Luận văn Phát huy nhân tố con người trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 6

1.1. Quan điểm mác xít về nhân tố con người 6

1.1.1. Khái niệm về con người 6

1.1.2. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam 15

1.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 21

1.2.1. Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - thuận lợi và khó khăn 21

1.2.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 26

Chương 2: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NGHỆ AN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 40

2.1. Thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 40

2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm Nghệ An ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn 40

2.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và sự tác động của nó đến việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn 43

2.1.3. Những thành tựu đạt được đối với việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 48

2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 52

2.1.5. Những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 60

2.2. Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 62

2.2.1. Những phương hướng chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 62

2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An 74

KẾT LUẬN 109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112

 

 

doc114 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6712 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 8,7%. Các năm 1997-1999 xảy ra khủng khoảng tài chính tiền tệ trong khu vực cùng với hạn hán kéo dài trên một số vùng đã ảnh hưởng nhất định đến quá trình phát triển. Nhưng Nghệ An đã nỗ lực vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách duy trì được nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (thời kỳ 1996-2000) 7,5% (cả nước 6,7%). Nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn được khai thác và sử dụng bước đầu có hiệu quả, tài nguyên, đất đai, ao hồ, đầm đã được đưa vào sử dụng nhiều hơn. Nông nghiệp và nông thôn phát triển khá, nhất là sản xuất lương thực đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% (cả nước 4,5-5%). Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực năm 2000 đạt 260.000 ha. Nhờ thâm canh, đưa giống mới vào sản xuất và thời tiết nhìn chung thuận lợi, nên năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều tăng. Sản lượng lương thực tăng bình quân hàng năm trên 30.000 tấn, bình quân đầu người từ 250kg năm 1995 lên 290kg năm 2000. Bước đầu hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung gắn với công nghiệp chế biến (mía 18.000 ha; chè 3.891 ha...). Chăn nuôi tiếp tục phát triển, năm 2000 đàn trâu đạt 26,5 vạn con, đàn bò hơn 26,8 vạn con, đàn lợn đạt 81,6 vạn con. Thực hiện chương trình sinh hóa đàn bò đạt 30-35%, lợn giống mới 40-45% tổng đàn. Ngư nghiệp có chuyển biến về đánh bắt, nuôi trồng và chế biến phục vụ xuất khẩu. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng từ 5.700 tấn năm 1995 lên 8000 tấn năm 2000. Phương tiện đánh bắt xa bờ được tăng thêm, nâng sản lượng khai thác từ 21.000 tấn năm 1995 lên 29.000 tấn năm 2000. Rừng được trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ tốt hơn. Trong năm năm (1996-2000) trồng mới tập trung được 45.000 ha; khoanh nuôi và bảo vệ 563.000 ha. Nhờ đó, nâng độ che phủ từ 36% năm 1995 lên 43% năm 2000 (cả nước 33%). Công nghiệp và xây dựng tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được mức tăng bình quân hàng năm 12,4% (cả nước (12,2%). Đã hình thành một số mũi nhọn công nghiệp rõ nét (xi măng, mía, đường) một số sản phẩm công nghiệp tăng nhanh (xi măng tăng 3,6 lần, đường tăng 15 lần, bia và chè tăng 2 lần). Các ngành dịch vụ và thương mại đã từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân; mức tăng bình quân hàng năm đạt 8,6% (cả nước 7%). Trong những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, Nghệ An đã có nhiều cố gắng giải quyết việc làm cho người lao động. Hàng năm tạo việc làm cho hơn 2 vạn lao động. Trong 5 năm (1996-2000) có 8 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đã thực hiện 117 triệu USD, góp phần giải quyết việc làm trực tiếp cho 1.000 lao động và gián tiếp cho 40.000 lao động. 2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An Sự tăng trưởng kinh tế của Nghệ An trong thời gian qua đã phản ánh những thành tựu đạt được trong việc phát huy nhân tố con người. Tuy kinh tế phát triển nhưng chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả còn thấp, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo. Khả năng phát huy nguồn nhân lực dồi dào của tỉnh vẫn còn yếu kém; chưa tạo được những điều kiện thúc đẩy hoạt động của nhân tố con người tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao. Cần thấy thực trạng rằng, trong nông thôn nạn thiếu việc làm, hoặc có việc làm nhưng hiệu quả kém và thu nhập thấp là khá phổ biến. Nếu chỉ tập trung vào sản xuất nông nghiệp độc canh thì lao động ở nông thôn dư thừa quá nhiều, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm việc 210 ngày/năm (mỗi ngày làm việc bình quân 4-5 giờ), nếu căn cứ vào quỹ đất và chỉ làm thuần nông, lao động nông thôn đã dư thừa ít nhất 30% (tương đương 8-9 triệu người) [6, tr. 87]. Theo kết quả điều tra cơ bản lao động vùng Bắc Trung bộ của Bộ Lao động, thương binh và xã hội năm 1998 tỷ lệ người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động trong 12 tháng ở nông thôn Bắc Trung bộ là 34,4%, trong đó Nghệ An là 29,97% [4, tr. 558-561]. - Ngoài việc tổ chức sản xuất, thay đổi công nghệ cũng làm một số lao động bị thất nghiệp cơ cấu; việc cơ giới hóa nông nghiệp sẽ làm giảm thời gian lao động ở nông thôn. Quá trình này có xu hướng ngày càng gay gắt hơn do đòi hỏi của việc duy trì phát triển kinh tế với tốc độ cao. Vì vậy, yêu cầu trước mắt phải đẩy mạnh mạng lưới đào tạo nghề, giúp cho người lao động tìm được việc làm nâng cao đời sống. Mặt khác, từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy Nghệ An cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động thì mới có khả năng giải quyết một mức độ đáng kể tình trạng thiếu việc làm hiện nay và những thập kỷ tiếp theo. Trong 10 năm (1989-1999) dân số Nghệ An tăng bình quân hàng năm là 1,75% (cả nước 1,7%). Đặc biệt trong mấy năm gần đây, tỷ lệ tăng dân số ở vùng ven biển, vùng giáo dân, vùng dân tộc của Nghệ An vẫn cao; lực lượng lao động tăng tự nhiên hàng năm 3,3 vạn người gây sức ép mạnh về giải quyết việc làm. Sự gia tăng dân số cùng với các yếu tố khác như không kịp thời thay đổi mùa vụ ở một số vùng, chưa đưa ngành nghề vào nông thôn, đã tạo nên thực trạng dư thừa lao động gay gắt. Hàng chục vạn thanh niên nông thôn một năm có 6 tháng "nông nhàn", không có việc. Nghệ An lại chưa có cơ sở sản xuất công nghiệp thu hút sức lao động. Do vậy, lao động và việc làm đang thực sự là vấn đề bức bách cho từng gia đình. - Người lao động là vốn quý nhất, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển xã hội, nhưng để nhiều người lao động thất nghiệp, thiếu việc làm, thì họ lại có thể gây ra những áp lực tiêu cực cho xã hội (di dân tự do, tệ nạn xã hội...). Đó là vấn đề vừa cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài cần từng bước giải quyết. Tuy nhiên, giải quyết việc làm ở nông thôn Nghệ An còn rất nhiều khó khăn, số người cần giải quyết việc làm còn rất lớn. Trong số những người được giải quyết việc làm phần đông vẫn là lao động phổ thông, giản đơn, thu nhập thấp và chủ yếu lao động trong lĩnh vực sản xuất nhỏ, thủ công hoặc dịch vụ bình thường và bấp bênh, một bộ phận trong số những người này nguy cơ mất việc trở lại luôn luôn đặt ra. Tạo việc làm ở nông thôn Nghệ An đã là khó khăn, làm rõ điều đó cần tìm hiểu thực trạng lao động và chất lượng lao động ở Nghệ An hiện nay. - Về cơ cấu chất lượng: Tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của Nghệ An có đến năm 2000 là: 249.814 người, chiếm 18,7% lực lượng lao động. Trong đó: + Lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học có 32.965 người, chiếm 2,45%, tập trung ở ngành giáo dục và y tế. + Lao động là công nhân kỹ thuật có 42.837 người, chiếm 3,21%, trong đó số người có trình độ tay nghề cao chỉ vài trăm người, lại tập trung ở các ngành dịch vụ là chính. + Lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là: 85.674 chiếm 6,42%. + Lao động được đào tạo ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề và các cơ sở ngoài công nghiệp là 86.611 (chiếm 6,64%) [26]. Thực trạng trên đây phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn ở mức quá thấp, mặt khác cơ cấu bên trong về ngành nghề và bậc học của lực lượng lao động qua đào tạo còn có sự bất hợp lý đối với nhu cầu sử dụng: lao động là công nhân kỹ thuật chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong tổng số lao động được đào tạo, tập trung chủ yếu ở một số ngành nghề thông dụng như: lái xe, cơ khí, xây dựng, mộc dân dụng, may mặc... Một số ngành nghề cần thiết khác như chế biến nông, lâm, hải sản, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi còn chưa được quan tâm đào tạo. Đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc cao đáp ứng yêu cầu công nghệ mới của sản xuất phát triển còn quá thiếu. Chất lượng lao động thấp với cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý đã có ảnh hưởng khó khăn cho quá trình phân công lao động, giải quyết việc làm. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng lao động được bố trí vào làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn tỉnh có sự tăng đáng kể. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các vùng và ngành kinh tế còn diễn ra với tốc độ chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Một trong nhiều nguyên nhân của tình trạng đó có nguyên nhân xuất phát từ nội lực của bản thân người lao động, đó là trình độ nghề nghiệp. Lao động thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế khả năng tạo việc làm, tìm đến việc làm, di chuyển chỗ làm việc giữa các ngành, các khu vực kinh tế. Để tăng sức sản xuất ở nông thôn, nâng cao năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu ngày càng lớn của người lao động, thời gian qua chúng ta đã chú trọng đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Khó khăn chính là vốn. Thế nhưng, những nguồn vốn có được từ nguồn lực của nhà nước, từ nguồn vốn trong dân và từ việc thu hút vốn bên ngoài dưới nhiều hình thức để đầu tư cho phát triển lại bị tham nhũng, lãng phí, thất thoát rất lớn. Tham nhũng chính là tước đoạt cơ sở tồn tại hiện thực của người lao động, trực tiếp làm mất phương tiện quan trọng để tăng sức sản xuất. Nhiều dự án, chương trình đầu tư phát triển và hỗ trợ việc làm triển khai ở Nghệ An thiếu đồng bộ và phân tán qua nhiều khâu trung gian vừa làm thất thoát, vừa làm giảm tác dụng và hiệu quả của vốn đầu tư. Ngân sách đầu tư đã hạn hẹp, nhưng việc sử dụng quản lý lại chưa có hiệu quả. Đặc biệt, vốn đầu tư cho chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc bị tham nhũng, lãng phí, thất thoát lớn. Năm 1998 ở Nghệ An có 45/86 dự án xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã vi phạm trong khâu thẩm định, lập khống 139 bộ hồ sơ để vay 467 triệu đồng, 55 đơn vị vay sử dụng vốn không đúng mục đích với số tiền 2,2 tỷ đồng [2]. Việc làm sai trái này là trực tiếp vi phạm lợi ích của quần chúng lao động, làm mất khả năng tăng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu, lợi ích chính đáng của người lao động, trái với bản chất của CNXH. Tình trạng huy động sức dân một cách tùy tiện, bắt dân đóng góp một cách quá mức, cũng là một hiện tượng phổ biến ở Nghệ An trong thời gian qua. Kết quả điều tra thực trạng dân đóng góp một cách tùy tiện trên địa bàn 7 huyện và Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An cho thấy: Trong số hàng chục xã của 7 huyện và Thành phố Vinh đã kiểm tra thì trung bình dân phải đóng góp từ 25-30 khoản, có xã lên đến 40 khoản. Không kể công lao động, riêng tiền và thóc, các hộ phải đóng góp 20-40% về tổng thu nhập nông nghiệp hàng năm (có gia đình nông dân 1 năm thu hoạch được 1484kg thóc thì phải nộp thuế và đóng góp các khoảng hết 561kg). Trong khi đó việc quản lý thu chi không rõ ràng, một mặt do cán bộ lợi dụng sơ hở để xà xẻo, cắt xén, mặt khác trình độ cán bộ có hạn cũng gây thất thoát, lãng phí. Nhiều công trình lại vượt quá dự toán nên phải vay dân, vay ngân hàng và nhiều nơi công trình đã làm xong nhưng không có khả năng thanh toán, trả nợ. Nhiều công trình đã đầu tư hàng trăm triệu đồng nhưng phải bỏ dở vì hết vốn... 100% xã có kiểm tra đều nợ ngân hàng và nợ của dân, rất nhiều xã không có khả năng thanh toán. Một xã của huyện Nghi Lộc sau khi làm trường và xây đài tưởng niệm xong còn phải chịu nợ hàng trăm triệu đồng, lãi suất phải trả mỗi năm lên tới 60 triệu đồng, trong khi đó huy động tối đa sức đóng góp của dân trong toàn xã cũng chỉ được 40-50 triệu đồng. Do vậy, nợ vốn cộng lãi ngày càng chống chất. Việc huy động đóng góp đầu tư xây dựng các công trình không bàn bạc kỹ với dân, phổ biến là mất dân chủ, có nơi đưa ra dân bàn nhưng chỉ là những chủ trương chung chung, có nơi cấp ủy, Hội đồng nhân dân bàn rồi đưa ra dân với tính chất áp đặt từ trên xuống. Các công trình không được quyết toán công khai, nên thực chất nhân dân không nắm được thu chi. Tình hình đó tạo nên mâu thuẫn và những bức xúc âm ỉ kéo dài không được giải quyết nhất là những nơi có biểu hiện tiêu cực [32]. Sự thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ Đảng viên, kết hợp với sự yếu kém về năng lực, trí tuệ đã dẫn đến một thực trạng như trên. Thực trạng đó tự nó nói lên rằng, không những không phát huy được tính tích cực, năng động sáng tạo của quần chúng lao động mà còn kìm hãm sức sáng tạo của họ. Mặt khác, nó làm giảm sút niềm tin của quần chúng lao động đối với Đảng, với chế độ tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng. Khắc phục hạn chế trên là điều kiện quyết định của việc phát huy nhân tố con người đúng định hướng XHCN. Sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng: Trong lĩnh vực kinh tế, cơ chế thị trường là một tất yếu không thể đảo ngược được của sự phát triển, kéo theo xu hướng tất yếu của sự phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa thu nhập ở mức độ hợp lý là động lực của sự phát triển. Sự tăng hộ giàu bằng sức lực, trí tuệ của chính bản thân mình là một hiện tượng tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Hộ giàu là những nhân tố mới trong sự phát triển của đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nhưng ngay cả ở đây cũng ẩn chứa nguy cơ có thể làm rạn nứt các quan hệ xã hội lành mạnh mà chúng ta đang xây dựng. Điều cần quan tâm ở đây là xu hướng làm giàu bất chính (nhờ buôn lậu, tham nhũng, đầu cơ...) là nguyên nhân tạo ra những tệ nạn xã hội làm tăng sự phân hóa sâu sắc trong tầng lớp nghèo (thiếu công ăn việc làm, bế tắc đã tiếp tay cho buôn lậu hoặc sa vào những tệ nạn khác như cờ bạc, nghiện hút...) Cần thầy rằng, trong số người giàu ở Nghệ An, có cả một số là cán bộ có chức, có quyền đã bị tha hóa, và vì thế nạn tham nhũng, hối lộ có điều kiện tồn tại phát triển. Điều nguy hại nhất của tệ nạn này là ảnh hưởng về mặt xã hội, về chính trị, gây nghi ngờ trong quần chúng nhân dân lao động đối với cán bộ nhà nước và các cấp bộ Đảng; gây mất lòng tin vào nhà nước. Có thể nói đây là nguy cơ lớn nhất của Nghệ An, vấn đề này tuy được lãnh đạo Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân thường xuyên quan tâm chỉ đạo, triển khai loại trừ, song hiệu quả chưa cao. Xu hướng phân hóa giàu nghèo vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng sâu sắc, là vấn đề xã hội bức xúc cần quan tâm nghiên cứu loại trừ. Bởi vì xã hội ta không chấp nhận sự làm giàu bất chính. Cũng có một số giàu lên do cơ chế quản lý lỏng lẻo của các cơ quan như ngân hàng... cho vay thiếu điều tra, cân nhắc. Sự tha hóa, kém phẩm chất của một số người đã dẫn đến tình trạng làm cho các ngân hàng dư nợ gần trăm tỉ đồng chưa giải được. Hậu quả kinh tế đối với một tỉnh nghèo như Nghệ An quả là nặng nề, song hậu quả xã hội sẽ tác động lâu dài, sâu sắc hơn. Không ai dám chắc rằng, sự bất bình đẳng như vậy đến một giới hạn nào đó lại không trở thành xung đột, mất ổn định xã hội, thành đối kháng, từ mâu thuẫn cục bộ thành mâu thuẫn có tính giai cấp. Tệ nạn xã hội đang là một thách thức đối với cộng đồng người Nghệ An: Các tệ nạn và tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng làm tổn hại sức sống và phát triển, nhất là ở thanh niên - lực lượng chủ yếu của CNH, HĐH. Nghệ An là một điểm nóng về vận chuyển mua bán ma túy, và số người nghiện hút phát triển mạnh, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Theo điều tra của công an Nghệ An, năm 1998 cả tỉnh có 2.911 con nghiện, Thành phố Vinh trên 300 con nghiện, phần lớn tuổi thanh, thiếu niên, nguy hại nhất là ma túy len lỏi vào trường học. ở huyện Quỳ Châu (huyện miền núi) Nghệ An, năm 1992 có 170 con nghiện ma túy, thì năm 1996 đã có 230 người, tăng 35% và đến năm 1998 so với năm 1992 con số này tăng lên 40%, mỗi năm số người nghiện hút này đã thiêu hủy hết 2,5 tỷ đồng, số tiền này gấp 2,5 lần tổng thu ngân sách hàng năm của huyện, và điều đáng nói là 88% số người nghiện đều có hoàn cảnh vô cùng khó khăn, trong đó có 119 lượt đối tượng trộm cắp, trấn lột, cưỡng đoạt tài sản công dân. ở huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) năm 1998 có 610 người nghiện ma túy, trong đó có 16 cán bộ Chi cục thuế của huyện nghiện hút (chiếm 60% cán bộ chi cục) [34]. Tệ mại dâm ở Nghệ An cũng là điều nhức nhối. Trên địa bàn tỉnh, năm 1998 phát hiện 235 gái mại dâm, tuy nó chưa ảnh hưởng sâu sắc đến vùng nông thôn rộng lớn, song nó phản ánh sự suy đồi về phẩm chất đạo đức của một số người và góp phần làm lây lan HIV, AIDS - căn bệnh thế kỷ. Đáng chú ý là ở Thành phố Vinh (đến hết quý III năm 1998) đã có 11/18 phường, xã có người nhiễm HIV [31]. Nghệ An đến hết tháng 10 năm 1998 đã có 132 trường hợp nhiễm HIV/AIDS, trong đó có 7 người chuyển sang AIDS và 5 người bị tử vong. Đến tháng 12 năm 1999, 18/19 thị xã, huyện ở Nghệ An đã phát hiện ra người nhiễm HIV, đặc biệt đi khám nghĩa vụ quân sự cho 607 thanh niên thì đã phát hiện ra 21 trường hợp nhiễm HIV [1]. Tội phạm và tệ nạn xã hội tăng, đặc biệt là tội phạm về ma túy, nhiều nơi vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính quyền và các cơ quan chức năng, trở thành mỗi lo lắng của các tầng lớp nhân dân. Rõ ràng ma túy, mại dâm và các tệ nạn khác đã để lại hậu quả khôn lường, làm vẩn đục môi trường xã hội - nhân văn, làm hao tổn sức sống và phát triển của người Nghệ An. 2.1.5. Những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An - ở Nghệ An, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cả đa dạng hóa ngành nghề và đa dạng hóa vật nuôi). Kinh tế trang trại vừa phát triển chậm, vừa nhỏ; công nghiệp, thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống ở nông thôn chưa được phát triển, về cơ bản là sản xuất nông nghiệp độc canh, tự cung, tự cấp. Kinh tế hàng hóa kém phát triển, chưa tạo được những mũi nhọn kinh tế, những tập đoàn lớn trong sản xuất, kinh doanh để mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài nhằm thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển. Do đó, chưa giải phóng triệt để sức sản xuất ở nông thôn. - Dân chủ đối với nhân dân lao động chưa cao. Chưa thực sự đảm bảo cho dân được biết, dân được bàn, dân được làm, dân được kiểm tra, đặc biệt quan trọng trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm. Do đó, làm hạn chế đến việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân vượt qua mọi khó khăn, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, đấu tranh chống những sai trái và bất công trong xã hội, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, bền vững và đúng định hướng XHCN. - Trình độ dân trí chưa được nâng cao đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi CNH, HĐH. Giáo dục đào tạo không theo kịp yêu cầu CNH, HĐH. Chất lượng đào tạo thấp, việc dạy và học thêm phát triển tràn lan. Nghề dạy học chưa được xã hội tôn vinh. Trong khi đó, không ít thầy cô giáo tự đánh mất đạo đức lương tâm nghề nghiệp. Cơ cấu đào tạo không hợp lý, còn mất cân đối giữa giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề không được coi trọng đúng mức, không đảm bảo được cơ cấu lao động phù hợp với tiến trình CNH. Xã hội hóa giáo dục thực hiện chậm so với nhiều tỉnh có trình độ phát triển kinh tế tương đương. Việc học ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Chưa có được một đời sống văn hóa, tinh thần nói chung thực sự trong sáng, lành mạnh. Đặc biệt, sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức, nhân cách, lối sống, quan hệ ứng xử, lý tưởng, niềm tin... của con người. Quan hệ tình người đôi khi bị thương mại hóa, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, làm ăn phi pháp, các tệ nạn xã hội... đang là điều đáng lo ngại của toàn xã hội. Các nguyên nhân trên đây không tồn tại một cách biệt lập với nhau, mà chúng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của lẫn nhau đang làm hạn chế việc phát huy nhân tố con người đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2.2. một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 2.2.1. Những phương hướng chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An 2.2.1.1. Phải quán triệt quan điểm con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Phát huy nhân tố con người đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, không có mục đích nào khác là đem lại sự thỏa mãn nhu cầu phong phú, đa dạng của con người, đem lại sự phát triển toàn diện cho con người bằng chính hoạt động sáng tạo của họ. Con người chỉ có thể tự nâng mình lên, tự hoàn thiện mình chính trong hoạt động sáng tạo ra lịch sử mà trước hết là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Và cái đích cuối cùng đạt được trong tương lai là con người có khả năng tự hoàn thiện mình một cách tự giác, thoát khỏi sự lệ thuộc một cách tự phát vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược coi việc đặt lợi ích con người vào vị trí trung tâm, coi trọng cả lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, lợi ích toàn xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Vấn đề then chốt để tạo động lực chính là có chủ trương, chính sách đúng đắn, đem lại lợi ích cho nhân dân, hợp lòng dân, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân sẽ thúc đẩy phát triển bền vững. Lợi ích (cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần) là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy con người hành động, là vấn đề quan trọng trong quá trình thống nhất về tư tưởng và thông qua đó gây nên những biến đổi trong tiến trình vận động của xã hội. Các Mác đã nhấn mạnh rằng: "Tất cả những gì mà con người ta đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ" [20, tr. 109]. Người nông dân Việt Nam có thể vì cộng đồng, vì sự tồn sinh của cộng đồng họ dám hy sinh cả tính mạng của họ, nhưng nói đến lợi ích cá nhân thì họ cũng rất rành mạch và cụ thể. Lợi ích kinh tế đã luôn luôn đặt họ "trên luống cày của mình" để suy nghĩ. Nhưng đáng tiếc, có một thời gian dài người ta ngại nói đến lợi ích cá nhân, đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, tuyệt đối hóa lợi ích xã hội. Do chưa chú ý tới lợi ích của người lao động, phát hiện và điều tiết sai các loại lợi ích, dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển và đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng hoảng và đổ vỡ của nhiều nước XHCN. Trong đường lối đổi mới được vạch ra từ Đại hội VI, vấn đề lợi ích của người lao động được xem như là cốt lõi của mọi chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, làm sống động nền kinh tế hướng vào mục đích trực tiếp: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh dựa trên cơ sở tôn trọng lợi ích của người lao động, xem đó là động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội. Thực tế cho thấy, những thành tựu đạt được trong việc phát huy nhân tố con người phát triển kinh tế - xã hội là nhờ thay đổi cơ chế chính sách. Chính sách xây dựng phù hợp với cơ sở kinh tế là động lực mạnh mẽ để phát huy nhân tố con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có thông qua một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vì sự phát triển phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân, một chính sách xã hội lấy con người làm trọng tâm, nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã hội, mới có thể tích cực hóa được nhân tố con người. Đảng ta khẳng định: "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của nhân dân sẽ là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH" [8, tr. 13]. Sự nghiệp đổi mới phải dựa vào dân. Chính ý kiến, nguyện vọng, cách làm ăn của nhân dân đã góp phần hình thành đường lối đổi mới. Nhân dân cần cù và thông minh đã tự giác và tích cực thực hiện đường lối đổi mới, nên đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống, tạo ra những biến đổi tích cực, những kinh nghiệm hay, những nhân tố mới, giúp Đảng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên. Do đó, quan điểm lấy dân làm gốc cần quán triệt sâu sắc hơn nữa. Vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân thực hiện. Những tư tưởng quan liêu, xa rời dân, hách dịch, cửa quyền, ức hiếp dân... cần phải kiên quyết ngăn chặn kịp thời. Chính lòng yêu thương vô hạn, những tình cảm bao dung rộng lớn, sự tôn trọng và quan tâm tỉ mỉ đến con người, tin tưởng mãnh liệt vào phẩm giá và sức mạnh của quần chúng nhân dân của Hồ Chí Minh đã trở thành một sức mạnh to lớn trong việc phát huy nhân tố con người. Đảng ta luôn luôn khẳng định "đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Con người là vị trí trung tâm của đổi mới, "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì thế, để đổi mới thành công, Đảng ta luôn luôn động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế tích cực phát huy sức mạnh của mình. Phát huy nhân tố con người là mở rộng cơ hội cho mọi người đều có điều kiện phát huy tài năng tham gia vào các quá trình phát triển và hưởng thụ những thành quả phát triển; đồng thời có trách nhiệm góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hóa xã hội. 2.2.1.2. Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải có một hệ giải pháp đồng bộ, toàn diện Khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động, sá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVA~1.DOC
  • docBIA.DOC
  • docMUCLUC.DOC
Tài liệu liên quan