Luận văn Pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ

PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH . 7

1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử hành chính . 7

1.1.1. Tranh chấp hành chính . 7

1.1.2. Khái niệm xét xử hành chính. 9

1.1.3. Đặc điểm xét xử hành chính. 10

1.2. Pháp luật về xét xử hành chính . 13

1.2.1 Khái niệm . 13

1.2.2. Nội dung của pháp luật về xét xử hành chính. 15

1.2.3 Vai trò của pháp luật về xét xử hành chính . 18

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về xét xử hành chính và thực hiện

pháp luật về xét xử hành chính . 21

1.3.1. Yếu tố chính trị. 25

1.3.2. Trình độ lập pháp. 25

1.3.3. Trình độ phát triển kinh tế xã hội . 26

1.3.4. Cơ cấu tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. 27

1.3.5. Ý thức pháp luật của tổ chức, cá nhân với tư cách là những người tham

gia tố tụng hành chính. 28

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY . 29

2.1. Thực trạng pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta. 29

2.1.1. Hình thức pháp lý của pháp luật về xét xử hành chính . 29

2.1.2. Nội dung của pháp luật xét xử hành chính . 33

2.1.3.Các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử hành chính . 53

2.1.4. Các quy định pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng hành chính . 57

pdf115 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phủ quy định” như Luật TTHC năm 2010. Một điểm mới được bổ sung trường hợp loại trừ QĐHC thuộc đối tượng xét xử của Toà hành chính trong Luật TTHC năm 2015 được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 30 là các quyết định của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Như vậy, ở điều luật này có hai nhóm vụ việc được loại trừ thuộc thẩm quyền xét xử hành chính. Một là, các quyết định của Toà án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nhân dân thì biện pháp hành chính bao gồm các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc [91]. Theo đó, Quyết định của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính có thể bị khiếu nại, kiến nghị hoặc kháng nghị và được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh này và pháp luật có liên quan. Hai là, các quyết định về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Hành vi cản trở hoạt động tố tụng được hiểu là hành vi có lỗi do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện nhằm cản trở các hoạt động tố tụng của Toà án mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Theo dự thảo Pháp lệnh Xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Toà án nhân dân [16]). Theo Chương XX Luật TTHC năm 2015, các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính bị xử lý bao gồm 09 nhóm hành vi: (1) Hành vi vi phạm nội quy phiên tòa; (2) Hành vi xúc phạm uy tín của Tòa án, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của người tiến hành tố tụng hoặc những người khác thực hiện nhiệm 45 vụ theo yêu cầu của Tòa án; (3) Hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án; (4) Hành vi cố ý không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; (5) Hành vi can thiệp vào việc giải quyết vụ án; (6) Hành vi cản trở việc giao, nhận, cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng của Tòa án; (7) Hành vi cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án; (8) Hành vi đưa tin sai sự thật nhằm cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án; (9) Hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Luật TTHC năm 2015 chỉ liệt kê các hành vi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính. Theo đó, Quyết định của Tòa án trong việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính có thể bị khiếu nại, tố cáo và được giải quyết theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2011 và quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy, một lần nữa khẳng định rằng, QĐHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính là các văn bản thỏa mãn các tiêu chí về chủ thể, về nội dung, về hình thức của QĐHC theo khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015. Đồng thời, QĐHC không thuộc các trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo khoản 1 Điều 30 Luật TTHC năm 2015. * Hành vi hành chính. Khái niệm “HVHC” được định nghĩa tại khoản 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2010: “Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật” [54]. 46 Cũng tương tự như QĐHC, tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung định nghĩa HVHC trong việc làm rõ hơn chủ thể thực hiện HVHC như sau: “Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”[65]. Đồng thời, bổ sung thêm định nghĩa HVHC bị kiện tại khoản 4 Điều 3 Luật TTHC năm 2015: “Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại khoản 3 Điều này mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Như vậy, theo Luật TTHC năm 2015, để xác định HVHC là đối tượng xét xử hành chính phải căn cứ vào cả khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật này. Theo định nghĩa này, HVHC có các đặc điểm sau: - Về chủ thể: Chủ thể thực hiện HVHC là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó. - Về hình thức: biểu hiện của HVHC là thực hiện hoặc không thực hiện các quy định của pháp luật. - Về nội dung: HVHC là thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Thứ nhất, về chủ thể thực hiện HVHC. Rõ ràng, chủ thể thực hiện HVHC cũng chính là chủ thể ban hành QĐHC như đã phân tích ở trên. Do vậy, chủ thể thực hiện HVHC bao gồm: các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan hành chính nhà nước nhưng 47 được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó. Thứ hai, về hình thức biểu hiện của HVHC. HVHC cũng giống như các loại hành vi thông thường “là những phản ứng, các cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một chủ thể trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định” [65]. Hình thức biểu hiện của hành vi là hành động hoặc không hành động. Xét dưới góc độ pháp luật, HVHC là một hành vi pháp lý - “hành vi của các chủ thể nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý” [18,tr.226]. Hành vi pháp lý có hai loại là hành vi hợp pháp (những hành vi phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật) và hành vi bất hợp pháp (những hành vi không phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật). Cần lưu ý rằng, không phải hành vi biểu hiện dưới dạng hành động thì sẽ là hợp pháp và hành vi biểu hiện dưới dạng không hành động thì sẽ bị coi là bất hợp pháp. Mà việc hành động hoặc không hành động phù hợp với các nguyên tắc, quy định pháp luật là hợp pháp, còn hành động hoặc không hành động không phù hợp với các nguyên tắc, quy định pháp luật là bất hợp pháp. Theo đó, sự phù hợp của hành vi với các quy định của pháp luật là tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của hành vi còn trạng thái vận động và chủ động của chủ thể khi là tiêu chí đánh giá phân loại hành vi hành động và không hành động. Như vậy, HVHC được hiểu là một hành vi pháp lý dưới dạng hành động hoặc không hành động và được đánh giá tính hợp pháp trên cơ sở quy định pháp luật tại thời điểm thực hiện hành vi. Thứ ba, về nội dung của HVHC. Nội dung của HVHC là việc các chủ thể của hành vi đó, thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. 48 Cần hiểu rằng, có hai loại HVHC là: hành vi thực hiện và hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi thực hiện công vụ, nhiệm vụ là hành vi thực hiện đúng các hành vi công vụ theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: UBND xã, phường, thị trấn tiến hành việc hòa giải tranh chấp đất đai; hành vi cắm mốc giao đất cho người được nhận đất theo quyết định giao đất của cơ quan có thẩm quyền.... Ngược lại, hành vi của người hoặc cơ quan có thẩm quyền không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thể hiện dưới dạng họ không thực hiện đúng, đầy đủ các nhiệm vụ, công vụ được giao theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: UBND có thẩm quyền không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân. Những HVHC không thuộc đối tượng xét xử hành chính của Tòa án Tương tự như QĐHC, pháp luật cũng những trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án đối với hành vi hành chính cụ thể như sau: Một là, HVHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục theo quy định của pháp luật. Hai là, HVHC Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Ba là, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu như đối với QĐHC thì chủ thể ban hành được thể hiện rõ ràng trên văn bản, thì đối với HVHC lại không hề dễ dàng trong việc phân biệt HVHC do chủ thể nào thực hiện, hay khi nào thì HVHC là do cơ quan, tổ chức thực hiện, khi nào thì HVHC do người có thẩm quyền thực hiện. Bởi lẽ, hành vi của các cơ quan, tổ chức chính là tổng hợp hành vi của tất những người thuộc cơ quan, tổ chức đó (bao gồm cả những người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó), mang tính trừu tượng, khó thống kê và định danh cụ thể. 49 Do vậy, để xác định những HVHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, cần xác định HVHC khi nào là của cơ quan, tổ chức, khi nào của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó. Tại điểm a, b khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP có hướng dẫn chi tiết về nội dung này như sau: - Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành vi đó là HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là HVHC của người đã thực hiện HVHC đó; - Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là HVHC của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực hiện [29]. 2.1.2.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình. Để xác định được đúng đối tượng xét xử hành chính với khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức thì cần phải xác đối tượng nào là công chức. Việc xác định đối tượng là công chức phải căn cứ vào Luật cán bộ, công chức và Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính 50 Phủ quy định chi tiết những người là công chức. Xác định sai đối tượng công chức sẽ dẫn đến việc thụ lý vụ án, xét xử không đúng quy định của pháp luật. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là một loại quyết định hành chính đặc thù. Do đó, bên cạnh những dấu hiệu của một quyết định hành chính, quyết định buộc thôi việc còn có đặc thù là chỉ áp dụng với công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. Như vậy phạm vi quyết định kỷ luật buộc thôi việc thuộc đối tượng bị khởi kiện chỉ giới hạn về chủ thể bị kỷ luật mà không phụ thuộc vào cơ quan làm việc của chủ thể đó. Theo đó công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống nếu bị kỷ luật buộc thôi việc và không đồng ý với quyết định kỷ luật đó đều có quyền khởi kiện vụ án hành chính. Luật Tố tụng hành chính quy định rõ công chức chỉ được khởi kiện trong trường hợp bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc. Điều 79 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định 6 hình thức kỷ luật áp dụng đối với công chức, gồm: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức và buộc thôi việc. Trong 6 hình thức kỷ luật này, chỉ có hình thức buộc thôi việc mới là đối tượng khởi kiện hành chính. Có nghĩa là các hình thức kỷ luật còn lại như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, công chức chỉ có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà không được quyền khởi kiện vụ án hành chính. Về bản chất, quyết định kỷ luật buộc thôi việc chính là quyết định hành chính mang tính chất nội bộ của cơ quan, tổ chức áp dụng đối với công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức mình. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của hình thức kỷ luật nặng nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến đời sống của người bị buộc thôi việc, nên loại quyết định này được xem là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nhằm bảo vệ quyền có việc làm của công chức theo pháp Hiến pháp và pháp luật. 51 2.1.2.4. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh Theo quy định tại Điều 107 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là Hội đồng cạnh tranh và Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc đối tượng xét xử hành chính là quyết định của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật Cạnh tranh, bao gồm: - Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh; - Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối với quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là một trong những loại quyết định dù không phải là quyết định hành chính nhưng vẫn là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính. 2.1.2.5. Danh sách cử tri Theo Luật TTHC năm 2010 thì đối tượng xét xử hành chính là “danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Theo đó, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là danh sách do UBND cấp xã hoặc Chỉ huy đơn vị quân đội nơi có khu vực bầu cử lập (Điều 24 Luật Bầu 52 cử Đại biểu Quốc hội năm 1997 và Điều 24 Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003). Tuy nhiên, để phù hợp với Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 nhằm mở rộng đối tượng khởi kiện vụ án hành chính bao gồm cả danh sách cử tri trưng cầu ý dân, Luật TTHC năm 2015 đã sửa đổi đối tượng xét xử hành chính là “danh sách cử tri” cho phù hợp. Theo đó, danh sách cử tri là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách bầu cử Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân do UBND cấp xã (trường hợp những huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì UBND huyện) hoặc Chỉ huy đơn vị quan đội nơi có khu vực bầu cử lập (Điều 31 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và Điều 26 Luật trưng cầu ý dân năm 2015). Xuất phát từ tính chất đặc thù của loại việc này liên quan đến hoạt động tổ chức bầu cử của cơ quan có thẩm quyền mà Luật Tố tụng hành chính quy định cần phải khiếu nại trực tiếp để cơ quan lập danh sách cử tri kiểm tra, xem xét nhằm kịp thời khắc phục thiếu sót. Như vậy, đối với khiếu kiện về việc lập danh sách cử tri, cá nhân chỉ có quyền khởi kiện trong trường hợp là đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết mà khiếu nại không được giải quyết hoặc khiếu nại đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với cách giải quyết khiếu nại đó. Điều đó có nghĩa là, khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không ra quyết định giải quyết khiếu nại thì cá nhân vẫn có quyền thực hiện khởi kiện vụ án hành chính. Quy định như vậy vừa đảm bảo cho hoạt động bầu cử diễn ra đúng tiến độ thời gian theo luật định vừa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri liên quan. 53 2.1.3. Các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử hành chính 2.1.3.1. Thẩm quyền của Tòa án theo địa giới hành chính Việc quản lý, thực hiện chức năng, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước nói chung và của hệ thống Tòa án nói riêng tại Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên cơ sở sự phân định về địa giới hành chính. Tuy nhiên, điểm khác biệt rõ rệt của Luật TTHC năm 2010 với Luật TTHC năm 2015 không dừng ở việc phân định thẩm quyền Tòa án dựa trên xác định địa giới hành chính mà có kết hợp giữa việc phân định địa giới hành chính với thẩm quyền ban hành QĐHC, thẩm quyền thực hiện HVHC. Điều 29, 30 Luật TTHC năm 2010 quy định thẩm quyền xét xử đối với các khiếu kiện QĐHC, HVHC như sau: - Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó; - Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó; Trong khi đó, Luật TTHC năm 2015 tại Điều 31, Điều 32 quy định thẩm quyền xét xử đối với QĐHC, HVHC như sau: - Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện. 54 - Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Như vậy, Luật TTHC năm 2010 quy định QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện do TAND cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Trong khi đó, theo quy định của Luật TTHC năm 2015, QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện không còn thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện mà thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh. Như vậy, điểm mới cơ bản là Tòa án cấp huyện không giải quyết vụ án hành chính mà người khởi kiện đối với QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện mà chỉ giải quyết khiếu kiện đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan chuyên môn; quyết định buộc thôi việc của thủ trưởng cơ quan, tổ chức. Lý giải cho việc hạn chế thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện trong xét xử hành chính có rất nhiều lý do như: nhằm khắc phục tình trạng ngại, nể nang trong giải quyết vụ án hành chính mà một bên là UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện, nhất là những vụ cần hủy quyết định hành chính và để bảo đảm tính hiệu quả, khả thi trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính; hay nhằm hạn chế tác động từ phía UBND cấp huyện đến sự độc lập của thẩm phán. Tuy nhiên, quy định này cũng đặt ra không ít vấn đề mâu thuẫn. Theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chủ trương: “Hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện”[3]. Như vậy, quy định này không phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp về việc mở rộng thẩm quyền cho tòa cấp huyện; không đề cao được vai trò, bản lĩnh, trách nhiệm của thẩm phán tòa cấp huyện. Đồng thời, cả trong Nghị quyết lẫn Hiến pháp 2013 đều khẳng định rõ việc nâng cao tính độc lập của Tòa án trong xét xử. Tức là, đảm 55 bảo độc lập giữa tư pháp và hành pháp nói chung và giữa cơ quan Tòa án với các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, nếu quy định QĐHC, HVHC của cấp huyện do TAND cấp tỉnh xét xử thì liệu có tăng cường được tính độc lập của Tòa án trong xét xử nói chung và xét xử hành chính nói riêng hay không? 2.1.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm Theo khoản 1 Điều 163 Luật TTHC năm 2010, thẩm quyền Hội đồng xét xử sơ thẩm là: “xem xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan”. Như vậy, thẩm quyền của Hội đồng xét xử ngoài việc xem xét đối tượng xét xử hành chính còn có thẩm quyền xem xét các quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều này, Luật lại không quy định thẩm quyền cho Tòa án có quyền xử lý quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan trong trường hợp tuyên hủy QĐHC trái pháp luật hay tuyên bố HVHC trái pháp luật. Điều này dẫn đến nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, khiến cho việc khiếu kiện kéo dài. Để giải quyết vướng mắc này trong thực tiễn, Luật TTHC năm 2015 đã bổ sung thẩm quyền của Hội đồng xét xử hành chính sơ thẩm trong việc xem xét quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan. Theo đó, tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 193 Luật TTHC năm 2015, Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền tuyên hủy quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan khi tuyên hủy QĐHC, HVHC trái pháp luật. Đồng thời, tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật TTHC năm 2015 cũng quy định Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền “kiến nghị cách thức xử lý đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy”. Ngoài ra, Luật TTHC năm 2015 cũng bổ sung quy định Hội đồng xét xử sơ thẩm có thẩm quyền xem xét văn bản hành chính liên quan đến QĐHC, 56 HVHC bị khởi kiện và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án. Theo đó, khoản 3, khoản 4 Điều 193 Luật TTHC năm 2015 quy định: - “Trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính liên quan đến QĐHC, HVHC bị khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này thì Hội đồng xét xử báo cáo Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án đó có văn bản yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính đó”. - Trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại Điều 112 của Luật này. Việc bổ sung quy định này được lý giải nhằm để Toà án thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng pháp luật. Để thực hiện quy định nêu trên, Luật TTHC năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định liên quan đến việc xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan trong vụ án hành chính, như: - Trình tự, thẩm quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm thực hiện kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật (Chương VIII); - Việc Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó (Điều 141); 57 - Quyền của Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính liên quan đến QĐHC, HVHC bị khởi kiện hoặc phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Hội đồng xét xử có quyền áp dụng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên để quyết định nếu quá thời hạn quy định mà không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, người có thẩm quyền (Điều 193, Điều 241)... 2.1.4. Các quy định pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng hành chính 2.1.4.1. Thời hiệu khởi kiện Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Luật TTHC năm 2010 thì “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”[54]. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định khác nhau đối với từng đối tượng khởi kiện. Khoản 2 Điều 104 của Luật TTHC quy định thời hiệu khởi kiện như sau: - 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; - 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; - Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. 58 Theo khoản 1 Điều 103 Luật TTHC năm 2010 quy định về quyền khởi kiện vụ án hành chính thì người khởi kiện có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với QĐHC, HVHC nếu không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_xet_xu_hanh_chinh_o_nuoc_ta_hien_nay.pdf
Tài liệu liên quan