MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU . 1
Phần 1: Khung lý thuyết về thị trường bất động sản và thị trường tín dụng bất động sản. . 4
1.1 Tổng quan thị trường bất động sản. . 4
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của thị trường bất động sản . 4
1.1.1.1 Khái niệm về bất động sản vàhàng hóa bất động sản . 4
1.1.1.2 Đặc trưng của hàng hóa bất động sản . 4
1.1.1.3 Khái niệm thị trường bất động sản . 5
1.1.2 Đặc điểm của thị trường bất động sản . 6
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bất động sản . 7
1.1.4 Rủi ro thuộc thị trường bất động sản . 10
1.2 Tổng quan về thị trường tín dụng bất động sản . 11
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản. 11
1.2.1.1 Khái niệm . 11
1.2.1.2 Đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản . 11
1.2.2 Quản trị rủi ro thuộc các tổ chức tín dụng cho vay bất động sản . 12
1.2.3 Sản phẩm và xu hướngphát triển của thị trường tín dụng bất động sản . 13
1.3 Tín dụng bất động sản tại Mỹ, Singapore và bài học kinh nghiệm . 16
1.3.1 Tín dụng bất động sản tại Mỹ . 17
1.3.1.1 Một số khái niệm . 17
1.3.1.2 Quá trình phát triển, nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả của khủng
hoảng tín dụng bất động sản tại Mỹ . 18
1.3.2 Tín dụng bất động sản tại Singapore . 23
1.3.3 Các bài học kinh nghiệm từ khủng hoảng tíndụng bất động sản Mỹ. 25
Phần 2: Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản tại Việt Nam. 27
2.1 Thực trạng của thị trường bất động sản của Việt Nam . 27
2.1.1 Thực trạng phát triển của thị trường Bất động sản tại Việt Nam. 27
2.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2002 . 27
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay . 30
2.1.2 Đánh giá chung về thị trường bất động sản Việt Nam. . 40
2.2 Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản của Việt Nam . 42
2.2.1 Hành lang pháp lý đối với thị trường tín dụng bất độngsản ở Việt Nam . 42
2.2.2 Các sản phẩm tín dụng được tung ra trên thị trường Việt Nam. . 43
2.2.2.1 Các sản phẩm qua kênh truyền thống . 43
2.2.2.2 Các sản phẩm mới . 50
2.2.3 Tín dụng bất động sản tại Việt Nam, những tồn tại và nguyên nhân. 52
2.2.4 Tác động của bùng nổ tín dụng đến môi trường tài chính tiền tệ . 56
Phần 3: Các giải pháp phát triển thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản . 59
3.1 Nhu cầu bất động sản . 59
3.2 Nhu cầu tín dụng của thị trường bất động sản . 63
3.3 Một số giải pháp phát triển thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản . 64
3.3.1 Các giải pháp với kênh tín dụng qua Ngân hàng . 64
3.3.2 Cho phép hình thành thị trường thế chấp cầm cố thứ cấp . 67
3.3.3 Chứng khoán hóa bất động sản . 69
3.3.3.1 Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố . 70
3.3.3.2 Trái phiếu công trình . 72
3.3.3.3 Chứng chỉ bất động sản . 73
3.3.4 Phát hành quyền mua chọn mua đối với kênh huy động truyền thống từ
người mua và nhà đầu tư . 75
3.3.5 Các giải pháp về phía nhà nước . 76
3.3.6 Các giải pháp khác. 77
Kết Luận . 80
Tài liệu Tham khảo
Phụ lục
88 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3070 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển hiệu quả thị trường tín dụng bất động sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựng khu đô
thị mới
Xây dựng hạ tầng
khu chê xuất - khu
công nghiệp
Xây dựng
Khách sạn du lịch
Xây dựng văn
phòng căn hộ
TRIỆU USD
(Nguồn Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
36
Thị trường bất động sản du lịch hoạt động sôi nổi không kém gì thị trường
nhà đất và căn hộ. Theo thống kê của Công ty CB Richard Ellis, trong giai đoạn
này, tại Hà Nội có 5 dự án xây dựng khách sạn 5 sao, TP.HCM có 11 dự án
khách sạn 5 sao với khoảng 3.611 phòng nhưng tất cả các dự án này đều không
thể hoàn thành vào năm 2008. Nguyên nhân của việc thiếu nguồn cung khách sạn
trong khi cầu ngày càng tăng là do các chủ đầu tư khó khăn trong việc tìm địa
điểm để xây khách sạn lớn. Trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
hiện nay, những khu đất lớn, đủ tiêu chuẩn xây dựng khách sạn lớn rất hiếm và
nếu có thì việc đền bù giải tỏa, thủ tục xây dựng cũng mất rất nhiều thời gian và
chi phí. Chính vì vậy, việc mua bán, sang nhượng lại các khách sạn trở thành
mảng hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Giai đoạn này hàng loạt
resort được triển khai và cấp phép mới, riêng Đà Nẳng theo một thống kê của
Công ty CB Richard Ellis thì năm 2007 có hơn 10 dự án resort, khách sạn, sân
golf và villa cao cấp mà trong đó phần lớn là co sự góp mặt của các nhà đầu tư
nước ngoài.
c) Giai đoạn từ cuối tháng 2 năm 2008 đến nay:
Đây là giai đoạn thị trường bất động sản Việt Nam bị đóng băng và đang
có sự sụt giảm ở cả ba phương diện là giá cả, giao dịch và nguồn vốn. Vào đầu
Quý 2/2008 vừa qua lượng rao bán rất lớn nhưng luôn vắng bóng người mua,
lượng giao dịch đã giảm khá lớn. Mức giao dịch giảm tới khoảng 85% - 90% so
với thời điểm Quý 4/2007 hay khoảng 50% so với Quý 1/2008. Tính đến thời
điểm hiện tại, giá của nhiều sản phẩm bất động sản tuỳ theo cấp độ, vị trí, mật độ
xây dựng, vật liệu xây dựng, tiến độ triển khai dự án, hình ảnh và uy tín chủ đầu
tư, phương thức kinh doanh tiếp thị khác nhau mà đã giảm từ 20% - 50% so với
cuối năm 2007. Đặc biệt giá đã giảm mạnh đối với những căn hộ cao cấp, đất
nền ở những khu vực tăng giá quá cao so với thực tế trước đây, vào thời điểm
Quý 3 và Quý 4 năm 2007 (Nguồn VietRees).Các công ty môi giới bất động sản
thu hẹp hoạt động vì giao dịch diễn ra rất ít. Đơn cử:
Dự án khu căn hộ Nam Khánh của Công ty Him Lam tại khu đô thị Nam
Sài Gòn, vào tháng 6.2007 giá bán ra của công ty là 12 triệu đồng/m2. Theo ông
37
Nguyễn Xuân Châu - Giám đốc Công ty Nova Homes: trong tháng 4.2008, Nova
Homes dù đã thực hiện một chiến dịch tiếp thị, quảng bá rất mạnh nhưng chỉ bán
lại cho khách hàng được 4 căn với giá 14 triệu đồng/m2, số còn lại vẫn đang bị
"treo". Trong khi đấy, tại thời điểm sốt thì giá của căn hộ Nam Khánh của Công
ty Him Lam dao động khoảng từ 20 triệu đến 22 triệu đồng/m2. Dự án Phú Xuân
- Nhà Bè (TP.HCM), mức giá rao bán trung bình tại thời điểm tháng 6 năm 2008
khoảng 9 triệu đồng/m2. So với mức giá 25 triệu đồng/m2 thời điểm tháng 1 thì
đã giảm tới trên 60%. Dự án An Phú - An Khánh (quận 2) cũng có mức giảm
mạnh, đang được rao bán khoảng 20 triệu đồng/m2 so với mức trên 50 triệu
đồng/m2 đã nằm tại dự án này trong một thời gian rất dài. Tại dự án khu phức
hợp Him Lam - Kênh Tẻ (quận 7), nhiều nhà đầu tư đã chấp nhận xả hàng ra bán
ở mức khoảng trên 30 triệu đồng/m2, giảm tới 70% so với mức giá lên tới gần
100 triệu đồng/m2 thời điểm trước đó không xa4. Dự án khu dân cư Thạnh Mỹ
Lợi (quận 2, TP.HCM) có diện tích 174 ha, mật độ xây dựng là 60% thì có
khoảng gần 1 triệu m2 đất thương phẩm sau khi hoàn thành hạ tầng. Thời điểm
tháng 12.2007, mức giá bán đất nền ở dự án này là 35 - 40 triệu đồng/m2 nhưng
nay đã giảm chỉ còn khoảng 25 - 30 triệu đồng/m2.
Không những giá nhà đất giảm mà giá quyền mua căn hộ cũng giảm
nhanh chóng, đơn cử: vào thời điểm mở cửa bán căn hộ đợt ba của Dự án The
Vista (TP.HCM) vào đầu tháng 10/2007, giá nhượng lại quyền mua căn hộ lên
đến 10.000 - 15.000 USD. Thế nhưng, giá chuyển nhượng quyền mua đã giảm
mạnh đến thời điểm này gần như trở về không. Rất nhiều dự án bán giá gốc
nhưng vẫn chưa có người mua.
Còn ở thị trường văn phòng cho thuê vẫn rất nóng và giá cho thuê tăng rất
nhiều so với năm 2007. Theo ông Marc Townsend - Tổng Giám Đốc điều hành
CBRE, ngày 30-5, giá thuê văn phòng hạng A từ 35USD/m2/tháng nay đã tăng
lên 70 USD/m2/tháng.Tỉ lệ tăng 103% giá thuê văn phòng cho thấy thị trường
này ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn nóng bỏng. Các văn phòng hạng B được cho
4 Nguồn báo Thanh niên – Mặt bằng giá mới – Nguyên Hằng
38
thuê với mức bình quân 30 - 40 USD/m2/tháng. Với mức giá trên, giá thuê văn
phòng ở thành phố Hồ Chí Minh cao hơn các thành phố khác trong khu vực như:
Bắc Kinh (30USD), Bangkok (24USD), Seoul (22USD), Jakarta (9USD)... Còn ở
Hà Nội thì giá thuê văn phòng hạng A từ 35,51USD/m2/tháng trong quý II năm
2007 tăng lên 50,98 USD/m2/tháng trong quý II năm 2008 tức tăng khoảng
43,58%, văn phòng cho thuê hạng B cũng tăng từ 23,33USD/m2/tháng lên 35,17
USD/m2/tháng tỉ lệ tăng khoảng 50,75% so với quý II năm 2007. Mức giá trên
không làm các doanh nghiệp ngần ngại dù phải bỏ ra một lúc hàng trăm ngàn
USD để thuê ngay một chỗ làm việc bởi nếu chậm chân thì sẽ có ngay khách
hàng khác thế chỗ. Một yếu tố dẫn đến việc giá thuê văn phòng ở Việt Nam tăng
vọt là do nguồn cung vẫn còn khan hiếm. Theo khảo sát của CBRE hiện thành
phố Hồ Chí Minh có khoảng gần 60 cao ốc văn phòng đạt tiêu chuẩn hạng A và
B, một số ít nằm rải rác ở các quận 3, 10, Phú Nhuận còn hầu hết tập trung tại
khu trung tâm quận 1. Tính đến thời điểm tháng 5 năm 2008, nguồn cung (tính
theo diện tích sàn) tại TP.HCM có 99.618 m2 văn phòng hạng A, 297.146 m2 văn
phòng hạng B và có 355.654 m2 văn phòng hạng C. Hiện văn phòng hạng A tại
TP.HCM đã lấp kín chỗ, còn văn phòng hạng B đã cho thuê hết khoảng 98%. Tại
Hà Nội đến thời điểm này có 11 cao ốc văn phòng hạng A với tổng diện tích cho
thuê 105.800 m2 và có 24 tòa nhà văn phòng hạng B với tổng diện tích cho thuê
xấp xỉ 210.000 m2. Cũng như ở thành phố Hồ Chí Minh, tại Hà Nội các văn
phòng hạng A đã cho thuê hết và văn phòng hạng B đã cho thuê hết khoảng 98%
Công ty CB Richard Ellis cho biết, trong năm 2008 thành phố Hồ Chí Minh sẽ có
191.000m2 mặt bằng văn phòng hạng A và B đưa vào sử dụng. Diện tích văn
phòng này vẫn chưa đủ để đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp.
Tuy thị trường nhà đất đang bị đóng băng nhưng vốn vẫn tiếp tục đổ vào
bất động sản, nhiều dự án (gồm vốn trong nước và và dòng vốn FDI) được triển
khai trong năm 2008 đặc biệt là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI vào
bất động sản các tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng mạnh. Theo Cục Đầu tư nước
ngoài, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong 7 tháng đầu năm, cả nước
đã thu hút 45,28 tỉ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng gấp đôi so với năm 2007. Tính
39
riêng tháng 7, có thêm 167 dự án mới, với 13,5 tỷ USD, đưa tổng vốn cấp mới
của 7 tháng đầu năm lên 44,49 tỷ USD. Ngoài ra, các dự án lớn có vốn đầu tư
trong nước của một số công ty có tài chính mạnh cũng tiến hành triển khai như
Công ty cổ phần đầu tư Tấn Hưng công bố sẽ đầu tư vào dự án "Cánh đồng lúa
vàng" với diện tích 22.000 ha tại Long An với tổng mức đầu tư lên đến 1 tỉ USD.
Trái ngược với thị trường nhà đất đang bị đóng băng thì trị trường bất
động sản du lịch vẫn tiếp tục sôi động. Việc mua bán, sang nhượng lại các khách
sạn lớn trong nước vừa qua diễn ra nhiều nhưng âm thầm. Và hàng loạt các dự án
bất động sản du lịch được cấp phép mới và triển khai bất chấp sự đóng băng của
thị trường nhà đất.
Xu hướng chuyển giao dự án bất động sản đang diễn ra giữa các công ty
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Không ít chủ đầu tư trong nước phải
chia tay dự án tâm huyết của mình cũng chỉ vì thiếu vốn. Lại có trường hợp
doanh nghiệp đủ vốn để tiếp tục dự án nhưng do thị trường bất động sản ảm đạm
nên không muốn làm nữa cũng tìm đến con đường chuyển nhượng dự án cho nhẹ
gánh. Giám đốc một công ty bất động sản cho biết, trước thực trạng hàng loạt dự
án ế ẩm hiện nay, ông không tự tin khi tiếp tục bỏ vốn để xây dựng dự án chung
cư cao cấp đang dang dở. "Giữa năm nay sẽ có hàng loạt dự án căn hộ cao cấp
hoàn thành, đưa ra thị trường. Trong bối cảnh đó, chúng tôi phải tính lại có nên
tiếp tục bỏ tiền vào dự án. Đầu tư tiếp thì khả năng bị chôn vốn rất cao. Chúng
tôi quyết định tìm đối tác để sang nhượng dự án". . Với các công ty bất động sản
nước ngoài, con đường chuyển nhượng dự án rất khả thi vì khâu thủ tục pháp lý
là khâu mà họ "ngán" nhất, trong khi các dự án dự định chuyển nhượng hầu hết
đã hoàn tất công việc này. Họ chỉ việc bỏ vốn vào xây dựng dự án theo đúng kế
hoạch.
Tình trạng doanh nghiệp trong nước thiếu vốn, doanh nghiệp nước ngoài
mạnh tiềm lực tài chính đang dẫn đến việc hoán đổi dự án từ tay doanh nghiệp
trong nước sang doanh nghiệp nước ngoài. Điều này cho thấy, thị trường bất
động sản Việt Nam vẫn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và nguồn vốn
rót vào đây vẫn ngày một tăng.
40
2.1.2. Đánh giá chung về thị trường bất động sản Việt Nam
Thực trạng nóng lạnh của thị trường bất động sản như đã nói trên xuất
phát từ rất nhiều nguyên nhân. Nhưng việc ấm lên của thị BĐS vào cuối năm
2006 và nóng lên vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 bắt nguồn từ một số
nguyên nhân chính sau:
Việt Nam gia nhập vào WTO, độ mở của nên kinh tế cao hơn, đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam tăng mạnh do vậy nhu cầu về nhà xưởng, đất đai, kho bãi và
văn phòng làm việc tăng lên rất nhiều.
Và thời gian vừa qua chúng ta cũng chứng kiến sự khởi sắc và phát triển
mạnh mẽ của thị trường chứng khoán. Sự khởi sắc của thị trường chứng khoán đã
tạo thêm một lượng tiền mặt, thu được từ lợi nhuận đầu tư chứng khoán, đã góp
phần gia tăng khối lượng giao dịch BĐS và tạo thêm tính thanh khoản cho thi
trường BĐS. Mặt khác, khi thị trường chứng khoán có dấu hiệu đi xuống từ quý
II năm 2007, thì các nhà đầu tư thắng lớn trên TTCK chuyển kênh sang đầu tư
vào thị trường BĐS, theo đó một lượng vốn rất lớn từ TTCK đổ vào thị trường
BĐS làm thị trường này sôi động hẳn lên.
Thêm vào đó là tâm lý “ăn xổi ở thì” của người Việt Nam, nhiều nhà đầu
tư đã tiến hành mua đi bán lại nhằm kiếm chênh lệch. Do vậy tình trạng đầu cơ
trên thị trường BĐS là rất lớn, giá cả được các nhà đầu cơ đẩy lên cao làm cho
những người có nhu cầu thực sự về nhà ở đã không thể mua được, mà nằm trong
tay các nhà đầu cơ. Bên cạnh đó còn diễn ra tình trạnh làm giá của các chủ đầu tư
bán sản phẩm theo kiểu nhỏ giọt để tăng giá sản phẩm của mình lên.
Một nguyên nhân không thể không đề cập đến, đó là chính sách tín dụng
của các ngân hàng, khi thị trường BĐS bắt đầu nóng lên, các ngân hàng không bỏ
qua dịp để tăng lợi nhuận, họ đã tiến hành cho vay ồ ạt và điều kiện cho vay dễ
dàng hơn, thêm một nguồn vốn mà các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận, đã góp phần
rất lớn đẩy giá bất động sản tăng ảo lên rất nhiều….
Tuy nhiên đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 2008, thị trường BĐS Việt
Nam lại rơi vào tình trạng đóng băng, xuất phát tư các nguyên nhân chủ yếu sau:
Nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm phát cao, vật giá gia tăng một
41
cách vùn vụt. Nhà nước ưu tiên tiến hành các biện pháp chống lạm phát, Ngân
hàng nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản và rút
lượng tiền rất lớn đang lưu thông ở ngoài về. Điều này ảnh hưởng nặng nề đến
thi trường BĐS, đã làm cho các nguồn vốn, nhất là các nguồn tín dụng đổ vào bất
động sản bị cắt đi, thi trường BĐS thiếu vốn trầm trọng. Giá BĐS theo đó bắt đầu
giảm.
Khi nguồn cung về tín dụng bị cắt giảm, lãi suất tăng và trở nên khó tiếp
cận các nhà đầu cơ không đủ lực về tài chính gặp khó khăn lớn. Họ không đủ vốn
để theo và nắm giữ các BĐS do vậy họ bắt đầu bán đi các BĐS đang nắm giữ
dẫn đến giá bất động sản giảm. Khi giá BĐS giảm thì các nhà đầu cơ cũng bắt
đầu tuôn hàng ra bán để cắt lỗ, nhưng người mua lại rất ít làm cho giá bất động
đã giảm nay còn giảm thêm.
Góp phần không nhỏ làm cho thị trường BĐS đóng băng là việc cho vay ồ
ạt của các ngân hàng hồi cuối năm 2007 và đầu năm 2008 với chất lượng tín
dụng thấp, người đi vay chủ yếu là các nhà đầu cơ.
Cạnh đó là phân khúc thị trường về địa ốc chưa phù hợp, hiện nay các chủ
đầu tư chủ yếu đầu tư vào xây dựng các cao ốc văn phòng và căn hộ cao cấp.
Nhưng nhu cầu về căn hộ cao cấp chưa thật sự lớn, không có nhiều khách hàng
đủ khả năng mua các căn hộ đấy để ở. Trong khi đó thị trường căn hộ cho các
tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, những người có nhu cầu thật sự lại chưa phát
triển…
Qua thực trạng nói trên có thể nói rằng thị trường bất động sản Việt Nam
chưa lành mạnh và tính minh bạch còn rất thấp. Tình trạng đầu cơ trên thị trường
còn rất cao, thị trường BĐS dễ lâm vào tình trạng bong bóng, và các chu kỳ nóng
lạnh.
42
2.2 Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản của Việt Nam 5 năm gần
đây.
2.2.1. Hành lang pháp lý đối với thị trường tín dụng bất động sản ở
Việt Nam
Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản ngày 23 tháng 6 năm 2006 quy
định: “chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật
khu công nghiệp có quyền huy động vốn theo quy định của pháp luật”. Tuy
nhiên, để có thể huy động vốn thì các Chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án
khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp phải đáp ứng được vốn đầu tư
thuộc sở hữu của mình theo quy định: đối với dự án khu đô thị mới và dự án hạ
tầng kỹ thuật khu công nghiệp thì không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư của dự
án đã được phê duyệt; đối với dự án khu nhà ở thì không thấp hơn 15% tổng mức
đầu tư của dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 20% tổng
mức đầu tư của dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên đã được phê duyệt
(điều 5 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP)
Tuy nhiên, hiện các quy định về tín dụng bất động sản chưa thật rỏ ràng
và chi tiết. Các chủ đầu tư dự án ở Việt Nam có thể huy động vốn dưới nhiều
hình thức nhưng một số hình thức mà hành lang pháp lý chưa có, hoặc chưa
hướng dẫn cụ thể. Xét theo từng hình thức huy động vốn:
Huy động vốn thông qua kênh ngân hàng: hiện nay vẫn chưa có một quy
định rõ ràng nào về đầu cơ hay cho vay kinh doanh bất động sản và cũng chưa có
quy định nào hạn chế việc cho vay bất động sản. Các ngân hàng đang thực hiện
cho vay theo các quy định của pháp luật chung cho tín dụng và theo các quy định
của pháp luật về đất đai, đầu tư và xây dựng, tín dụng ngân hàng; xem xét, quyết
định cho vay các dự án đầu tư bất động sản nếu chủ đầu tư có năng lực tài chính
và phương án huy động vốn khả thi, có khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn, có
biện pháp phòng ngừa rủi ro do biến động của giá cả bất động sản.
Huy động vốn thông qua kênh khách hàng truyền thống bằng cách ứng
tiền trước, thì lần đầu chỉ được thể thực hiện khi chủ đầu tư đã xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho bất động sản theo nội dung, tiến độ của dự án đã được phê
43
duyệt. Điều 4 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2007 quy
định: “Việc ứng tiền trước phải được thực hiện nhiều lần, lần đầu chỉ được huy
động khi chủ đầu tư đã bắt đầu triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo
tiến độ và nội dung của dự án đã được phê duyệt. Các lần huy động tiền ứng
trước tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng nhà, công trình đó; Đối với dự
án khu nhà ở thì ngoài việc phải thực hiện theo quy định nêu trên còn phải thực
hiện theo các quy định của pháp luật về nhà ở;”. Luật nhà ở năm 2005 đã quy
định chủ đầu tư huy động vốn từ tiền ứng trước của người có nhu cầu mua hoặc
thuê nhà ở thì chỉ được áp dụng trong trường hợp thiết kế nhà ở đã được phê
duyệt và đã được xây dựng xong phần móng; và tổng số tiền huy động trước khi
bàn giao nhà ở cho người có nhu cầu không được vượt quá 70% giá trị nhà ở ghi
trong hợp đồng.
Tín dụng dưới hình thức phát hành trái phiếu đề huy động vốn không có
quy định riêng cho trái phiếu bất động sản, chỉ mới áp dụng theo Nghị định
52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006. Theo đó, doanh nghiệp chỉ được
phát hành trái phiếu khi có đủ các điều kiện chủ yếu sau: có thời gian hoạt động
tối thiểu là 01 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động; có báo
cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán; kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi; có phương án
phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua. Những điều
kiện này sẽ rất khó cho những doanh nghiệp đang trong quá trình xây dựng và
chưa phát sinh doanh thu nhưng thực sự có nhu cầu về vốn.
2.2.2. Các sản phẩm tín dụng được tung ra trên thị trường Việt Nam.
2.2.2.1. Các sản phẩm qua kênh truyền thống
- Vay Ngân hàng
Tín dụng qua kênh ngân hàng các năm qua luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
tín dụng bất động sản. Dù thời kỳ 2003 đến cuối năm 2006 là thời kỳ đóng băng
của thị trường bất động sản, nhưng tín dụng bất động sản vẫn tiếp tục tăng. Theo
một công bố của Ngân hàng Nhà nước, dư nợ cho vay bất động sản trong giai
44
đoạn 2003 - 2005 liên tục tăng với tốc độ bình quân khoảng 33%/năm. Tỷ trọng
dư nợ cho vay bất động sản trong tổng dư nợ nền kinh tế tăng, từ khoảng 8% cuối
năm 2003 lên khoảng 10% cuối 2005. Con số này tương đương khoảng 50 ngàn
tỷ đồng. Trong đó, hầu hết là cho vay trung hạn (chiếm khoảng 79%), dư nợ dài
hạn chiếm khoảng 21%. Tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản so với tổng dư nợ
cho vay trung và dài hạn đối với nền kinh tế tăng từ mức khoảng 18% cuối năm
2003 lên gần 25% cuối 2005. Trong các loại cho vay bất động sản, dư nợ cho vay
nhu cầu vốn sửa chữa và mua sắm nhà cửa chiếm tỷ trọng cao nhất, trên 40%,
nhưng có xu hướng giảm dần qua các năm, từ trên 47% cuối năm 2003 xuống
còn khoảng 40% cuối 2005. Trong khi đó, dư nợ cho vay xây nhà ở để bán có tỷ
trọng tăng dần trong tổng dư nợ cho vay bất động sản, từ mức gần 7% cuối năm
2003 lên trên 11% cuối tháng 6/2005. Ngoài ra, dư nợ cho vay xây dựng cơ sở hạ
tầng khu đô thị và khu công nghiệp cho thuê chiếm gần 20% cuối 2005. Cho vay
xây dựng văn phòng cho thuê có mức tăng trưởng mạnh trong năm 2004, bằng
189,5% so cuối năm 2003, nhưng gần như không tăng trong năm 2005. Tương tự
như vậy, dư nợ cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị, khu công nghiệp cho
thuê cũng có mức tăng mạnh trong năm 2004, bằng 174% so với cuối năm 2003,
nhưng chỉ tăng nhẹ trong năm 2005.5
Đến năm 2007, tín dụng bất động sản qua kênh ngân hàng phát triển rất
mạnh mẽ. Các hợp đồng tài trợ vốn cho các dự án với giá trị lớn đã liên tục được
ký kết, bên cạnh đó, tín dụng cho người mua bất động sản diễn ra rất sôi động.
Sau 1 tháng kể từ khi bất động sản tái tăng giá, hầu hết các ngân hàng, nhất là
khối cổ phần đã nhanh chóng "bơm" tiền cho khách hàng thông qua nhiều sản
phẩm cho vay mua nhà, đất trả góp. Điều đáng chú ý là các nhà băng đã nâng giá
trị khoản vay, thời gian trả nợ lên cao hơn nhiều so với trước. Trong khi, lãi suất
cho vay đối với loại hình tín dụng này lại được điều chỉnh giảm khoảng 0,1 -
0,2%/tháng so với trước đây.
Techcombank chính thức công bố tài trợ khách hàng vay tiền mua sản
5 Nguồn Việtnam net: Tiền vay xây nhà để bán chiếm 11% nợ BĐS ngày 11/04/2006 –
Đồng Hiếu
45
phẩm Sky Garden 3, đồng thời cung cấp gói dịch vụ tiện ích về nhà ở, trang thiết
bị gia đình, ôtô vào đầu tháng 11. Đối với các khách hàng mua sản phẩm Sky
Garden 3, Techcombank ưu đãi thời hạn cho vay tối đa là 20 năm, thay vì chỉ có
10 năm như trước. Tỉ lệ vốn vay tối đa cho 80%. Phương thức thanh toán gốc, lãi
sẽ được Techcombank dựa trên cơ sở có tính đến việc thu nhập sẽ có xu hướng
tăng lên theo thời gian và khả năng trả nợ của khách hàng. Ngoài lãi, khách hàng
chỉ thanh toán 15% vốn gốc trong 1/4 thời gian đầu. 25%, 30% và 30% trong các
1/4 thời gian còn lại. Tài sản đảm bảo chính là ngôi nhà đã và định mua của
khách hàng. HDBank cho vay đến 100% giá trị căn nhà trong 30 năm nếu người
vay có tài sản thế chấp khác ngoài căn hộ dự định mua. Khách hàng của HDBank
có thể vay bằng tiền đồng hoặc vàng SJC. Ngân hàng Phương Đông cho vay mua
nhà ở, nền nhà với mức vay không quá 70% trị giá căn nhà đã thỏa thuận mua
bán, không vượt quá 70% trị giá nhà mua dùng làm tài sản thế chấp, không vượt
quá 80% trị giá bất động sản khác dùng làm thế chấp hay bảo lãnh, không quá
80% trị giá chứng từ có giá dùng để cầm cố đảm bảo khoản vay, và nhỏ hơn
100% tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn do OCB phát hành để đảm bảo khoản vay.
Habubank cũng có chương trình mua nhà đất trả góp dành cho các cá nhân có
nhu cầu mua nhà ở thực sự và có hộ khẩu thường trú tại địa phương Habubank có
trụ sở giao dịch. Đối tượng là nhà đất và các tài sản trên đất, các căn hộ mua mới
của các công ty kinh doanh nhà. Chương trình này hỗ trợ tối đa 70% giá trị của
nhà/đất là đối tượng giao dịch và thời hạn vay dài nhất là 15 năm. Chỉ trong vòng
1 tháng, Eximbank tung ra hai sản phẩm cho vay mua nhà, đất trả góp tại các dự
án căn hộ cao cấp khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Mức vốn Eximbank cho vay
mua căn hộ Sky Garden 3 lên đến 100% giá trị bất động sản (nếu có thêm tài sản
đảm bảo khác) và 80% giá trị bất động sản (nếu thế chấp bằng bất động sản
mua). Khách hàng được trả góp trong vòng 20 năm thời gian ân hạn tương ứng
với thời gian nhận nhà (tối đa 3 năm). Lãi suất Eximbank áp dụng cho loại hình
tín dụng này là dưới 15/tháng, phương thức trả nợ linh hoạt.
Với những dịch vụ này, khi có nhu cầu mua nhà ở, chung cư dưới hình
thức trả góp, khách hàng chỉ cần 10% - 20% vốn tự có trả trước cho chủ đầu tư sẽ
46
nhanh chóng sở hữu được căn hộ theo ý muốn.
Ngoài ra, để "hút" khách hàng và nâng cao tín dụng bên cạnh nâng hạn
mức vốn, thời gian cho vay và hạ lãi suất một số ngân hàng còn mua bảo hiểm
cho khoản vay: Sacombank kết hợp với IFC về khoản cho vay 500 tỉ đồng để
thực hiện nhu cầu cho vay mua, xây nhà mới, đồng thời tặng thêm dịch vụ bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro khác cho bất động sản thế chấp có giá trị bằng số
tiền cho vay; ABBank mua bảo hiểm cho sản phẩm YOUhousePlus - cho vay trả
góp mua nhà, đất 30 năm, với hạn mức 90% tổng nhu cầu vốn và 80% tổng giá
trị của tài sản đảm bảo. Khi có sự cố xảy ra, công ty bảo hiểm Prevoir (Pháp) tại
Việt Nam - đơn vị mà ABBank đã liên kết sẽ thanh toán khoản nợ còn lại của
khách hàng cho ngân hàng. (Nguồn www.saga.vn)
Kết quả báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy, tính đến 31.10.2007 tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên
địa bàn tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng đến 63% so với cùng kỳ. Và chỉ
trong tháng 10.2007 các ngân hàng đã cho vay thêm 29.000 tỉ đồng (tức tăng
9,2% so với một tháng trước đó và lượng tiền đồng chiếm đến 70%. (Nguồn
Người lao động). Ông Hồ Hữu Hạnh – giám đốc Ngân hàng Nhà Nước chi nhánh
thành phố Hồ Chí Minh cho biết, dư nợ cho vay bất động sản của các ngân hàng
trên địa bàn tính đến hết năm 2007 đạt 34.700 tỉ đồng, chiếm khoảng 10% tổng
dư nợ của toàn hệ thống.
Tính đến hết tháng 4/2008, dư nợ cho vay bất động sản của hệ thống ngân
hàng thương mại đạt 135.000 tỷ đồng. Trong đó có cho vay mua nhà ở, cho các
doanh nghiệp vay đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất - kinh doanh, cho vay
xây dựng nhà và văn phòng để bán và cho thuê… Về tốc độ tăng cho vay trong
lĩnh vực bất động sản 6 tháng đầu năm 2008 chỉ ở mức dưới 5%, trong khi tổng
dư nợ tín dụng chung tăng hơn 18%. Các khoản cho vay bất động sản chủ yếu tập
trung ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh 60%, Hà Nội 17%...
Với số tín dụng trực tiếp và có liên quan đến bất động sản tăng mạnh
trong năm 2007 và tháng đầu năm 2008 đã tạo ra mức độ rủi ro cho hệ thống
ngân hàng, đồng thời được xem là tác nhân cung tiền chủ yếu gây lạm phát.
47
Để hạn chế lạm phát, và làm xì hơi bong bóng bất động sản Ngân hàng
Nhà Nước tăng lãi suất cơ bản, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và quan trọng nhất là
biện pháp phát hành tín phiếu hút 20.300 tỷ đồng khỏi lưu thông, chính sách thắt
chặt tín dụng định hình rõ nét. Vơi việc rút một lượng tiền lớn đang lưu thông ở
ngoài thị trường về của Ngân hàng Nhà Nước làm cho khả năng cung tiền của
các Ngân hàng thương mại gặp khó khăn rất lớn. Vì thế nhiều ngân hàng thương
mại đã hạn chế cho vay, chi tiếp tục giải ngân các hợp đồng đã ký trước đây,
thậm chí có ngân hàng còn ngưng giải ngân và không cho vay mới vì ngân hàng
không còn tiền để cho vay. Trên thực tế, liên tục trong 4 tháng gần đây, dư nợ
cho vay lĩnh vực bất động sản của các ngân hàng giảm khá mạnh, đặc biệt là tại
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Chỉ tính riêng địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, đến đầu tháng 7, dư nợ cho vay bất động sản đã giảm khoảng 3.700 tỷ
đồng so cuối quý I năm 2008. Dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản tại Hà Nội
cũng giảm tương đối mạnh, có ngâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUAN VAN DA CHINH SUA THEO YEU CAU CUA HD CHAM LUAN VAN PHAN THI NHAN.PDF