MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở TỈNH KIÊN GIANG 5
1.1. Nhận thức lý luận thực tiễn về kinh tế nông nghiệp và vai trò của kinh tế nông nghiệp 5
1.1.1. Vậy thế nào là nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp 6
1.1.2. Vấn đề nông nghiệp trong một số lý thuyết kinh tế 7
1.1.3. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông nghiệp ở một số nước trên thế giới 12
1.2. Vai trò kinh tế nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế nói chung và ở tỉnh Kiên Giang 18
Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở KIÊN GIANG NHỮNG NĂM QUA VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT 23
2.1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang 23
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội ở tỉnh Kiên Giang 23
2.1.2. Đặc điểm kinh tế nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang 33
2.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang 38
2.2.1. Thực trạng kinh tế nông nghiệp trước đổi mới 38
2.2.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp những năm gần đây 40
2.2.3. Một số yếu kém cần khắc phục 49
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KIÊN GIANG 53
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm tới 53
3.1.1. Phương hướng bố trí sản xuất và hướng phát triển của một số cây, con chủ yếu 53
3.1.2. Phương hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa theo cơ chế thị trường 62
3.1.3. Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 66
3.1.4. Thực hiện hướng phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với văn hóa xã hội nông dân, nông thôn 67
3.1.5. Phát triển nền nông nghiệp vững bền sinh thái 69
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang 70
3.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần để phát triển kinh tế nông nghiệp 71
3.2.2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn 72
3.2.3. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, thủy sản 74
3.2.4. Thực hiện những chính sách kinh tế lớn đối với nông nghiệp, nông thôn 77
3.2.5. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp 88
Kết luận 93
Danh mục tài liệu tham khảo 95
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4010 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 2,36 tấn/ha.
Sản xuất mía:
Cây mía phát triển khá nhanh và tương đối ổn định, diện tích tăng từ 4.485 ha năm 1990 lên 9.545 ha năm 1998. Ưu thế trong sản xuất mía ở Kiên Giang là đã hình thành vùng chuyên canh tập trung, mùa vụ thu hoạch dài. Hạn chế chính là năng suất và trữ lượng đường còn thấp.
Sản xuất khóm:
Phát triển nhanh trong thời kỳ 1985 - 1987, sau đó chững lại và giảm nghiêm trọng trong thời kỳ 1991 - 1995. Nguyên nhân chính là bị khủng hoảng thị trường tiêu thụ. Từ năm 1996 đến nay phát triển tương đối ổn định, chất lượng khóm rất tốt, ưu thế cạnh tranh khá cao. Nhưng muốn phát triển ổn định lâu dài cần phải tạo được thị trường tiêu thụ ổn định các sản phẩm công nghiệp từ dứa.
Chăn nuôi:
Tỉnh có lợi thế về nguồn lao động và nguồn thức ăn dồi dào, kể cả nguồn thức ăn giàu chất đạm, nhưng chăn nuôi tuy có phát triển nhưng còn chậm và chưa ổn định, chủ yếu theo hướng tự phát, chất lượng sản phẩm và khả năng sản xuất hàng hóa còn thấp, chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân chính là chưa tạo được thị trường tiêu thụ lớn và ảnh hưởng các yếu tố lũ - phèn - mặn.
* Đàn bò trong vài năm gần đây có tăng nhưng tổng đàn năm 1998 chỉ bằng 64% năm 1990. Đàn trâu giảm nhanh, tổng đàn năm 1998 chỉ bằng 34% năm 1990.
* Đàn heo phát triển với tốc độ chậm, năm 1998 đạt quy mô tổng đàn 220.233 con, bình quân 1 ha đất nông nghiệp chỉ có 0,57 heo, bình quân 1 hộ nông nghiệp chỉ nuôi 0,9 đầu heo. Đây là mức thấp so với trung bình toàn đồng bằng sông Cửu Long.
* Đàn gia cầm phát triển khá, tốc độ tăng tổng đàn bình quân hàng năm khoảng 4 - 5%.
Lâm nghiệp:
- Trồng rừng và bảo vệ rừng được quan tâm đầu tư, đến cuối năm 1998 trong tổng số 165.800 ha đất quy hoạch lâm nghiệp đã có 101.070 ha rừng, bằng 61% diện tích. Từ năm 1990 đến năm 1998 bằng nguồn vốn chương trình 327 và liên doanh Kiên Tài, đã trồng 30.712 ha rừng (trong đó chương trình 327 là 15.444 ha, liên doanh Kiên Tài 15.268 ha), chăm sóc 15.052 ha, phục hồi 3.500 ha... công tác bảo vệ rừng ngày càng chặt chẽ làm giảm diện tích cháy rừng hàng năm.
- Riêng liên doanh Kiên Tài, cho đến nay tỉnh đã cấp quyền sử dụng đất là 39.399 ha, trong đó trừ đất nhà nước thu hồi để đào kênh T4, T5, T6 là 208,7 ha, còn lại 39.191 ha. Qua 8 năm hoạt động, đã đạt kết quả như sau:
- Đất trong khu vực đã trồng rừng: 24.544 ha
Trong đó:
+ Đất trồng rừng: 23.819 ha
+ Đất xây dựng kênh mương, xưởng cơ khí, bến bãi: 626 ha
- Đất đã lên líp nhưng chưa trồng rừng: 1.098 ha
- Đất chưa đầu tư sử dụng: 13.549 ha
+ Đất than bùn: 5.677 ha
+ Đất lung, rạch: 1.142 ha
+ Đất chưa đầu tư: 4.146 ha
+ Đất tràm tự nhiên: 2.583 ha
- Theo kết quả điều tra đánh giá rừng bạch đàn công ty Quốc tế Kiên Tài của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, đã đi đến kết luận như sau:
Rừng có sự tăng trưởng tốt về chiều cao (H.2m/năm) và đường kính (D>2cm/năm), nhưng năng suất rừng rất thấp ở hầu hết các tuổi trồng, nguyên nhân chính là tỷ lệ sống của cây trồng rất thấp và tuổi rừng càng tăng thì tỷ lệ sống càng thấp. Năng suất rừng bằng 48% năng suất dự kiến trong dự án đầu tư.
- Theo khảo sát bổ sung thực địa và điều tra nhân dân trong vùng cho thấy: ngoài những tồn tại trên còn có các tồn tại khá nghiêm trọng khác là cháy rừng, sâu đục thân và nạn chuột từ trong rừng tràm ra phá lúa của dân khá nặng.
- Qua khảo sát bạch đàn trồng trong phạm vi đất đai của Quân khu 9 cũng cho kết quả tương tự. Trên khu vực bạch đàn cháy đã trồng thử lúa và đã cho kết quả tốt trên cả hai vụ lúa Đông xuân và Hè thu, nên trong vài năm qua đã mạnh dạn chuyển sang trồng lúa và cũng đã thành công trong phạm vi trên 4.000 ha tại các khu vực ven kênh Tám Ngàn, T5, T6 của Lâm trường 422 và 2.750 ha ven kênh T3, T4 của Trung đoàn 33.
Thủy sản:
Thủy sản là một trong những thế mạnh của tỉnh, phát triển tương đối nhanh chóng trong thời kỳ 1990 - 1995, tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân hàng năm đạt gần 14%. Thời kỳ 1996 - 1998 phát triển có xu hướng chậm lại, tốc độ tăng giá trị tăng thêm tăng bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%. Giá trị tăng thêm thủy sản (theo giá năm 1994) tăng từ 230 tỷ đồng năm 1990 lên 441,8 tỷ đồng năm 1995 và 503,2 tỷ đồng năm 1998. Giá trị tăng thêm ngành thủy sản chiếm 12 - 14% GDP khu vực nông thôn.
Khai thác hải sản:
- Ngành khai thác hải sản đã được đầu tư đáng kể về phương tiện khai thác theo hướng công suất lớn vươn ra khai thác ngoài khơi. Số lượng tàu thuyền năm 1998 là 7.120 chiếc với tổng công suất 479.475 CV, gấp 2,85 lần tổng công suất năm 1990. Công suất trung bình là 67CV/tàu. Cao gấp 3 lần mức bình quân chung trong toàn quốc và bằng 2,7 lần so với năm 1990.
Sản lượng khai thác tăng bình quân hàng năm 7,3% năm 1998 đạt 210.100 tấn, tăng trên 40.000 tấn so với năm 1995 và 107.600 tấn so với năm 1990. Tuy nhiên, do tỷ lệ tàu thuyền có công suất < 20 CV còn chiếm gần 50%, tình trạng khai thác gần bờ, phương tiện cào bờ xiệp mé và các hình thức khai thác đang làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Hiệu quả khai thác thủy sản trong những năm gần đây giảm sút. Các hình thức hợp tác, liên doanh liên kết trong khai thác chưa phát triển.
Nuôi trồng:
- Nuôi trồng những năm qua phát triển đa dạng nhưng hiệu quả chưa cao. Diện tích nuôi tôm tăng nhanh nhưng chủ yếu theo hướng tự phát, tình trạng nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch vẫn còn. Địa bàn nuôi tôm tập trung chủ yếu ở vùng ven bán đảo Cà Mau, Hòn Đất, Kiên Lương, Hà Tiên. Năm 1998 diện tích nuôi tôm là 9.922 ha, năng suất còn thấp: bình quân đạt từ 150 kg - 220 kg/ha, sản lượng 1.120 tấn
- Nuôi sò huyết tập trung chủ yếu ở ven biển An Biên, An Minh. Diện tích nuôi khá ổn định, nhưng năng suất có xu hướng giảm. Năm 1998 diện tích 960 ha, sản lượng 4.316 tấn.
- Nuôi ngọc trai bước đầu đã có kết quả, có hai liên doanh Việt - Nhật và Việt - úc tiến hành nuôi thử nghiệm và sản xuất tại biển Phú Quốc. Đến nay liên doanh Việt - Nhật đã giải thể do công ty làm ăn thua lỗ ở nước Nhật.
- Nuôi cá ruộng từng bước được khôi phục và phát triển, năm 1998 diện tích nuôi cá ruộng đạt 11.281 ha gấp 3 lần năm 1995, sản lượng đạt 2.241 tấn, năng suất bình quân 200 kg/ha. Ngoài ra còn có hình thức nuôi cá trong rừng nhưng quy mô còn nhỏ và năng suất thấp, năm 1998 diện tích 5.000 ha và sản lượng 577 tấn.
Dịch vụ hậu cần nghề cá:
- Trong những năm qua chủ yếu sử dụng cảng cá hiện có như cảng An Thới, Tắc Cậu, Ba Hòn, Dương Đông... gần đây xây dựng cảng cá Thổ Châu đã đưa vào sử dụng. Hiện nay cảng cá Nam Du đang được xây dựng, cảng cá An Thới và Tắc Cậu mới được thi công cuối năm 1998. Các cảng cá khác đang lập dự án huy động vốn được xây dựng trong năm tới.
- Các dịch vụ khác như đại lý cung cấp xăng dầu, ngư lưới cụ, nước đá... được phân bổ rải rác ở các vùng ven biển, hải đảo để cung ứng cho khai thác thủy sản. Trong đó khu vực được tập trung lớn và có quy mô là Rạch Giá và Phú Quốc.
Công nghiệp và chế biến nông hải sản:
Hướng vào khai thác các thế mạnh của tỉnh như: chế biến hải sản và nông sản, sửa chữa tàu thuyền và máy nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí nhỏ và một số nghề thủ công truyền thống. Nhưng còn phân tán, tự phát, quy mô nhỏ, công nghệ thô sơ lạc hậu, sức cạnh tranh không cao, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp.
- Tốc độ tăng bình quân giá trị sản lượng công nghiệp chế biến nông, hải sản thời kỳ năm 1990 - 1998 đạt từ 11 - 12%, năm 1998 giá trị sản lượng công nghiệp chế biến là 700 tỷ đồng, mới chiếm 25% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn tỉnh và 11% giá trị sản xuất toàn khu vực sản xuất nông nghiệp.
Về số lượng và phân bố các cơ sở công nghiệp chế biến
Chế biến thủy sản:
Hiện có 107 cơ sở chế biến nước mắm, 224 cơ sở chế biến khô các loại.
Chế biến lúa gạo:
Hiện có 508 cơ sở phân bổ trên tất cả các huyện thị ở đất liền. Đảm bảo xay xát 60% sản lượng lúa toàn tỉnh, nhưng chủ yếu là cho tiêu dùng nội địa. Mới có 3 cơ sở ở Tân hiệp và Rạch Giá lau bóng gạo xuất khẩu với công suất 100.000 tấn/năm.
Chế biến mía - đường:
Hiện có 88 cơ sở chế biến thủ công tập trung chủ yếu vùng bán đảo Cà Mau và huyện Giồng Riềng và một nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía/ngày tại bến Nhất đã bắt đầu đi vào hoạt động.
Chế biến khóm và trái cây:
Hiện có một nhà máy chế biến nước trái cây 1.500 tấn/năm được xây dựng và chuẩn bị xây dựng nhà máy chế biến khóm tại An Hòa (Rạch Giá) góp phần tiêu thụ sản phẩm mía, khóm của tỉnh.
Về sửa chữa cơ khí:
Công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền phân bố chủ yếu ở các huyện ven biển. Cơ khí phục vụ nông nghiệp chủ yếu sản xuất nông cụ cầm tay và sửa chữa cơ khí nhỏ. Các cơ sở cơ khí kể cả cơ khí tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu cơ giới nông nghiệp.
Về ngành nghề thủ công:
Nghề thủ công truyền thống có ở một số vùng sản xuất nông nghiệp nghề dệt chiếu ở Châu Thành, đan cần xé ở Vĩnh Thuận và sản xuất nồi đất nung ở Hòn Đất... Các sơ sở này quy mô nhỏ, kỹ thuật thô sơ.
Tình hình tổ chức - quản lý sản xuất nông nghiệp
Khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nông thôn, phần đông các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã thành lập trước đây đã bộc lộ nhiều yếu kém trong quá trình tổ chức hoạt động... nên đã tự tan rã hàng loạt. Trước tình hình đó Tỉnh ủy đã có nhiều chủ trương, biện pháp để củng cố lại phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Đến năm 1991 toàn tỉnh củng cố và xây dựng được 7 HTX và 270 tập đoàn sản xuất nông nghiệp chủ yếu tập trung ở Tân Hiệp.
- Từ năm 1988 việc lấy hộ làm kinh tế tự chủ nên nội dung hoạt động, quản lý của HTX đã có sự thay đổi, đến năm 1997 các HTX đã chuyển đổi theo Nghị định 16/CP của Chính phủ đi vào hoạt động theo Luật HTX. Từ các mô hình HTX được duy trì và làm ăn có hiệu quả, tính đến cuối tháng 12/1998 toàn tỉnh có 29 HTX sản xuất nông nghiệp với 8.926 hộ xã viên chiếm 4,3% số hộ nông nghiệp toàn tỉnh, 11 HTX vận tải, 17 HTX xây dựng, 2 HTX khai thác hải sản, 46 quỹ tín dụng nhân dân, 10 HTX mua bán... ngoài ra kinh tế hợp tác có bước phát triển với nhiều hình thức hợp tác khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động của kinh tế hợp tác xã còn giới hạn ở một số khâu và lĩnh vực, quy mô phát triển chậm, hiệu quả hoạt động còn thấp.
Về đầu tư cho phát triển kinh tế nông nghiệp:
Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, bằng các nguồn lực tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đến nay có bước phát triển đáng kể và tạo được tiền đề cho đầu tư phát triển những năm tiếp theo.
Tổng vốn đầu tư xây dựng thời kỳ năm 1990 - 1998 cho các công trình công nghiệp thủy lợi là 188,043 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương đầu tư 84,215 tỷ đồng (44,6%), ngân sách địa phương đầu tư 71,06 tỷ đồng (37,6%) và vốn dân là 33,421 tỷ đồng (17,7%). Mặc dù với nguồn vốn đầu tư những năm qua khá lớn nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu cho việc phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, sản xuất nông nghiệp vẫn chưa thật sự chủ động trong việc cung cấp nước tưới, tiêu nước và ngăn mặn.
2.2.3. Một số yếu kém cần khắc phục
Một là: chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chậm. Tiềm năng nông nghiệp còn lớn nhưng khai thác phát huy chưa đúng mức, sử dụng đất đai còn lãng phí, hệ số sử dụng đất thấp. Nông nghiệp phát triển chưa toàn diện, chưa cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, còn độc canh lúa.
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ sinh học vào khâu giống cây trồng, vật nuôi còn hạn chế, công nghiệp chế biến phát triển chậm. Việc quy hoạch bố trí cây trồng, vật nuôi ở nhiều vùng sinh thái khác nhau chưa kịp thời và còn lúng túng.
Hai là: kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn còn thấp, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển chậm. Lao động nông nghiệp vừa thừa lại vừa yếu, trình độ dân trí thấp, một bộ phận thiếu kiến thức làm ăn, đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận dân cư còn khó khăn. Kết cấu hạ tầng nông nghiệp còn yếu kém, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên tính rủi ro cao mỗi khi thiên nhiên không thuận lợi.
Trong chỉ đạo chưa đúng tầm cỡ là tỉnh nông nghiệp, nhận thức về phát triển kinh tế của tỉnh đi lên từ nông nghiệp và vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp chưa cao, ý thức tự vươn lên của nhân dân còn hạn chế.
Tỷ lệ đầu tư phát triển nông nghiệp thấp, chưa tạo điều kiện mạnh mẽ để phát triển nông nghiệp, phát huy nội lực yếu đặc biệt là sức lao động.
Ba là: đất nông nghiệp sử dụng hiệu quả thấp, phần lớn bị phèn mặn lại ở cuối nguồn nước ngọt, đầu nguồn nước mặn, tập quán canh tác một số nơi vùng sâu, vùng xa còn lạc hậu. Lực lượng cán bộ nông nghiệp cơ sở như mạng lưới khuyến nông, khuyến ngư còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu.
Bốn là: quản lý nhà nước đối với nông nghiệp còn nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ quản lý nông nghiệp thiếu ổn định nhất là cấp huyện và cơ sở, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật vừa thiếu và yếu trong quản lý điều hành chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc, chậm tổng kết rút kinh nghiệm về những mô hình mới. Kinh tế nhà nước chưa đủ mạnh để phát huy vai trò chủ đạo hướng dẫn kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân. Công nghiệp, thương nghiệp chưa liên kết chặt chẽ, hoạt động ở địa bàn vùng sản xuất nông nghiệp hạn chế nên chưa phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp. Việc thay đổi tập quán suy nghĩ cách làm ăn của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, ý thức vươn lên làm giàu chưa cao. Tệ nạn xã hội còn phát triển, tình trạng sang nhượng, cầm cố ruộng đất có xu hướng ngày càng tăng làm cho một bộ phận nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tóm lại, thực trạng kinh tế nông nghiệp ở Kiên Giang những năm qua có thể xét theo hai mặt:
Thứ nhất, thuận lợi:
Có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 với nội dung chủ yếu là khoán hộ, đã xác nhận hộ nông dân được quyền tự chủ ruộng đất lâu dài; Luật Đất đai ban hành tháng 9/1993 đã tạo thêm các tổ chức kinh tế, cá nhân người lao động và hộ nông dân quyền làm chủ đất đai trong khuôn khổ quản lý của Nhà nước. Là những định hướng quan trọng, giúp ngành nông nghiệp triển khai chỉ đạo sản xuất phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Kiên Giang.
Khu vực nông nghiệp cũng như nền kinh tế của tỉnh từ năm 1990 đến nay liên tục phát triển với tốc độ khá, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, bước đầu tích lũy về vốn và nguồn nhân lực, kiến thức và kinh nghiệm... cho phát triển nông nghiệp.
Tiềm năng phát triển nông nghiệp của vùng còn rất lớn, bao gồm cả tăng vụ, khai hoang mở rộng diện tích, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa cây trồng với nhiều mô hình nông - lâm - ngư kết hợp cho hiệu quả cao và có triển vọng mở rộng trong tương lai. Thế mạnh về phát triển công nghiệp, khai thác thủy - hải sản và phát triển du lịch- dịch vụ của từng vùng đang từng bước phát huy, sẽ có tác dụng thu hút lao động, đóng góp ngân sách cho đầu tư kết cấu hạ tầng, hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển.
Vị thế quan trọng của kinh tế nông nghiệp đối với kinh tế chung ở tỉnh cùng với việc phát triển công nghiệp, thủy sản, dịch vụ đang từng bước phát huy sẽ có tác động tích cực làm chuyển biến và hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển.
Nhiều chính sách mới đã được ban hành, tiếp tục hoàn thiện trong thực tiễn đã và đang tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng đã và đang được tăng cường đầu tư, sẽ phát huy tác dụng trong những năm tới, góp phần quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp.
Lực lượng lãnh đạo ở tỉnh, huyện trong vùng ngày càng được bổ sung về số lượng và nâng cao về chất lượng, tiến bộ khoa học kỹ thuật đang và sẽ được áp dụng, nhất là khoa học ứng dụng sẽ là nhân tố mạnh mẽ tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa, công nghiệp hóa, ngày càng phát triển.
Thứ hai, khó khăn:
Nông nghiệp phát triển chưa vững chắc, chưa đồng bộ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm, trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là cây lúa, kinh tế nông thôn chủ yếu là thuần nông.
Phát triển nông nghiệp trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, để đáp ứng yêu cầu này phải có đầu tư lớn để đổi mới công nghệ thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhưng khả năng của tỉnh vẫn còn hạn chế nhất là hiện nay số hộ nghèo và trung bình còn chiếm tỷ lệ cao, trình độ quản lý hạn chế.
Đất đai của tỉnh phần lớn bị phèn mặn lại ở cuối nguồn nước ngọt, đầu nguồn nước mặn, tập quán canh tác một số nơi ở vùng sâu vùng xa còn lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, lực lượng cán bộ nông nghiệp ở cơ sở như mạng lưới khuyến nông khuyến ngư còn hạn chế so với yêu cầu.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp còn yếu kém, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên mức độ rủi ro cao mỗi khi thiên nhiên không thuận lợi.
Lao động nhàn rỗi còn nhiều, công nghiệp chế biến và ngành nghề chậm phát triển, tổn thất sau thu hoạch còn lớn, vấn đề tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý vẫn còn là mối lo thường xuyên cho người dân vùng sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng xuất khẩu nông sản của tỉnh tuy rất lớn, nhưng khâu tiếp thị còn rất yếu đã hạn chế lớn tới tốc độ đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp chế biến, đòi hỏi những nỗ lực lớn, có nhiều việc ngoài tầm cố gắng của địa phương. Nên những quyết định thay đổi cơ cấu sản xuất cần phải cân nhắc thật kỹ để tránh những tổn thất lớn cho phát triển sản xuất.
Chương 3
PHƯƠNG Hướng, Giải Pháp CƠ Bản Để Phát Triển KINH Tế NÔNG Nghiệp ở Tỉnh KIÊN GIANG
3.1 Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm tới
3.1.1. Phương hướng bố trí sản xuất, và hướng phát triển của một số cây, con chủ yếu
+ Phương hướng bố trí sử dụng đất nông nghiệp trong những năm tới
- Đất nông nghiệp tăng từ 388.538 ha năm 1998 lên 396.795 ha năm 2000, 444.664 ha năm 2005 và 438.339 ha năm 2010, trong đất nông nghiệp, đất lúa tăng tương ứng từ 304.296 ha lên 307.511 ha năm 2000, 340.875 ha năm 2005 và 333.383 ha năm 2010, đất cây công nghiệp hàng năm từ 11.036 ha năm 1998 lên 20.707 ha năm 2000, 29.982 ha năm 2005 và 30.340ha năm 2010, đất cây lâu năm từ 42.436 ha năm 1998 lên 47.763 ha năm 2000, 66.324 ha năm 2005 và 69.908 ha năm 2010. Thực hiện khai hoang phục hóa ở vùng tứ giác Long Xuyên và vùng bán đảo Cà Mau, cải tạo vườn tạp, đẩy mạnh phát triển mô hình lúa - cá, mía - cá, rừng - cá. Tăng vòng quay của đất từ 1,69 lần năm 1998 lên 2 lần năm 2010.
Bố trí sản xuất:
- Cây lúa: Bố trí rộng khắp trên tất cả các huyện đất liền của tỉnh, đầu tư phát triển sản xuất theo hướng thâm canh tăng vụ kết hợp với mở rộng diện tích ở các vùng tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ theo hướng giảm diện tích 1 vụ mùa, tăng diện tích 2 vụ Đông xuân - Hè thu, nâng diện tích gieo trồng lúa từ 484.068 ha năm 1998 lên 555.721 ha năm 2000, 659.504 ha năm 2005 và 675.103 ha năm 2010.
Tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa với tất cả các vụ trong năm, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật như ứng dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật canh tác, phòng chống dịch hại tổng hợp (IPM), từng bước chủ động tưới tiêu, chống lũ, ngăn mặn, đưa năng suất lúa bình quân từ 4,02 tấn/ha năm 1998 lên 4,08 tấn/ha năm 2000, 4,39 tấn/ha năm 2005 và 4,74 tấn/ha năm 2010.
Sản lượng lúa tăng tương ứng từ 1.912.115 tấn năm 1998 lên 2.254.987 tấn năm 2000, 2.837.573 tấn năm 2005 và 3.239.075 triệu tấn năm 2010.
Tăng chất lượng lúa xuất khẩu, hình thành vùng lúa đặc sản quy mô 80.000ha, tăng cường chỉ đạo mùa vụ để thu hoạch trước khi lũ về ở vùng tứ giác Long Xuyên và Tây sông Hậu.
Các loại màu lương thực như khoai lang, và bắp sẽ được phát triển để phục vụ cho chăn nuôi, trước mắt trồng ở các huyện Hòn Đất, Hà Tiên, Châu Thành, sau đó sẽ mở rộng sang vùng tây sông Hậu theo mô hình canh tác 2 lúa + 1 màu.
- Cây công nghiệp ngắn ngày:
+ Cây mía có vai trò góp phần trong việc giải quyết việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông hộ và công nghiệp hóa nông nghiệp. Sẽ được trồng tập trung ở vùng Tây sông Hậu, bán đảo Cà Mau trên nền đất mía cũ và mở rộng trên diện tích vườn tạp, đất trồng lúa kém hiệu quả và một phần đất chưa sử dụng. Diện tích mía sẽ tăng từ 9.829ha năm 1998 lên 13.500 ha năm 2000, 18.150 ha năm 2005 và 21.400ha năm 2010. Sản lượng mía tăng tương ứng từ 396.190 tấn năm 1998 lên 648.900 tấn năm 2000, 1.036.100 tấn năm 2005 và 1.399.000 tấn năm 2010.
+ Cây dứa: Cải tạo dần giống khóm theo yêu cầu chế biến và phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới. Địa bàn sản xuất chính thuộc các huyện Vĩnh Thuận, Gò Quao, Châu Thành, Hòn Đất, Kiên Lương. Diện tích dự kiến năm 2000: 11.600 ha, năm 2005: 16.000 ha và năm 2010: 21.500ha. Sản lượng dứa năm 2000 là 126.650 tấn, năm 2005 là 199.000 tấn và năm 2010 là 305.500 tấn.
+ Cây ăn quả khác: tập trung cải tạo vườn tạp thành các vườn cây ăn quả chuyên và thâm canh với năng suất cao theo hướng sản xuất hàng hóa. Dự kiến diện tích cây ăn trái năm 2000: 5.557ha, năm 2005: 13.360ha, năm 2010: 19.405ha.
Các loại cây ăn quả chính có thể phát triển ở Kiên Giang là xoài, quít, nhãn, chuối, đu đủ, sabô... Sản lượng trái cây các loại năm 2010 khoảng 221 ngàn tấn.
- Cây công nghiệp lâu năm:
+ Cây dừa: ổn định diện tích khoảng 10.000ha tập trung chủ yếu ở các huyện thuộc bán đảo Cà Mau, Tây sông Hậu, hải đảo.
+ Cây tiêu: Xây dựng vùng chuyên canh cây tiêu chủ yếu tập trung ở Phú Quốc để xuất khẩu, ngoài ra còn phát triển với quy mô nhỏ và phân tán ở Hà Tiên, dự kiến diện tích năm 2000: 528 ha, năm 2005: 735ha và năm 2010 là 1050ha, sản lượng năm 2000: 1206 tấn, năm 2005: 1757 tấn và năm 2010: 2625 tấn.
+ Cây điều: Hình thành vùng chuyên canh cây điều tập trung ở Phú Quốc, Hòn Đất, Kiên Lương, diện tích cây điều năm 2000: 1.850 ha - sản lượng 645 tấn, năm 2005: 5001 ha - sản lượng 2661 tấn và 2010 diện tích 7213 ha - sản lượng 5364 tấn.
Phát triển ngành chăn nuôi:
- Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, tận dụng điều kiện thiên nhiên,các sản phẩm của trồng trọt và hải sản có lợi thế của tỉnh để phát triển chăn nuôi. Hình thức chăn nuôi chủ yếu là hộ gia đình, cần đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi đặc biệt là giống mới có năng suất chất lượng cao.
- Dự kiến giá trị sản xuất ngành chăn nuôi thời kỳ 1999-2000 tăng 19,67%, thời kỳ 2001-2005 tăng 13,18% và thời kỳ 2006-2010 tăng 13%. Tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 là 7,7%, năm 2005 là 10,5% và 2010 là 16%.
- Đàn heo: Mở rộng phát triển đàn heo theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, từng bước nâng cao chất lượng đàn heo theo hướng nạc hóa, giảm chi phí thức ăn. Dự kiến tăng quy mô tổng đàn từ 220.233 con năm 1998, lên 300.000 con năm 2000, 400.000 con năm 2005 và 600.000 con vào năm 2010.
Bảng dự kiến phát triển chăn nuôi
STT
Hạng mục
ĐV tính
Hiện trạng
Dự kiến
2000
2005
2010
1
Trâu
con
10.692
12.000
13.000
15.000
- Cày kéo
8.043
9.800
9.800
11.300
2
Bò
"
9.918
15.000
15.000
20.000
- Cày kéo
2.561
41.000
4.100
5.500
3
Heo
"
220.223
400.000
400.000
600
- Heo nái
26.841
40.100
40.100
60.200
4
Gia cầm
1000 con
2.260
5.000
5.000
6.000
- Đàn gia cầm: Phát huy ưu thế phát triển về vịt, đặc biệt là vịt chạy đồng ở vùng Tây sông Hậu. Tăng quy mô đàn, từng bước cải tạo đàn vịt theo hướng tăng tỷ lệ các giống có chất lượng cao, tăng trọng nhanh, trong đó tăng đàn vịt đẻ để xuất khẩu trứng. Quy mô đàn vịt sẽ tăng từ 1,1 triệu con năm 1998, 1,3 triệu con vào năm 2000, 2000 triệu con vào năm 2005 và 3 triệu con vào năm 2010. Đối với chăn nuôi gà khuyến khích hộ gia đình nuôi chủ yếu để đảm bảo cải thiện cho nhân dân trong vùng và chăn nuôi gà công nghiệp ven đô thị và thị trấn, thị tứ.
- Đàn trâu, bò: Chú trọng phát triển đàn bò ở Phú Quốc, Kiên Lương trước mắt theo hướng lấy thịt, sau phát triển theo hướng lấy thịt và lấy sữa, từng bước sinh hóa đàn bò. Phát triển đàn trâu chủ yếu ở vùng Tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau. Dự kiến đàn trâu sẽ tăng từ 10.692 con năm 1998 lên 12.000 con năm 2000, 13.000 con năm 2005 và 15.000 con vào năm 2010.
- Để tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển nhanh và ổn định trong tương lai, cần củng cố và xây dựng hai mô hình chăn nuôi:
+ Mô hình chăn nuôi gia đình: Mô hình chăn nuôi này chắc chắn sẽ còn tồn tại lâu dài. Vì vậy để hỗ trợ cho chăn nuôi gia đình phát triển sẽ chú trọng nâng cao kỹ thuật chăn nuôi trong nhân dân, mặt khác sẽ có sự hỗ trợ tích cực đối với mô hình này thông qua việc cung cấp giống, vốn thức ăn và đặc biệt là tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý, để mô hình chăn nuôi gia đình ngày càng phát triển ổn định.
+ Mô hình chăn nuôi công nghiệp: Mô hình này thích hợp với phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và rất thích hợp cho việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào chăn nuôi. Hiện nay Kiên Giang mô hình này còn rất ít, tỉnh nên có chủ trương chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển mô hình này.
- Để khuyến khích các mô hình chăn nuôi nói trên phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả cao, tỉnh Kiên Giang sẽ đầu tư xây dựng cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, chế biến sản phẩm chăn nuôi, liên doanh liên kết tìm thị trường tiêu thụ, tổ chức tốt khâ