MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN . 1
MỤC LỤC . 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT . 5
MỞ ĐẦU. 6
1. Lý do chọn đề tài.6
2. Mục đích và nhiệm vụ .7
3. Giới hạn nghiên cứu .8
4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu.9
5. Đóng góp chủ yếu của đề tài .11
6. Cấu trúc của luận văn .11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCHBỀN VỮNG. 12
1.1. Một số khái niệm về du lịch, du lịch bền vững và những vấn đề liên quan .12
1.1.1. Khái niệm du lịch .12
1.1.2. Khái niệm khách du lịch ( Du Khách) .15
1.1.3. Tài nguyên du lịch.18
1.1.4. Các loại tài nguyên du lịch.20
1.1.5. Các loại hình du lịch.28
1.1.6. Phát triển bền vững.30
1.1.7. Phát triển du lịch bền vững .32
1.1.8. Các nguyên tắc phát triển du lịch bền vững.32
1.1.9. Tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững.34
1.2. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững .38
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở một số nước.38
1.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam.39
1.2.3. Phát triển du lịch bền vững ở vùng Đông Nam Bộ.39
1.2.4. Phát triển du lịch bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh.41
1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch .43
1.3.1. Dân cư và lao động.43
1.3.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế.43
1.3.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch .44
1.3.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật .44
1.3.5. Đô thị hóa .443
1.3.6. Điều kiện sống.44
1.3.7. Thời gian rỗi.44
1.3.8. Các nhân tố chính trị .44
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN CỦ CHI . 46
2.1. Khái quát về huyện Củ Chi.46
2.2. Tài nguyên và những điều kiện phát triển du lịch.47
2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.47
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn .53
2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.62
2.3. Đánh giá chung về tài nguyên và các điều kiện phát triển du lịch.69
2.3.1. Thuận lợi .69
2.3.2. Hạn chế.70
2.4. Thực trạng phát triển du lịch huyện Củ Chi .72
2.4.1. Vị trí du lịch của huyện Củ Chi trong nền kinh tế .72
2.4.2. Thực trạng phát triển du lịch .72
2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch ở huyện Củ Chi trên quan điểm
phát triển bền vững.87
2.5.1. Đánh giá chung.87
2.5.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch ở huyện Củ Chi theo hướng bềnvững.90
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN
CỦ CHI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG . 95
3.1. Những căn cứ xây dựng định hướng và giải pháp.95
3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh.95
3.1.2. Kế hoạch phát triển kinh tế huyện Củ Chi .96
3.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế Huyện Củ Chi.98
3.1.4. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch huyện Củ Chi.100
3.2. Định hướng phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững.103
3.2.1 Định hướng phát triển tổ chức lãnh thổ du lịch .104
3.2.2. Định hướng phát triển các thị trường khách du lịch .105
3.2.3. Định hướng phát triển các sản phẩm du lịch.107
3.3. Các giải pháp phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững.110
3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch bền vững về kinh tế .110
3.3.2. Nhóm phát triển du lịch bền vững về tài nguyên và môi trường .115
3.3.3. Nhóm phát triển du lịch bền vững về xã hội.1164
KẾT LUẬN . 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 120
PHỤ LỤC . 122
131 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển du lịch huyện Củ Chi theo hướng bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tích lịch sử - văn hóa trong đó có 7 di
tích lịch sử, 59 di tích văn hóa và 22 di tích cách mạng. Tiêu biểu nhất là hai khu di tích Bến
Dược và Bến Đình là hai điểm tham quan hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến du
lịch. Hàng năm cụm di tích lịch sử - văn hóa Củ Chi đón tiếp phục vụ hơn 1.000.000 lượt
khách du lịch trong và ngoài nước. Đây là sản phẩm du lịch đặc thù của huyện Củ Chi.
Bảng 2.2. Di tích lịch sử, văn hóa của huyện
Tên di tích Địa chỉ Quyết định công
nhận xếp hạng
Tổ chức, cá nhân là
chủ sở hữu hoặc
55
quản lý trực tiếp
Khu địa đạo Củ
Chi
Xã Phú Mỹ Hưng,
huyện Củ Chi
Số 54/VHQĐ ngày
29 tháng 4 năm
1979
Bộ Chỉ huy Quân
sự Thành phố Hồ
Chí Minh
Địa đạo Bến Đình Xã Nhuận Đức,
huyện Củ Chi
Số 101/2004/QĐ-
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm 2004
Bộ Chỉ huy Quân
sự Thành phố Hồ
Chí Minh
Đình Cây Sộp Ap Cây Sộp, xã
Tân An Hội, huyện
Củ Chi
Số 5513/QĐ-
UBND ngày 30
tháng 11 năm 2006
Ban Quản trị
Đình Xóm Huế Ấp Xóm Huế, xã
Tân An Hội, huyện
Củ Chi
Số 5511/QĐ-UBND
ngày 30 tháng 11
năm 2006
Ban Quản lý
Chùa Linh Sơn Ấp Phú Lợi, xã Phú
Hòa Đông, huyện
Củ Chi
Số 4347/QĐ-
UBND ngày 13
tháng 10 năm 2008
Ban Trị sự
Nguồn UBND Huyện Củ Chi
Nhìn chung mật độ di tích của huyện rất ít và thưa thớt, chủ yếu tập trung ở các xã
phía Bắc của huyện, còn lại các xã phía Nam hầu như không hoặc có chỉ là các di tích mang
tính chất địa phương.
Về chất lượng di tích: Mặc dù được quan tâm bảo tồn, nhưng cho đến nay các di tích
trên địa bàn huyện có nguy cơ xuống cấp do sự tác động thời gian, chiến tranh và ý thức bảo
tồn cũng như kinh phí còn nhiều hạn chế. Một số không được đầu tư để bảo tồn trùng tu.
Khả năng khai thác du lịch: với số lượng di tích lịch sử ít nhưng giá trị lịch sử cao là
những nét đặc trưng và lợi thế của huyện Củ Chi trong phát triển du lịch. Hệ thống địa đạo
Củ Chi nổi tiếng qua hai cuộc kháng chiến được nhân dân trong nước và thế giới biết đến là
một điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch huyện, cũng như thu hút du khách gần xa tham
quan tìm hiểu để biết thêm về những nét hào hùng của quân và dân Củ Chi nói riêng và
người Việt Nam nói chung.
Một số di tích lịch sử - văn hóa nổi bật có khả năng khai thác phát triển du lịch:
* Di tích lịch sử địa đạo Bến Dược: Di tích địa đạo Bến Dược còn gọi là Khu di tích
lịch sử văn hóa địa đạo Củ Chi, thuộc địa bàn ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu di tích nằm ở tận cùng về phía Bắc của huyện Củ Chi,
56
Tây Bắc giáp với sông Sài Gòn, Đông Bắc giáp ấp Phú Lợi, Tây Nam giáp ấp Lộc Thuận,
Lộc Hưng (Trảng Bàng) và Đông Nam giáp ấp Phú Hòa, cách Trung tâm Thành phố Hồ Chí
Minh khoảng 70km về hướng Tây Bắc.
Năm 1961, địa đạo chỉ là những đường hầm ngầm sâu trong lòng đất, kéo dài vài chục
thước cốt tránh địch hơn là đối phó. Năm 1962, khi cuộc chiến chống đế quốc Mỹ bước
sang giai đoạn quyết liệt, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc này là bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia
Định chỉ thị thành lập Ban chỉ đạo xây căn cứ và công trình lấy ngày thành lập Đảng (3
tháng 2) khởi công. Địa đạo được xây dựng theo kinh nghiệm từ trước, cứ khoảng 16m tạo
một giếng đường kính 0,6m, sâu 3m khi giáp mí thì lấp miệng. Từ đáy giếng dùng cuốc
chim khoét sâu tạo địa đạo có chiều ngang 50cm, cao 80cm. Địa đạo gồm các ngóc ngách
theo thế vừa chiến đấu, vừa tiếp nối từ hầm này sang hầm khác thành một thế liên hoàn
được tính toán hết sức khoa học. Do có nhiều ngỏ ngách, nhiều đoạn giao nhau hoặc song
song nên địa đạo kéo dài trên 100 cây số, có đoạn hẹp, rộng có khi phải trườn vào và có
chốt an toàn phòng khi địch sử dụng hợi cay hoặc bơm nước độc xuống địa đạo Miệng
địa đạo là một cấu trúc đặc biệt, rất tinh vi thường lẫn lộn trong bụi rậm, gò mối, nắp hầm
vừa vặn một người chui, lỗ thông hơi tạo đường xiên núp trong các bụi rậm khó phát hiện.
Điểm nổi bật của khu địa đạo là các hầm đều âm trong lòng đất. Những căn hầm cho văn
phòng, y tế, cơ yếu, hậu cần, văn nghệ, bếp hoàng cầm
Ngày 29/4/1979 địa đạo Phú Hiệp, Phú Mỹ Hưng được Bộ Văn hóa – Thông tin đặc
cách cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 54/VH-
QĐ.
*Di tích lịch sử địa đạo Bến Đình: Khu di tích lịch sử địa đạo Bến Đình thuộc ấp Bến
Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, nằm về phía Bắc thị trấn Củ Chi, giáp với sông Sài
Gòn và tỉnh lộ 15, cách Trung tâm thành phố 55km. Phía Bắc giáp với xã An Nhơn Tây,
phía Nam giáp xã Phú Hòa Đông, phía Tây giáp xã Phạm Văn Cội và phía Đông giáp sông
Sài Gòn.
Trong cuộc kháng chiến, do địch tập trung đánh phá càn quét địa bàn Củ Chi rất gay
gắt nên căn cứ Huyện ủy không cố định, phải di chuyển nhiều nơi. Từ năm 1964 - 1967,
Nhuận Đức là một trong 6 xã giải phóng phía bắc có hệ thống địa đạo hoàn chỉnh liên hoàn
giữa các ấp, Bến Đình – xã Nhuận Đức có địa thế rất thuận lợi với khu rừng trải dài trên
hàng trăm hecta, lại là vùng đồi cao rắn chắc tiếp giáp sông Sài Gòn, khi có địch càn quét có
57
thể di chuyển lực lượng về phía sông trú lui an toàn. Từ đó địa đạo Bến Đình chính thức trở
thành khu căn cứ ổn định, vững chắc và an toàn của huyện ủy.
Khu địa đạo căn cứ huyện ủy bao gồm các hạng mục công trình : Hầm bảo vệ, Hầm
C25, Hầm văn công, Hầm y tế, Hầm lương thực, Hầm bí thư huyện ủy, hầm bếp Hoàng
Cầm
Ngày 15/2/2004 Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin đã ký Quyết định số 101/2004/QĐ-
BVHTT xếp hạng Di tích quốc gia cho căn cứ địa đạo Bến Đình.
* Đình Cây Sộp: Đình Cây Sộp tọa lạc tại ấp Cây Sộp, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi.
Từ chợ Bến Thành theo đường Cách mạng tháng 8, Quốc lộ 22 đến ngã năm thị trấn Củ Chi
– tại chân cầu vượt rẽ phải theo đường Nguyễn Văn Khạ vào khoảng 5km rẻ trái là đến di
tích.
Đình Cây Sộp (còn gọi là đình Vĩnh An Tây) được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ
XIX của thôn Vĩnh An Tây, huyện Bình Long, Phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đình thờ Thần
Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị Thần bảo hộ của làng). Ngày 29 tháng 11 năm 1852 âm lịch,
đình được Vua Tự Đức ban tặng Sắc phong. Đình với tư cách là một thiết chế văn hóa cơ
sở, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của nhân dân trong vùng. Tuy bị chiến tranh tàn
phá, ngôi đình không còn nguyên trạng như xưa, nhưng đình Cây Sộp vẫn giữ được giá trị
văn hóa phi vật thể. Vào ngày rằm tháng 2 âm lịch hàng năm, đình tổ chức lễ hội Kỳ yên
nhằm tưởng nhớ những người có công với nước, ngoài ra lễ hội còn đáp ứng nhu cầu đời
sống tâm linh của nhân dân.
Ngày 30/11/2006 Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 5513/QĐ-UBND
xếp hạng đình Cây Sộp là một di tích lịch sử cấp thành phố.
* Đình Xóm Huế:Đình Xóm Huế tọa lạc tại ấp Xóm Huế, xã Tân An Hội, huyện Củ
Chi. Đình có vị trí cách trung tâm thành phố 30km, theo Quốc lộ 22 từ Sài Gòn lên Củ Chi
đến km thứ 19 khu vực ấp Xóm Huế, rẻ trái vào đường Quốc Thạnh, hơn 1km là đến di tích.
Đình Xóm Huế được xây dựng vào năm 1841, mái lợp lá, vách gỗ. Đình thờ Thần
Thành Hoàng Bổn Cảnh (Vị thần bảo hộ của làng). Đình tọa lạc trên một gò cao, hình chữ
nhật, quay về hướng Đông. Đình xây theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, có ba nóc nối liền nhau
hình chữ tam. Phía trước là Tiền điện và là nơi tiếp khách mới xây dựng năm 1990. Bờ mái
trên nhà Tiền điện trang trí lưỡng Long chầy Nhật An Hội. Hai bên có 2 rồng chầu ra phía
Nam Bắc. Dưới bờ nóc mái là chữ Đình Tân An Hội. Bốn cột bê tông nhà Tiền điện được
khảm sành sứ. Hai cột gian giữa có 2 rồng chầu vào cuốn thư “Thần Ân Phản Tế”. Ngoài
58
hàng ba, hai bên vách đối diện nhau có thờ bài vị, một bên là Thủy Long Thần Nữ, một bên
là Mộc Trụ Thọ Thần.
Ngày 30/11/2006, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số
5511/QĐ-UBND xếp hạng Đình Xóm Huế là một di tích kiến trúc nghệ thuật.
* Chùa Linh Sơn: Chùa Linh Sơn tọa lạc tại ấp Phú Lợi, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ
Chi. Từ trung tâm thành phố theo đường Quốc lộ 22 đến huyện Hóc Môn, theo đường tỉnh
lộ 15 qua cầu Xáng đến địa phận Củ Chi, xuôi về hướng bắc qua ngã tư Tân Quy khoảng
3km sẽ gặp ngôi chùa Linh Sơn Cổ Tự.
Chùa được khởi sự xây dựng vào năm 1806, khi Hòa thượng Bửu Tịnh Phổ Tế, đời 35
thuộc dòng Lâm tế trên đường chu du hành đạo dừng chân tại khu rừng cây cao bóng mát
dựng lên một am nhỏ, mái lợp tranh, xung quanh xây tường đất, thỉnh phật từ nơi khác về
thờ tự. (Đó là khu rừng chùa ấp Phú Lợi ngày nay)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhà chùa là nơi đùm bọc, che
chở cho nhiều thanh niên chống không đi lính cho giặc, giúp đỡ cho nhiều cán bộ cách
mạng mỗi khi ghé qua chùa trên đường đi công tác. Trong những năm kháng chiến chống
Mỹ, chùa là cơ sở cách mạng, nơi ẩn náu một số cán bộ giao liên, công tác Thành. Chùa
Linh Sơn còn lưu lại những giá trị kiến trúc nghệ thuật gồm: Cột gỗ, kèo, trính, rui, mè
Trong chùa có nhiều hiện vật bằng gỗ: tượng, bao lam, liễng, ghế thờ, trống, mõđược
điêu khắc chạm lộng công phu có giá trị nghệ thuật độc đáo, mang tính hiện thực và đã được
dân gian hóa.
Chùa Linh Sơn được Ủy ban nhân dân thành phố ký Quyết định số 4347/QĐ-UBND
ngày 13/10/2008 công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
2.2.2.2. Lễ hội
Do lịch sử, dân tộc và tôn giáo nên lễ hội tại Củ Chi cũng khá đa dạng, chủ yếu diễn ra
vào dịp mùa xuân. Tuy nhiên, tình hình lễ hội chưa đồng nhất, còn mang tính chất tự phát,
chưa được đầu tư nhiều nên chưa xây dựng nên nét đặc sắc vốn có của nó.
Các ngày lễ được tổ chức ở huyện Củ Chi:
*Lễ Hội - Hội chợ Sinh Vật Cảnh nông nghiệp và sản phẩm làng nghề: Lễ hội này do
HTX nuôi trồng thủy sản Hà Quang phối hợp cùng Hội Sinh Vật Cảnh Thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức tại khu làng nghề liên hiệp, xã Phú Hòa Đông – Trung An, huyện Củ
Chi. Ngoài trưng bày, giao lưu các sản phẩm nông nghiệp và làng nghề, còn có hội thi các
sản phẩm về hoa lan, kiểng bonsai, kiểng thú, tiểu cảnh, kiểng cổ, cá cảnh, tiểu cảnh sân
59
vườn 41 cơ sở, đơn vị trong và ngoài huyện và một số tỉnh tham gia lễ hội lần này. Các
buổi tọa đàm về tiềm năng phát triển nghề sinh vật cảnh của TPHCM và huyện Củ Chi cũng
như hội thảo với chủ đề về nâng cao tay nghề trồng hoa, cây kiểng, cá cảnh cũng đã diễn
ra tại đây.
*Lễ Hội đền Bến Dược: diễn ra vào ngày 19/12 với nhiều loại hình đặc sắc mang đậm
bản sắc văn hóa của dân tộc từ: ca múa, đờn ca tài tử, cải lương, hát bội, đến nhiều loại hình
vui chơi bổ ích khác. Đối với nhân dân địa phương thì những ngày này đã thực sự trở thành
một ngày hội truyền thống, vì thế mà có những đêm Khu di tích đã đón tiếp gần 50.000
khán giả đến tham gia hoạt động, vui chơi. Đặc biệt vào ngày lễ lớn này, Hội thao đền Bến
Dược do chính khu di tích đăng cai tổ chức luôn được mọi người quan tâm, tham gia ủng hộ
vì nó mang tính cộng đồng, tập thể cao. Lễ Hội được tổ chức với sự kêu gọi tham gia của
các tỉnh bạn lân cận như: Tây Ninh, Long An, Bình Dương với nhiều môn thi đấu như cầu
lông, bóng chuyền, bơi lội, đua thuyềnhội thao trong khuôn khổ lễ hội đã thu hút được rất
nhiều đơn vị trong địa bàn và các tỉnh bạn trực tiếp tham gia ủng hộ. Kết quả này thể hiện
được tinh thần giao lưu học tập lẫn nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa các đơn vị bạn
trong và ngoài tỉnh.
*Lễ cầu siêu các anh hùng liệt sĩ: hằng năm trước ngày 27/7 tại đền Bến Dược lại diễn
ra lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ. Nghi lễ được ban Nghi lễ GHPGVN TP.HCM cùng
BTS GHPGVN huyện Củ Chi các chư tăng ni, các tu viện trên địa bàn huyện cùng hơn 200
quý Phật tử tham gia cầu nguyện. Đây cũng là dịp các thân nhân và các vị lãnh đạo cả nước
cũng về đây thắp hương để tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để
giành độc lập cho đất nước hôm nay.
*Lễ hội bắn pháo hoa diễn ra hằng năm vào đêm giao thừa tại đền Bến Dược, đây là
hoạt động mừng xuân nhằm phục vụ cho nhân dân vùng ngoại thành, giúp bà con có một
năm mới vui tươi. Vì điều kiện cách xa trung tâm nên thành phố đã có những chương trình
chào đón năm mới ở đây, tạo điều kiện để người dân có những hoạt động ý nghĩa trong dịp
Tết.
2.2.2.3. Các loại tài nguyên nhân văn khác
Các làng nghề:
Từ xa xưa người dân huyện Củ Chi đến vùng đất này để lập nghiệp, họ đã liên tiếp
chống chọi với những khó khăn của thiên nhiên, nạn nhân của sự áp bức bóc lột tàn bạo. Từ
trong gian khó đó đã sinh ra những con người hào hùng, gian khổ, cần cù chịu khó. Luôn
60
gắn chặt cuộc sống của mình với mảnh đất quê hương, luôn yêu thương tương trợ và giúp
đỡ nhau vượt qua những khó khăn trong lịch sử. Trong quá trình phát triển đó, không thể
không nói đến những nét văn hóa, kinh tế của huyện với những ngành nghề truyền thống có
từ xa xưa và được lưu giữ cho đến ngày nay. Với những sản phẩm mang đậm bản sắc và dấu
ấn riêng của người dân Củ Chi.
Hiện nay trên địa bàn huyện có những làng nghề truyền thống như:
+ Làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông: Toàn xã có hơn 1.400 lò bánh tráng thủ công,
44 lò tráng bánh máy, với hơn 50% số hộ trong xã, hơn 5.000 lao động tại chỗ tham gia làm
nghề bánh tráng. Mỗi ngày làng nghề bánh tráng Phú Hòa Ðông sản xuất hơn 38 tấn bánh
thành phẩm (trong đó 80% sản lượng phục vụ xuất khẩu). Các dự án vệ sinh môi trường, tạo
nguồn nguyên liệu tại chỗ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại đã được xây dựng triển
khai để làng nghề phát triển theo hướng đi bền vững.
Bánh tráng Củ Chi vừa mỏng lại dẻo, phù hợp để cuốn thịt với rau sống, hay cuốn chả
giò, ngoài những bí quyết đặc biệt về cách chọn gạo và cách làm thì cũng giống như Tây
Ninh ở Củ Chi cũng có bán tráng phơi sương. Loại bánh này chuyên dùng để cuốn với thịt
heo hoặc thịt bò luộc kèm với rau rừng. Trong dịp Tết đối với người dân địa phương thì
món bánh tráng cuốn thịt nhà nào cũng có. Và đây cũng được xem là một nét văn hóa ẩm
thực truyền thống của người dân huyện Củ Chi.
Ngày nay, bánh tráng Củ Chi không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn
xuất khẩu sang các nước như: Mỹ, Úc, Nhật Bản, Canada,Bình quân mỗi tháng làng nghề
sản xuất khoảng 1000 tấn bánh tráng các loại.
+ Làng nghề đan lát xã Thái Mỹ: xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi – Tp Hồ Chí Minh từ lâu
đã nổi tiếng với làng nghề đan lát các sản phẩm mây tre lá truyền thống với các sản phẩm
như: giỏ, rổ, chậu hoa, thúng,hầu hết được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, trên địa
bàn xã có 5 cơ sở mây tre lá hoạt động, thu hút hàng trăm công nhân làm việc tại chỗ.
+ Làng nghề mành trúc Tân Thông Hội: là nơi sản xuất mành trúc hàng đầu cả nước.
Với kinh nghiệm làm mành trúc hơn 30 năm, sản phẩm của làng nghề đã được thị trường
trong nước và ngoài nước biết đến. Do điều kiện tự nhiên của huyện Củ Chi có rất nhiều tre,
trúc, rất thuận lợi cho việc sản xuất các mặt hàng thủ công như: mây, tre, lá. Một mành trúc
tùy theo yêu cầu khách hàng mà có số lượng dây khác nhau, thông thường là 100 dây với
chiều dài 2m, kế tiếp đó là xỏ kẽm, giựt mành. Những việc đó đòi hỏi người thợ phải làm
đều tay để đảm bảo sản phẩm không bị lỗi.
61
+ Làng nghề sinh vật cảnh: đây là dự án được Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà
Quang thành lập với nhiều mô hình đa dạng như: trồng hoa lan, cây kiểng và nuôi cá cảnh
kết hợp với du lịch nghỉ dưỡng sinh thái. Đây sẽ là nơi cung cấp cây con giống, tiêu thụ sản
phẩm cho xã viên, thúc đẩy làng nghề phát triển và nếu phù hợp có thể phát triển lên 110 ha
hay 500 ha. Với tổng vốn đầu tư là 20 tỷ, hiện nay đã hình thành một phần đường nội bộ
trong khuôn viên làng nghề trong phần diện tích 5 ha. Các sản phẩm hàng hóa của làng nghề
đã tham gia thị trường như: hoa lan, cá cảnh ( cá chép Nhật, cá dĩa,), cây kiểng.
Đặc sản địa phương, món ăn dân tộc:
+ Bò tơ Củ Chi: thịt bò ở đây được lựa chọn rất kỹ lưỡng từ những con bò tơ đủ độ
tuổi nhất định. Thịt bò ở đây mềm, tươi ngon. Sau đó cắt thành những khoanh tròn. Khi thịt
chín rất chắc, thơm và ngọt. Thông thường phổ biến nhất là món bò luộc, được cuộn với rau
rừng kèm với bánh tráng ( cũng là đặc sản huyện Củ Chi). Ngoài ra, thịt bò tơ còn được chế
biến thành nhiều món khác như: bò nhúng hèm, bò nướng vĩ, lòng bò hấp gừng, bò tơ
nướng lụi,.. Và không thể không nói đến món cháo dựng bò, được nấu bằng gân bò, móng
bò với đậu phộng, đậu xanh, đậu trắng, khoai, củ mì. Khi cháo sôi thả rau má, mồng tơi vào,
ăn rất ngọt và mát. Du khách khi đến Củ Chi hoặc chỉ đi ngang qua cũng không thể nào bỏ
qua dịp thưởng thức món đặc sản này. Vào dịp cuối tuần, người dân thành phố muốn thay
đổi không khí cũng thường lái xe đến đây để thưởng thức món bò tơ đặc sản ở đây.
+ Khoai mì: là món ăn dân dã được xem gắn liền với địa danh Củ Chi và người dân Củ
Chi. Do điều kiện ngày xưa nghèo khó, người dân Củ Chi gắn liền với lương thực chính là
củ mì nên người dân đã chế biến ra nhiều món ăn khác nhau từ khoai mì. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho cây khoai mì phát triển, năng suất cao. Từ lâu khoai mì đã trở thành
món ăn quen thuộc của người dân Củ Chi. Khoai mì có thể chế biến thành nhiều món ăn
khác nhau nhưng phổ biến nhất hiện nay có lẻ là món khoai mì hấp nước cốt dừa. Với món
này du khách có thể dễ dàng tìm thấy khi đi du lịch Củ Chi.
+ Món ngon từ dế: nói đến các món đặc sản ở Củ Chi không ai không biết đến một
món ăn côn trùng nổi tiếng ở đây. Đó là các món ăn được chế biến từ dế. Trại dế Thanh
Tùng nằm ở ấp Bến Đò 2, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi với diện tích rộng hơn 1000 m2.
Đến đây ngoài được tham quan trang trại, du khách còn được thưởng thức các đặc sản từ dế
như: dế chiên giòn, dế kho tiêu, dế lăn bột, dê cơm chiên nước mắm,Ngoài ra còn có các
món được chế biến từ các loại côn trùng khác như: bò cạp, rết, đuông dừa Các món ăn
được ăn kèm với các loại rau sông, rau rừng làm tăng thêm hương vị hấp dẫn. Vậy du khách
62
không cần đi đến Thái Lan hay Campuchia để thưởng thức các món đặc sản côn trùng mà
ngay tại Củ Chi du khách cũng có thể thưởng thức những món ăn độc đáo và lạ này.
2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Trong những năm vừa qua, cơ sở hạ tầng của huyện ngày càng được cải thiện, giao
thông được nâng cấp, sửa mới. Nhiều tuyến đường được mở rộng và trải nhựa. Cơ sở vật
chất được đầu tư khá tốt nhằm phục vụ cho ngành du lịch nói riêng và phát triển kinh tế
huyện nói chung.
2.2.3.1. Hệ thống giao thông vận tải
Trên địa bàn huyện chỉ có loại hình giao thông đường bộ, đường thủy ( các loại hình
khác hầu như không có).
Về giao thông đường bộ: tổng chiều dài mạng lưới đường trên địa bàn huyện Củ Chi là
594942m (trên 88 tuyến- không kể các đường nhỏ và đường trong khu ở có lộ giới nhỏ hơn
12m). Trong đó có 22 tuyến đường chính và đường liên khu vực hiện hữu là đường Quốc lộ
22, Tỉnh lộ 2, Tỉnh lộ 6, Tỉnh lộ 7, Tỉnh lộ 8, Tỉnh lộ 9, Tỉnh lộ 15, Bến Than, Tam Tân, Hồ
Văn Tắng, Nguyễn Văn Khạ, Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Thị Rành, Phạm Văn Cội, An
Nhơn Tây, Trung Lập, Nguyễn Thị Nê, Nguyễn Thị Lắng, Phú Thuận, Bến Súc, Võ Văn
Bích,Nhuận Đức, vừa sử dụng chức năng đối ngoại, vừa sử dụng chức năng đối nội với tổng
chiều dài là 219233 m. Các tuyến đường có chức năng đối ngoại cụ thể như sau:
+ Quốc lộ 22: là con đường nối liền Tp Hồ CHí Minh đến cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây
Ninh, dài 58,5 km. Đây là con đường nằm trong dự án đường xuyên Á giữa Tp Hồ Chí
Minh và Phnom Penh. Tuyến đường này đi qua các huyện Hóc Môn, Củ chi ( Tp Hồ Chí
Minh), Trảng Bàng, Gò Dầu ( tỉnh Tây Ninh), và kết thúc tại cửa khẩu Mộc Bài , xã Lợi
Thuận, huyện Bến Cầu ( tỉnh Tây Ninh). Thông qua tuyến đường này có thể kết nối các
tuyến điểm du lịch của huyện Củ Chi với các tỉnh bạn và nước láng giềng Campuchia. Đây
được xem là con đường huyết mạch hứa hẹn tiềm năng du lịch lớn của huyện.
Ngoài ra huyện còn có các tuyến đường nối liền với các tỉnh và các huyện lân cận như:
- Tỉnh lộ 2: với chiều dài 2.0356 m, chiều rộng lòng đường 12 m, lộ giới 40m.
- Tỉnh lộ 6: với chiều dài 2.644 m, chiều rộng lòng đường 10 m lộ giới 30 m.
- Tỉnh lộ 7: chiều dài tổng cộng 22.600 m, chiều rộng lòng đường 18m, lộ giới 40 m.
- Tỉnh lộ 15: chiều dài 33.969 m, chiều rộng lòng đường từ 14 – 17 m, lộ giới 40 m.
- Đường Tam Tân: chiều dài 17.644m, chiều rộng lòng đường từ 7 – 19,5 m, lộ giới 40
m.
63
Về cầu: Trên địa bàn huyện có 50 cầu đi qua các sông, kênh, rạch trên các tuyến
đường chính của huyện do Khu quản lý giao thông số 3 quản lý, bao gồm nhiều loại: bê
tông dự ứng lực, bê tông liên hợp, bê tông cốt thép,với tổng chiều dài khoảng 1.630m
Về giao thông đường thủy: huyện Củ Chi có nhiều hệ thống sông ngòi, kênh rạch.
Trong đó một số tuyến sông chính có chức năng giao thông đường thủy như: sông Sài Gòn,
kênh Xáng, kênh Quyết Thắng, kênh Đức Lập, Ngoài chức năng giao thông đường thủy
thì sông Sài Gòn Gòn là tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái ven sông, phát triển du lịch
đường thủy từ trung tâm thành phố đến các huyện ngoại thành.
2.2.3.2. Hệ thống cung cấp điện
Hiện huyện Củ Chi được cấp điện từ lưới điện chung của Thành phố Hồ Chí Minh,
nhận điện từ các trạm 110/15 - 22KV: Trạm Củ Chi 40MVA+63MVA, trạm Phú Hòa Đông
1×40MVA, trạm Tân Hiệp 2×18MVA
Lưới điện: trên địa bàn huyện có các đường dây cao thế 110KV, 220KV, 500KV.
- Đường dây 110KV đến các trạm: Củ Chi, Phú Hòa Đông, Bến Cát, Trảng Bàng, Gò
Đậu có chiều dài trên địa bàn huyện khoảng 64,52km.
- Đường dây 220KV từ trạm Tân Định (Bình Dương) đến trạm Trảng Bàng (Tây Ninh)
có chiều dài qua địa bàn huyện Củ Chi khoảng 15,2km.
- Đường dây 500KV từ trạm Phú Lâm đến các trạm Tân Định, Pleiku, đoạn qua địa
bàn huyện có chiều dài khoảng 24 km.
Lưới trung thế 15 – 22 KV: có chiều dài: 459,16km, trong đó:
- Đường dây nổi: 454,93km (chiếm 99,07%).
- Cáp ngầm: 4,23km (chiếm 0,93% ).
Lưới hạ thế: có chiều dài: 1121,95km; trong đó đường dây trên không có chiều dài:
1120,77 km (chiếm 99,9%), cáp ngầm có chiều dài: 1,18km (chiếm 0,1%).
Trạm biến thế 15 – 22/0.4KV: có 1.530 trạm, 2.548 máy với tổng công suất đạt
293.163,5KVA, trong đó trạm có 2 cấp điện áp (22 – 15KV) có 898 máy với tổng công suất
đặt 54.750KVA.
Lưới trung thế hiện có trên địa bàn huyện, phần mới cải tạo và xây dựng, được thiết kế
xây dựng theo tiêu chuẩn 22KV vận hành 15KV, kết cấu dạng mạch vòng kín vận hành hở,
đảm bảo hổ trợ nhau khi có sự cố. Tiết diện đường trục lớn (cáp ngầm dùng cáp 3M240,
đường dây trên không 3ACV240) nên vận hành tốt ít sự cố, tổn thất điện áp trong mức kỹ
64
thuật cho phép. Tuy nhiên đường dây trên không chiếm phần lớn nên kém an toàn và mỹ
quan đô thị.
Như vậy theo quy hoạch chung của huyện Củ Chi được UBND TP phê duyệt năm
1998 đến nay lưới điện trên địa bàn huyện đã phát triển đúng hướng, những công trình đã
thực hiện được:
Cải tạo nâng công suất các trạm 110/15 – 22KV Củ Chi, Phú Hòa Đông, xây dựng mới
đường dây 500KV Phú Lâm – Nhà Bè, Phú Lâm – Pleiku (mạch 2).
Cải tạo nâng tiết diện lưới điện trung hạ thế hiện hữu, và xây dựng mới lưới điện ở khu
dân cư mới phát triển.
2.2.3.3. Hệ thống bưu chính, viễn thông
Cùng với xu thế phát triển của địa phương để đáp ứng nhu cầu của người dân và của
du khách, hệ thống bưu chính viễn thông của huyện Củ Chi đã có những chương trình ứng
dụng cho các dịch vụ bưu chính như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bưu phẩm, bổ sung các
thiết bị cơ sở vật chất, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ đổi
mới và nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Bên cạnh đó với sự tham gia của các tập đoàn bưu chính viễn thông như: Công ty
Viễn thông Quân Đội, công ty Viễn thông Điện lực, công ty dịch vụ Bưu chính viễn thông
Sài Gòn, đã làm cho giá dịch vụ rẻ hơn và chất lượng dịch vụ tốt hơn.
Theo số liệu của Chi nhánh Điện thoại Củ Chi thì hiện nay trên toàn huyện có 9 đài,
trạm là: Trạm Củ Chi, Tân Phú Trung, Phước Thạnh, Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây,
Phú Mỹ Hưng, Phạm Văn Cội, Tân Trung và trạm Bình Mỹ. Các trạm trên được phân bố
nhằm đảm bảo 100% xã trên địa bàn đều có mạng lưới thông tin liên lạc.
Năm 2003 huyện Củ Chi trung bình 8,2 máy /100 dân. Hệ thống điện thoại di động
được phủ sóng tất cả các trung tâm thị trấn, thị tứ và các tuyến đường giao thông đi qua.
Đây cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch huyện phát triển.
2.2.3.4. Hệ thống cấp, thoát nước
Cấp nước:
Tại Bến Than - huyện Củ Chi hiện có một trạm bơm cấp nước thô lấy nước từ sông
Sài Gòn về cấp cho nhà máy nước Tân Hiệp Hóc Môn công suất Q = 300.000 m3/ngày, với
tuyến ống cấp nước thô 1500 mm đi trên đường Bến Than, hành lang bảo vệ tuyến ống cấp
nước 18 m đến 24 m.
Tình hình chung:
65
Hiện tại trên địa bàn huyện Củ Chi có một số khu vực đô thị được cấp nước bằng hệ
thống tập trung có quy mô nhỏ, bao gồm 5 hệ thống cấp nước tập trung, do công ty Đầu tư
khai thác nước sông Sài Gòn trước nay làm chủ đầu tư, sau khi xây dựng xong đã bàn giao
cho công ty Dịch vụ Công ích huyện quản lý và khai thác. Số các thị trấn không có hệ thống
cấp nước: 15 khu vực thị tứ, trung tâm không có hệ thống cấp nước.
Cấp nước cho các khu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2014_11_06_8061015401_1422_1871589.pdf