Luận văn Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU . 2

1. Lý do chọn đề tài. 2

2. Tình hình nghiên cứu. . 4

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn. . 6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. . 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. . 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. 7

7. Kết cấu của luận văn. . 7

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÌNH

HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY. 8

1.1. Một số vấn đề về hội nhập quốc tế . 8

1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay. . 20

Chương 2: THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI

KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ . 43

2.1. Hội nhập Phật giáo về vấn đề văn hóa, tư tưởng. 43

2.2. Hội nhập Phật giáo đối với hoạt động đời sống xã hội Việt Nam. . 49

Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHẬT

GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 62

3.1 Những vấn đề đặt ra. 62

3.2 Giải pháp và kiến nghị. 63

KẾT LUẬN . 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 82

pdf88 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại quý tộc thì ưa cuộc sống ẩn dật gần gũi thiên nhiên giống như những đạo sĩ. Trong cung điện, hầu hết các phi tần đều sùng mộ Phật giáo, nhiều người lập bàn thờ Phật và thường xuyên đi lễ chùa. Nhiều tác phẩm văn chương của Việt Nam đã thể hiện tinh thần hoà quyện tam giáo sâu sắc. Nàng Kiều của Nguyễn Du luôn bị Đạm Tiên (Đạo) ám ảnh, có người thân là Kim Trọng, Vương Quan đi học rồi làm quan (Nho), khi tính mạng lâm nguy thì được vãi Giác Duyên (Phật) cứu giúp. Chàng Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu xuất thân là Nho sinh, khi gặp nạn thì nương nhờ cửa Phật, và được tiên ông cho thuốc chữa sáng mắt. Người Việt đã không chỉ dung hợp văn hoá, tôn giáo ngoại lai với nhau mà quan trọng hơn là dung hợp chúng với văn hoá và tín ngưỡng bản địa. Do đó, tất cả các tôn giáo khi đến nước ta đều bị Việt Nam hóa mạnh mẽ. Người dân đã tiếp nhận Phật giáo và Đạo giáo rồi kết hợp với tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp là đạo thờ Mẫu để hình thành nên một thứ “Tam giáo bình dân”, trong đó Nho giáo được thay bằng đạo Thánh Mẫu. Hầu hết các ngôi chùa cổ ở Việt Nam đều không chỉ thờ Phật mà còn thờ mẫu hoặc thờ thần theo cấu trúc “Tiền Phật hậu Mẫu” hay “Tiền Phật hậu Thần”, ở nhiều nơi, gian thờ Mẫu còn lấn át cả không gian thờ Phật. Hiện nay, các hoạt động hầu bóng, hầu đồng của các con nhang đệ tử vẫn thường được tổ chức tại các ngôi chùa. Với Phật giáo, sự kết hợp đó đã tạo ra dòng Phật giáo dân gian, với truyền thuyết về Phật mẫu Man Nương và những tích chèo cổ như Quan Âm Thị Kính, hay truyện thơ về công chúa Ba... cùng những quan niệm độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam. 39 * Phật giáo dân gian: Trong lĩnh vực tư tưởng, hầu như mọi học thuyết tôn giáo đều được người dân Việt Nam chấp nhận, miễn là nó không xâm phạm lợi ích quốc gia và không xúc phạm văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, mối quan tâm lớn nhất, cũng như ý thức thường trực của mỗi người dân đất Việt là cảnh giác đề phòng ngoại xâm. Vì vậy, tôn giáo ở xứ sở nào đến cũng được sẵn sàng đón nhận nhưng không tràn lan, xô bồ, thiếu chọn lọc, trái lại chúng ta luôn xem xét, cân nhắc thận trọng. Để có được vị trí nhất định trong đời sống tinh thần người dân Việt Nam, một tôn giáo trước hết cần phải thể hiện được những đóng góp tích cực của nó đối với công cuộc dựng nước và giữ nước và sau đó nó phải hoà đồng, dung hợp được với tín ngưỡng bản địa. Xét ngay từ yếu tố nội sinh, Phật giáo mang tính thích ứng cao, khi đến đâu nó cũng nhanh chóng kết hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng bản địa. Ở Việt Nam, dòng Phật giáo dân gian đã có lịch sử gần 20 thế kỷ, bởi những mầm mống của nó đã xuất hiện ngay từ khi Phật giáo được truyền bá vào nước ta. Đây là sự dung hợp giữa Phật giáo Ân Độ với tín ngưỡng cổ của người Việt. Ngay từ buổi đầu du nhập, Phật giáo nhanh chóng bị bản địa hoá và trở thành chỗ dựa tinh thần chống lại nhiều đợt sóng xâm lăng, đồng hoá về văn hoá của các thế lực ngoại bang trong nhiều thời đại. Do đó, Phật giáo ở Việt Nam có những nét đặc thù. Trước hết là quan niệ m về Đức Phật, Đức Phật trong Phật giáo Việt Nam được tạo ra phù hợp với những yếu tố có sẵn của văn hoá bản địa và những yêu cầu lịch sử. Điều này thể hiện rõ nhất ở hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp (Phật điện). Trong tín ngưỡng này, các hiện tượng tự nhiên vốn được người Việt cổ thần thánh hoá từ trước đó như mây, mưa, sấm, chớp được Phật hóa trở thành Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện; trong đó Phật Pháp Vân là biểu trưng và là hình tượng trung tâm. Đây có thể được coi là sự nhượng bộ đầu tiên của Phật 40 giáo khi du nhập vào Việt Nam. Trong tín ngưỡng Phật điện, chúng ta không thể tìm thấy hình ảnh Đức Phật Ân Độ, đồng thời tín ngưỡng cũ cũng được bổ sung thêm những nội dung mới. Mặc dù cả hai đều không giữ được tính thuần khiết ban đầu nhưng đây là việc làm cần thiết, bởi nhờ đó mà Phật giáo có thể dễ dàng bám rễ vào nền văn hoá Việt Nam, đồng thời tín ngưỡng bản địa cũng có thêm sức sống mới. Tín ngưỡng Phật điện hình thành ở trung tâm Luy Lâu đã truyền đi các địa phương khác và trở thành một trong những chỗ dựa về tâm linh của cả dân tộc Việt Nam qua nhiều thời đại và còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong lịch sử, các lễ hội rước Phật để cầu mưa thuận, gió hoà, mùa màng tươi tốt không chỉ phổ biến ở các địa phương mà ngay cả triều đình cũng đứng ra tổ chức các nghi lễ này. Cho đến nay, ngày Phật đản vẫn được tổ chức gắn với lễ nghi nông nghiệp tại chùa Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh). Dòng Phật giáo dân gian còn độc đáo ở xu hướng hài hoà âm dương thiên về nữ tính. Các vị Phật ở Ân Độ có hình tượng đàn ông, nhưng khi sang đến nước ta thì bên cạnh Phật ông còn có Phật bà. Và trong tâm thức người Việt thì Phật bà có gì đó gần gũi hơn, vì thế Phật bà Quan Âm trở thành vị thần hộ mệnh cho tất cả cư dân. Bằng trí tưởng tượng phong phú và sâu sắc, người dân Việt còn tạo ra Phật bà của riêng mình. Người con gái của Man Nương được xem là Phật tổ Việt Nam. Man Nương được coi là Phật Mẫu. Ngày nàng sinh con được lấy làm ngày Phật đản. Việt Nam có cả một hệ thống các Phật bà như: Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện, Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Bà Bồ tát... thậm chí ngay cả Đức Phật Thích Ca vốn là đàn ông mà trong các bức tranh dân gian vẫn được hình dung như đàn bà. Bên cạnh đó nước ta có khá nhiều chùa mang tên các bà như: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn, Bà Đá, Bà Đanh, Bà Nành, Bà Ngô, Bà Móc... Trong quá khứ cũng như hiện tại, đa số Phật tử tại gia là phụ nữ. 41 Phật giáo ở Việt Nam có tính linh hoạt đặc biệt. Như trên đã phân tích, bản thân đạo Phật là một tôn giáo có những nội dung rất dễ được tiếp thu và biến đổi để phù hợp với điều kiện cụ thể. Với những người Việt bình dân, đặc biệt là phụ nữ ít được học hành (vì điều kiện xã hội trọng nam khinh nữ) thì những giáo lý cao siêu, trừu tượng chỉ có thể nằm nguyên trong kinh sách ở sau cửa chùa chứ không thể thâm nhập được sâu rộng trong quần chúng. Ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo cũng có dòng Phật giáo dân gian nhưng cùng với thời gian nó thường chí mai một đi. Nhưng Phật giáo dân gian ở Việt Nam mang đậm màu sắc tín ngưỡng, phản ánh ước vọng của người Việt cổ vẫn tồn tại với tư cách là một hiện tượng văn hoá thông qua các lễ hội ở các làng quê trên khắp lãnh thổ nước ta. * Chủ trương cứu độ nhập thế: Như chúng ta đã biết, triết học Ấn Độ cổ đại được ví như ngón tay chỉ mặt trăng, tất cả các học thuyết của nền triết học này, dù chính thống hay không chính thống đều được xây dựng nhằm tìm ra con đường, phương tiện để đạt tới sự giác ngộ, giải thoát chúng sinh khỏi luân hồi, đau khổ; và Phật giáo ra đời cũng không nằm ngoài mục đích ấy. Không phải vô cớ khi người ta gọi đạo Phật là “Đạo giải thoát”. Lý tưởng giải thoát của tôn giáo này là điều không cần bàn cãi. Hệ thống phương pháp được các nhà tu hành áp dụng để đạt tới Niết bàn vô cùng đa dạng, phong phú, trong đó đa số là những hình thức tu tập mang tính xuất thế, tìm cách xa lánh cuộc đời. Tuy nhiên mục đích thoát khổ, chứng ngộ Niết Bàn cũng như các phương pháp đó không thực sự phù hợp với người Việt Nam, đặc biệt là người Việt bình dân. Vì thế bên cạnh việc tiếp biến, dung hợp Phật giáo sao cho phù hợp với lợi ích thiết thực của dân tộc, các thiền sư Việt Nam cũng có những đóng góp đáng kể vào kho tàng lý luận Phật giáo, trong đó có việc chỉ ra một con 42 đường chứng ngộ Niết Bàn thiết thực và độc đáo. Đó là con đường “Cứu nhân độ thế”. Đi đến giác ngộ bằng con đường cứu nhân độ thế, Phật giáo Việt Nam mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân. Chính tinh thần này đã đưa nhiều nhà sư Việt Nam đến với cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử và tạo nên một trong những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của Phật giáo Việt Nam, đó là xu hướng nhập thế. Và tinh thần nhập thế được biểu hiện rõ nét hơn cả trong chủ trương của thiền phái Trúc Lâm. Thiền sư Thích Thanh Từ đã có bài lý giải vì sao ông chủ trương khôi phục Phật giáo thời Trần, bởi theo ông đó chính là Phật giáo của dân tộc, với tất cả những đặc trưng tiêu biểu cho cốt cách, tinh thần và những đức tính tốt Tiểu kết: Ở Chương 1 tác giả đã giải quyết những vấn đề lý luận chung của Luận văn. Trong đó, đề cập đến tình hình chung của hội nhập quốc tế; tập trung đi sâu vào hình thức hội nhập văn hóa, bởi lẽ bao hàm trong văn hóa có cả tôn giáo nói chung và phật giáo nói riêng. Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam; tình hình chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay; đặc điểm Phật giáo Việt Nam và những yếu tố giúp Phật giáo Việt Nam luôn luôn đồng hành trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Từ thực trạng chung của vấn đề hội nhập quốc tế và Phật giáo Việt Nam hiện nay, ở Chương 2 tác giả sẽ tập trung làm rõ những biến đổi của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 43 Chương 2: THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2.1. Hội nhập Phật giáo về vấn đề văn hóa, tư tưởng. 2.1.1 Trong vấn đề văn hóa tín ngưỡng Tín ngưỡng là một trong những vấn đề đối với bất cứ một tôn giáo nào trên thế giới. Nếp sống sinh hoạt tôn giáo của người con Phật khác với tôn giáo khác, ở chỗ là cũng tự do tín ngưỡng nhưng đối với Phật giáo thì tự do theo luật Nhân quả. Chính vì lẽ đó mà đạo Phật trở thành đặc thù so với mọi tôn giáo trong việc tự do tín ngưỡng. Đây là điều mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phải quan tâm. Vấn đề tự do tín ngưỡng là điểm khởi đầu cho việc đem đạo vào đời nhằm mục đích nuôi dưỡng tâm từ bi và phụng sự chúng sanh. Để có được điều này cần phải hội đủ các điều kiện sau: thứ nhất là ngôi chùa, hai là vị tu sĩ hướng dẫn và cuối cùng là tổ chức chương trình tu học Trong vấn đề sinh hoạt tâm linh, chùa là ngôi nhà tâm linh, là quê hương thứ hai của người con Phật, còn là nơi thanh tịnh vắng vẻ cho những ai muốn tìm lại chính mình. Chính vì thế mà chùa cần phải được xây dựng như thế nào để thu hút tín đồ. Thiết nghĩ, chúng ta cũng nên xây và trang trí ngôi chùa phải như thế nào cho thật thoáng mát, giúp cho ta có cảm giác thảnh thơi thì mới thu hút được quần chúng. Điều kiện cần và đủ thứ hai là người hướng dẫn, vị tu sĩ là người đứng ra hướng dẫn họ trên bước đường tâm linh. Chính vì thế mà phải có kiến thức Phật học uyên thâm, phải là một nhà tâm lý học, biết tâm tư và nguyện vọng của con người đồng thời cần phải học hỏi kinh nghiệm của người đi trước. Điều đặt biệt là phải biết uyển chuyển và hòa mình để đáp ứng nhu cầu của họ, nếu hợp pháp thì ta thuận theo và ngược lại, 44 ta cũng phải giải thích rỏ ràng cho họ hiểu...Song song với việc điều hành quản lý phải biết tổ chức chương trình tu học cho Phật tử hầu góp phần mở mang kiến thức, áp dụng lời dạy của đức Phật vào trong cuộc sống hằng ngày để họ được an lạc và hạnh phúc hơn trong cuộc sống đời thường. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều chùa tổ chức khóa tu cho Phật tử như khóa tu “Phật Thất” ở chùa Hoằng Pháp thu hút đến hàng ngàn người tham dự, “Một Ngày An Lạc” ở chùa Phổ Quang cũng thu hút khá đông Phật tử, rồi tổ chức thọ “Bát quan trai” cũng được vài trăm người tham dự. Chính vì thế để cho nguồn tâm linh con người mỗi ngày nâng cao thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng và Giáo hội Phật giáo thế giới nói chung, phải có một đường lối đúng đắn, lựa chọn người đạo cao, đức trọng mà giao nhiệm vụ để điều hành một tổ chức hay một tập thể cho phù hợp. Đồng thời Giáo hội Phật giáo phải là nguồn động viên an ũi, khích lệ tinh thần cho họ... 2.1.2. Trong vấn đề văn hóa nghệ thuật Văn hóa nghệ thuật là một trong những lĩnh vực nổi bật nhất hiện nay trong Phật giáo, một nền văn nghệ phật giáo là một nền văn nghệ biểu hiện tình thương và tinh thần cứu khổ và như thế một nền văn nghệ được hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo và tất nhiên phải được giáo hội nâng đỡ, ủng hộ. Có như vậy thì ý thức hiện đại hóa Phật giáo được phổ biến rộng rãi. Đặt biệt trong lĩnh vực này thu nhiều văn nghệ sĩ tham gia, họ là những người yêu mến đạo Phật, họ ước ao muốn đem lời ca tiếng hát của mình ca ngợi đạo Phật nhưng cũng đồng thời phụng thờ lý tưởng. Vì sao họ lại yêu mến đạo Phật đến thế. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì Phật giáo chưa bao giờ đi quá xa để tách khỏi tính dân tộc từ hàng ngàn năm trước. Chính vì thế mà đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học hiện đại và sát với thực tế 45 Bên cạnh đó chúng ta còn khuyến khích văn nghệ sĩ trong việc nghiên cứu giáo lý bằng cách đọc sách nghe thuyết giảng hầu góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống; một cuốn phim, một đoạn cải lương, một vở kịch hay một cuốn sách đều mang âm hưởng của Phật giáo, nhằm đem đạo Phật đi vào cuộc đời. Mục đích của văn nghệ là tạo ra cho người thưởng thức một cảm giác thoái mái sau những giờ làm việc căng thẳng, nhưng cũng đồng thời nó còn trình bày được những vấn đề thực tại của cuộc sống theo tinh thầnTứ Diệu Đế để làm phát sinh nơi người đọc có những nhận thức rỏ ràng về thực tại của cuộc sống, nhằm nuôi dưỡng và phát triển tâm từ và cuối cùng động viên họ diệt trừ những khổ đau kiến lập an lạc ngay trên cuộc đời này. Chính vì thế, chúng ta cần có nhiều tổ chức hoạt động văn nghệ dành cho cư sĩ, tham gia vào trong những ngày lễ lớn và nhiều hoạt động khác đồng thời ban tổ chức mời những ca sĩ nghệ sĩ về tham gia bởi họ là những người nổi tiếng trên sân khấu thì ít nhiều gì cũng là người đem lại niềm tin cho kẻ khác và chính sự phát triển của nền văn học nghệ thuật Phật giáo này, được xem là phương tiện vĩ đại nhất, thể hiện được tinh thần dấn thân và nhập thế tích cực nhất trong thời kỳ hội nhập và phát triển. 2.1.3. Trong lĩnh vực giáo dục “Sự nghiệp tri thức của nhân loại là sự khám phá liên tục về thực tại và truyền trao những kết quả khám phá ấy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực tại ở đây là thực tại tâm linh cũng như thực tại vật lý và xã hội. chân lý bất cứ khám phá được từ đâu cũng mang tính cách nhân bản liên hệ với nhân thức của con người. bởi vì chân lý vừa linh động vừa không có tính cách thuần túy khách quan. Cho nên vai trò của người giáo dục không phải là vai trò của một cái máy truyền đạt kiến thức mà vai trò của người giáo dục phải là vai trò của thực thể sinh động và tràn đầy ý thức”6 46 Tầm quan trọng của giáo dục Phật giáo: cổ đức từng nói “ ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý” nghĩa là “ngọc không mài không thành vật quý người không học thì không đạo lý”. Hiện nay giáo dục là một vấn đề luôn đặt lên hàng đầu đối với Phật giáo. Bởi lẽ trên thế giới hiện nay có hai khuynh hướng tồn tại và đối lập nhau nhưng lại đi song song với nhau đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật vật chất đối với con người ngày một dư thừa nhưng trong khi đó đạo đức, nhân cách của con người ngày một suy đồi, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng. Việt Nam là một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phat_giao_viet_nam_trong_thoi_ky_hoi_nhap_quoc_te.pdf
Tài liệu liên quan