một hoạt động cộng đồng mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng như chủ thể được hướng tới, là một nét sinh hoạt chính trị tiến bộ, được diễn ra hầu như rộng khắp trên thế giới với nhiều hình thức và mục đích khác nhau. Là một trong những hình thức thể hiện quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do hội họp thì biểu tình ngày càng được đông đảo mọi người tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quoc tich.doc