Tuy Hoà là đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên, có Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua thành phố, có Quốc
lộ 25 và đường ĐT 645 nối liền các tỉnh Tây Nguyên, là 1 trong 5 cửa ngõ của Tây
Nguyên, rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá trên các vùng cả nước. Thành phố
có sân bay Tuy Hoà (Đông Tác) ở phía Nam với đường bay Tuy Hòa-TP.HCM và
ngược lại (mỗi ngày/chuyến), đường bay thẳng Hà Nội- Tuy Hòa- Hà Nội với (5
chuyến/ tuần).
Hệ thống bưu chính viễn thông, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt cả
trong nước và quốc tế. Với sự tham gia của các nhà mạng điện thoại rất phong phú
như: Vinaphon, Mobiphon, Viettel, Vietnammobi, S-Phone sẵn sàng đáp ứng mọi
như cầu của khách hàng với chất lượng dịch vụ ngày càng được cải thiện.
Về thủy điện, năng lượng của sông Đà Rằng được đánh giá rất cao. Sông Ba
xếp thứ năm trong các con sông có năng lượng khai thác lớn của cả nước, các nhà
máy thủy điện Sông Hinh (70MW); nhà máy thủy điện Sông Ba (220MW) sẽ cung
cấp điện cho hệ thống quốc gia, cắt lũ cho vùng hạ lưu Đà Rằng, tăng khả năng
nâng cấp nước cho đồng bằng Tuy Hòa và góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Phú Yên nói chung và thành phố Tuy Hoà nói riêng.
109 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 574 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội đến năm 2020; về sử dụng đất đến năm
2015 định hướng đến năm 2020; quy hoạch khu đô thị mới Nam thành phố Tuy
Hoà; quy hoạch chi tiết cho tất cả diện tích xây dựng đô thị và một số khu dân cư
trên địa bàn thành phố.
2.2 Tình hình phát triển KTTN ở thành phố Tuy Hoà
2.2.1 Khái quát giai đoạn từ năm 1986 đến 2000
Trong giai đoạn từ tháng 12-1986 đến 2000, về cơ bản các loại hình KTTN
ở thành phố Tuy Hoà vẫn chưa thực sự phát triển mạnh mẽ. Chủ yếu chỉ phát triển
ở loại hình hộ kinh tế cá thể, có đến gần 4000 hộ kinh doanh cá thể. Nhưng theo
số liệu từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Yên, DNTN và CT TNHH tính đến hết
năm 2000 chỉ có 50 DN với tổng số vốn đăng ký kinh doanh gần 150.000 triệu
đồng. Như vậy, sau năm 1986, KTTN ở thành phố Tuy Hoà đã phát triển trở lại,
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
45
bắt đầu trở thành lượng kinh tế trong thập niên 90 (của thế kỷ XX), nhưng thực sự
có những bước đột phá và phát triển mạnh mẽ từ sau năm 2000.
2.2.2 Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
2.2.2.1 Tăng về số lượng, đa dạng hóa về loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực
kinh doanh
Như đã nói trên, cho đến trước năm 2000, số lượng DNTN ở thành phố Tuy
Hoà chưa đầy con số 50 DN. Nhưng bắt nhịp cùng sự phát triển chung của đất
nước, từ năm 2000 cho đến nay, số lượng các DNTN đăng ký kinh doanh ngày càng
tăng lên, đặc biệt từ năm 2005 đến nay, hàng năm có khoảng 150 DN đăng ký kinh
doanh với số lượng vốn ngày càng tăng.
Bảng 2.1. Năng lực đầu tư vốn của các doanh nghiệp tư nhân
Năm Tổng số DN Tổng vốn đầu tư (triệu đồng)
2001 89 169.672
2002 141 247.400
2003 210 583.175
2004 303 718.621
2005 404 931.365
2006 504 1.108.409
2007 627 2.118.823
2008 751 2.602.211
2009 911 3.530.603
2010 1.063 3.190.593
(Nguồn: Sở Kế Hoạch - Đầu Tư tỉnh Phú Yên –Tháng3/2011)
Ngoài tăng về số lượng DN và lượng vốn đăng ký kinh doanh ban đầu, hàng
năm các DN còn đăng ký thay đổi ngành nghề và tăng lượng vốn kinh doanh. Năm
2009 có 184 DN đăng ký thêm ngành nghề kinh doanh với lượng vốn tăng thêm là
314.563 triệu đồng. Đến năm 2010 chỉ có 147 DN đăng ký thêm ngành nghề kinh
doanh nhưng lượng vốn đăng ký kinh doanh tăng thêm đến 1.170.867 triệu đồng.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
46
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng số DN
Tổng vốn đầu tư
Biểu đồ 2.1 Năng lực đầu tư vốn của các DNTN
Tuy nhiên, khi xem xét biểu đồ ta thấy rằng, tốc độ tăng trưởng tương quan
giữa vốn đầu tư và số lượng DNTN đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố có
những chênh lệch nhất định. Các DNTN đăng ký mới có tỷ lệ ổn định hơn, được thể
hiện bằng đường màu xanh. Trong khi đó, lượng vốn đầu tư không được ổn định,
riêng năm 2007 lượng vốn đầu tư tăng gần 50% so với lượng vốn đầu tư của năm
2006, trong khi số DN đăng ký chỉ tăng thêm gần 20%. Số liệu này cho thấy trong
thời gian này, DN đầu tư nhiều để mở rộng DN và DN đăng ký ban đầu có số vốn
điều lệ lớn, ở mức độ là những DN loại vừa. Đây cũng là điều dễ hiểu vì năm 2007 là
năm nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), điều này tạo cho người
dân niềm tin lạc quan trong đầu tư, kinh doanh. Nhưng ngay sau đó, với tình hình
khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ đầu tư chậm lại, đặc biệt năm 2010, số lượng DN
tăng 17% nhưng tổng vốn đầu tư bị giảm 11% vì các DN đăng ký mới chủ yếu là loại
hình DN nhỏ, vốn ít, đồng thời có sự thay đổi của DN đăng ký giảm vốn.
Không chỉ tăng về số lượng DN và tổng vốn đầu tư mà về loại hình kinh
doanh của các doanh nghiệp cũng có những bước phát triển nhất định, nhất là sự ra
đời của các công ty cổ phần ngày một nhiều hơn; các lĩnh vực kinh doanh cũng đa
dạng và phong phú hơn.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
47
Bảng 2.2. Cơ cấu các loại hình và lĩnh vực kinh doanh.
Loại hình/lĩnh vực 2006 2007 2008 2009
* Loại hình DN
- DNTN
- CTTNHH
- CTCP
367
197
154
16
458
235
195
28
526
244
250
32
594
270
283
41
* Lĩnh vực kinh doanh
- Nông nghiệp
- Công nghiệp
- Xây dựng
- TM-DV
-
64
50
253
-
76
68
314
-
79
89
358
-
79
103
412
(Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Phú Yên - 2010)
Thông qua thống kê, ta thấy rằng số lượng các DN thuộc KTTN ngày càng
tăng lên, đồng thời đa dạng về loại hình và ngành nghề kinh doanh. Trong đó, nếu
xét về tỷ lệ, loại hình, số lượng CTCP trong giai đoạn này có mức tăng khá mạnh.
Theo nguồn của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh đến năm 2000 toàn tỉnh mới có 1
CTCP đầu tiên nhưng cho đến năm 2010 toàn tỉnh đã có 200 công ty. Sự hình thành
của CTCP ở nước ta có 2 con đường cơ bản: được cổ phần hoá từ những DNNN,
hoặc đi lên từ sự phát triển của các DNTN. Trong phần thống kê này, chỉ bao gồm
các CTCP của KTTN thuộc khu vực thành phố Tuy Hoà, điều đó cho thấy rằng sự
phát triển ngày càng lớn mạnh về vốn và quy mô kinh doanh của KTTN. Rõ ràng
đây là yếu tố cần thiết cho các DN trong nền KTTT, sự phát triển của DNTN lên
quy mô lớn hơn là CTCP, cho phép DN mở rộng quy mô hoạt động và đồng thời có
khả năng huy động vốn rộng hơn khi tham gia phát hành cổ phiếu trên thị trường
chướng khoán. Đồng thời, sự ra đời ngày càng nhiều các CTCP còn thể hiện xu
hướng cân đối giữa kinh tế nhà nước với KTTN, khi nhà nước đẩy nhanh quá trình
cổ phần hoá các DNNN.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
48
Sự phát triển của DNTN không chỉ ở loại hình DN, mà còn thể hiện qua sự
tăng lên của số lượng DN trong lĩnh vực TM - DV. Sự gia tăng trong lĩnh vực TM –
DV hàng năm khoảng 68%, điều này cho thấy sự chuyển dịch theo hướng tích cực
của nền kinh tế, đó là gia tăng tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế tỉnh nhà. Trong
các DN kinh doanh dịch vụ vận tải ở Phú Yên nói chung và thành phố Tuy Hoà nói
riêng, điều đặc biệt là loại hình dịch vụ này được phát triển mạnh ở tỉnh ta nói
chung mà tập trung chủ yếu là thành phố Tuy Hoà. Với số lượng nhất định nhưng
các chủ DN chú trọng rất nhiều vào chất lượng, đầu tư lớn cho loại hình xe chất
lượng cao, cung cách phục vụ hiện đại tạo nên thương hiệu cho ngành vận tải của
Phú Yên trên khắp cả nước.
Ngoài các loại hình chủ yếu của KTTN, hộ kinh doanh cá thể, nhỏ lẻ trong
thời gian qua cũng tăng lên đáng kể, từ 6537 hộ (năm 2005) đến 2008 là 8703 hộ và
sang năm 2009 tăng lên đến 9483 hộ. Đa số các hộ này kinh doanh trong lĩnh vực
TM - DV, với những dịch vụ và buôn bán nhỏ hay hoạt động tiểu thủ công nghiệp.
Hàng năm, số hộ kinh doanh cá thể đã giải quyết một số lượng lao động lớn cho xã
hội, đồng thời góp phần làm cho hàng hoá được lưu thông dễ dàng hơn. Không chỉ
vậy, các hộ kinh doanh cá thể còn là lực lượng dự bị của các DNTN, bởi quá trình
lớn dần lên của các hộ cá thể đến một lúc nhất định sẽ trở thành các DNTN.
2.2.2.2 Đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
Điều quan trọng hiện nay khi xem xét một thành phần kinh tế, không phải là nguồn
gốc sở hữu của nó, mà là khả năng đóng góp của nó vào GDP quốc gia là bao nhiêu.
Với tiêu chí đó, các DN thuộc KTTN ngày càng có những đóng góp quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Cơ cấu GDP của DN trong năm 2009 chiếm
47,80% trong tổng GDP toàn tỉnh; trong đó, DNNN chỉ chiếm 0,33%, doanh nghiệp thuộc
KTTN chiếm 44,27% và DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,20%. Đồng thời trong
năm 2009 các DN đóng góp vào ngân sách nhà nước 364 tỷ đồng, chiếm 32,67%
tổng thu trong cân đối ngân sách tỉnh; trong đó: DNNN 49 tỷ đồng, tăng 21% so
cùng kỳ năm 2008; DN có vốn đầu tư nước ngoài 38 tỷ đồng, giảm 37% so cùng kỳ
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
49
năm 2008 và DN thuộc KTTN 277 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2008.[24]
Riêng với thành phố Tuy Hoà, trong 5 năm qua (2005 – 2010), tăng trưởng
bình quân GDP của thành phố đạt 21,82%, trong đó có sự đóng góp khoảng 50%
của KTTN. Trong tổng thu ngân sách của các loại hình DN, các DN thuộc KTTN
đóng góp khoảng 71%. Trong đó, loại hình công ty TNHH và CTCP đóng góp
khoảng 53,8% (CTCP chiếm 28,3%), còn lại 17,2% là các DNTN. Nếu chia theo
loại hình kinh doanh của các DN thuộc KTTN của thành phố, thì nông nghiệp chỉ
đóng góp khoảng 0,14%, công nghiệp chiếm 31,6% và dịch vụ chiếm 68,26%. Và
cũng theo báo cáo của đội thuế thành phố Tuy Hoà năm 2009 lực lượng này đóng
góp vào ngân sách nhà nước là 152.550,8 triệu đồng. Bảng 2. 3 cho thấy đóng góp
cụ thể qua hàng năm của KTTN trong một số ngành ở thành phố Tuy Hoà trong 3
năm qua (từ năm 2007 – 2009). Trong đó những ngành mà KTTN có đóng góp
nhiều nhất vào tăng trưởng kinh tế là TM – DV từ 60% đến 68% , sau đó đến công
nghiệp và xây dựng. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như sự tham gia của
các DNTN rất hạn chế và giảm dần từ 0,2% năm 2007 nhưng đến năm 2009 chỉ còn
0,1%. Điều đó có nghĩa là nông nghiệp vẫn không phải là đối tượng hấp dẫn các
nhà đầu tư tư nhân ở Thành phố Tuy Hoà, mặc dù tỉnh Phú Yên là tỉnh thuần nông.
Không chỉ góp phần tăng trưởng kinh tế thành phố, KTTN còn tham gia giải
quyết việc làm cho người lao động của địa phương. Thành phố Tuy Hoà hiện đang
có khoảng 100.000 người đang ở độ tuổi lao động, hàng năm có thêm khoảng 3000
người đến tuổi lao động. Ngoài lực lượng hiện đang làm việc tại các địa phương
khác nhau trên toàn quốc và một số tham gia lao động ở nước ngoài (không nhiều),
số lao động hiện đang làm việc trong các lĩnh vực như: sản xuất công nghiệp, xây
dựng, TM - DV, giao thông vận tải tính đến hết năm 2009 có đến 43.717 người.
Trong đó, các DN thuộc KTTN giải quyết được 24.903 người chiếm 57% số lượng
người hiện có việc làm, bộ phận cá thể, tiểu chủ giải quyết được 16.706 người
chiếm 38,2%. Các DNNN chỉ giải quyết được khoảng 1.695 chiếm 3,9% lao động
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
50
Bảng 2.3: Đóng góp của KTTN trong một số ngành ở T.P.Tuy Hoà qua 3 năm (2007-2009)
so sánh
2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
SL
(trđ)
%
SL
(trđ)
%
SL
(trđ)
% +/- % +/- %
Tổng số 150347,4 100,0 170849 100,0 200999,1 100,0 20501,9 113,6 301498 117,7
I. Theo loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân 47039,4 31,3 51181,1 30,0 48448,3 24,1 4141,7 108,8 2732,7 94,7
Công ty trách nhiệm hữu hạn 49807,3 33,1 56482,2 33,1 72332,0 36,0 6674,9 113,4 15849,8 128,1
Công ty cổ phần 53503,7 35,6 63186,0 36,9 80218,8 39,9 9685,3 118,1 17032,8 127,0
II. Theo lĩnh vực kinh doanh
Nông nghiệp 344,7 0,2 279,2 0,2 281,4 0,1 65,5 81,0 2,2 100,8
Công nghiệp 41000,6 27,3 34431,4 20,1 38189,8 19,0 6569,2 84,0 3758,4 110,9
Xây dựng 18080,1 12,0 20318,4 11,9 26129,9 13,0 2238,3 112,4 5811,5 128,6
TM-DV 90922,0 60,5 115830,3 67,8 136398,0 67,9 24908,3 127,4 20567,7 117,8
( Nguồn: Cục thống kê tỉnh Phú Yên năm 2010)ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
51
Bảng 2.4: Số lượng đơn vị KTTN trên địa bàn thành phố Tuy Hoà qua 3 năm (2007 - 2009)
so sánh
2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
SL (dn) % SL (dn) % SL (dn) % +/- % +/- %
Tổng số 8961 100 9180 100 10076 100 219 102,4 896 109,8
I. Doanh nghiệp. 458 5,1 526 5,7 594 5,9 68 114,9 68 112,9
Theo loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân 235 51,3 244 46,4 270 45,5 9 103,8 26 110,7
Công ty trách nhiệm hữu hạn 195 42,6 250 47,5 283 47,6 55 128,2 33 113,2
Công ty cổ phần 28 6,1 32 6,1 41 6,9 4 114,3 9 128,1
Theo lĩnh vực kinh doanh
Nông nghiệp - - - - - - - - - -
Công nghiệp 76 16,6 79 15,0 79 13,3 3 104 0 100
Xây dựng 68 14,9 89 16,9 103 17,3 21 130,9 14 115,7
TM-DV 314 68,5 358 68,1 412 69,4 44 114 54 115,1
II. Cá thể 8503 94,9 8654 94,3 9482 94,1 151 101,8 828 109,6
( Nguồn: Cục thống kê và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Yên)ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
52
và DN có vốn đầu tư nước ngoài giải quyết khoảng 153 lao động chiếm 0,9%. Như
vậy, hơn 90% số lượng người đang có việc làm là do khu vực KTTN tạo ra. Việc
đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá DNNN, và việc ra đời, phát triển của các DNTN cũng
tạo thêm ngày càng nhiều việc làm cho cư dân thành phố. Qua đó ta cần nắm thêm
rằng, lực lượng lao động của các DN thuộc KTTN năm 2007 là 14.714 người, năm
2008 là 18.058 người (tăng thêm 22,7% so với năm trước), năm 2009 là 24.903
người (tăng 37,9% so với năm trước). Các hộ cá thể năm 2007 giải quyết được
13.192 lao động, đến năm 2008 là 14006 lao động (tăng 6,2% so với năm trước) và
2009 là 16.706 lao động (tăng 19,3% so với năm trước). Số liệu này sẽ được phân
tích thêm ở mục 2.3.2.2
Sự gia tăng của việc làm và tăng trưởng kinh tế còn thể hiện qua sự gia tăng của số
lượng DN đang tăng lên hàng năm (thể hiện qua bảng 2.4). Qua bảng ta thấy rằng, số
lượng các đơn vị kinh doanh thuộc KTTN tăng theo hàng năm, năm 2008 tăng 2,4% so
với năm 2007, nhưng năm 2009 tăng 9,8% so với năm 2008. Con số này thể hiện một số
vấn đề sau: trước hết, sự ra đời của các DN mới đồng nghĩa với việc tạo nhiều cơ hội mới
cho những người thất nghiệp tìm kiếm việc làm. Nhưng tốc độ tăng của năm 2008 thấp
cũng thể hiện tình hình khó khăn chung của kinh tế trên toàn thế giới, năm 2009 cũng có
những bước cải thiện nhất định. Với lĩnh vực kinh doanh, TM – DV vẫn có sức hấp dẫn
các nhà đầu tư tư nhân, thể hiện qua tỷ lệ trên 68% hàng năm, xây dựng là lĩnh vực kinh
doanh có tốc độ tăng cao nhất trong 3 năm qua từ 14,9% năm 2007 đến 17,3% năm 2009,
lĩnh vực công nghiệp trong 3 năm chỉ tăng thêm 3 DN đăng ký kinh doanh. Rõ ràng, trong
những năm vừa rồi cơ sở hạ tầng của khu vực thành phố Tuy Hoà đang được xây dựng
mạnh mẽ dẫn đến sự tăng trưởng cao của các DN trong lĩnh vực xây dựng, đây là tín hiệu
tích cực cho phát triển kinh tế ở địa phương, cơ sở hạ tầng đi trước một bước sẽ là tiền đề
kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Tuy nhiên, số lượng hộ cá thể chiếm
94,1% (năm 2002) trong tổng số đơn vị kinh doanh của KTTN, thể hiện tiềm lực kinh tế
còn nhỏ bé của thành phố và mang tính nhỏ lẻ, manh mún.
Ngoài vấn đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động,
trong những năm qua KTTN góp phần tích cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
53
kinh tế của tỉnh Phú Yên đã tiếp tục chuyển biến đúng hướng (Công nghiệp – Xây dựng,
Dịch vụ, Nông nghiệp).
Bảng 2.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các ngành từ 2005 đến 2010
Năm
Cơ cấu kinh tế (%)
Công nghiệp –
Xây dựng
Dịch vụ Nông nghiệp
2005
2010
30,0
34,9
34,3
36,4
35,7
28,7
(Nguồn: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ 14 (2006 –
2010) và lần thứ 15 (2010 – 2015)
Bảng 2.5 cho thấy: Tổng GDP của Công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu
Kinh tế của Tỉnh đã tăng từ 64,3% (2005) lên 71,3% (năm 2010). Trong giá trị tổng
sản phẩm được tạo ra trên toàn tỉnh thì KTTN chiếm 62%, thành phố Tuy Hoà có đóng
góp đáng kể khoảng 50%. Đặc biệt nổi lên ở thành phố Tuy Hoà là phần dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn và có tốc độ phát triển nhanh (Bảng 2.6).
Bảng 2.6. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ thuộc KTTN (triệu đồng)
Năm
Đơn vị
2005 2006 2007 2008 2009
Toàn tỉnh 2.799.314 3.364.993 4.032.262 5.617985 6.823.190
TP.Tuy Hoà
(%)
997.200
(35,6%)
1.567900
(46,6%)
1.948.600
(48,3%)
2.309.357
(41,1%)
2.788.356
(40,9%)
(Nguồn : Niên giám thống kê, cục thống kê tỉnh Phú Yên, 2010)
Tỉnh Phú Yên gồm 9 đơn vị hành chính, trong đó thành phố Tuy Hoà là 1
trong 9 đơn vị, với vai trò là đơn vị trung tâm cho cả tỉnh, tổng mức bán lẻ của khu
vực thành phố luôn luôn cao chiếm từ 35,6% cho đến 48,3% (Bảng 2.6) trong tổng
mức bán lẻ chung trên toàn tỉnh, đây là ưu thế mà các nhà đầu tư tư nhân luôn biết
tận dụng và khai thác. Tuy nhiên, để lợi thế này luôn phát huy hiệu quả nhà đầu tư
cần phải quan tâm chăm sóc đến người tiêu dùng, đa dạng hoá các mặt hàng lẫn loại
hình phân phối sản phẩm, đồng thời tìm kiếm đối tác mở rộng thị trường phân phối
của mình ra các khu vực của các tỉnh lân cận. Sự gia tăng của mức bán lẻ và doanh
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
Ê
́ HU
Ế
54
thu trong thời gian từ năm 2005 cho đến năm 2007 (từ 35,6% đến 48,3%), phản ánh
thời kỳ lạc quan trong tiêu dùng của người dân Phú Yên nói riêng và Việt Nam nói
chung, với tốc độ tăng trởng kinh tế cao liên tục và những tín hiệu tích cực từ chính
sách vĩ mô của Nhà nước như chính thức gia nhập WTO. Tuy nhiên, năm 2008 đến
2009, tốc độ giảm dần còn 40,9%, điều này cũng có nguyên nhân của nó, đó là ảnh
hưởng của tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ lạm phát tăng liên tục,
buộc người dân phải cắt giảm chi tiêu nhằm đối phó với khủng hoảng, dẫn đến
doanh thu từ bán lẻ hàng hoá giảm.
2.3 Năng lực về khai thác, sử dụng các nguồn lực trong phát triển KTTN ở
thành phố Tuy Hoà
Mục 2.2.2 phác hoạ tổng thể về quy mô, loại hình lĩnh vực kinh doanh, cho
đến những đóng góp đáng kể của KTTN trên địa bàn thành phố Tuy Hoà trong
những năm gần đây. Phần 2.3 sẽ tập trung đánh giá khả năng của việc khai thác và
sử dụng các nguồn lực (vốn, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, thị trường,)
trong KTTN, thông qua việc khảo sát và đánh giá một số doanh nghiệp điển hình.
2.3.1 Năng lực về vốn và khai thác vốn
Vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu trong quá trình SXKD. Có vốn là có
các yếu tố đầu vào khác để SXKD, đó chính là vị trí đặc biệt quan trọng của vốn
trong hoạt động của nền KTTT. Đa số các cơ sở KTTN ở thành phố Tuy Hoà đều ở
thời kỳ đầu của khởi sự DN, cho nên vốn gần như quyết định đến quy mô và kết
quả kinh doanh. Theo kết quả tổng hợp của Sở Kế Hoạch và Đầu Tư năm 2009,
tổng vốn của DN đăng ký mới là 1.856 tỷ đồng, bình quân 5,8 tỷ đồng/doanh nghiệp,
trong đó: DNTN vốn đăng ký là 74 tỷ đồng, bình quân 0,79 tỷ đồng/DN; CT TNHH
vốn đăng ký là 847 tỷ đồng, bình quân 4,6 tỷ đồng/DN; CTCP vốn đăng ký là 935
tỷ đồng, bình quân 22,3 tỷ đồng/DN. Và theo kết luận của Báo cáo về Tình hình sản
xuất kinh doanh của DN, 319 DN đăng ký mới là DN vừa và nhỏ. Qua số liệu điều
tra ở Bảng 2.7, số vốn trung bình ở các DN thuộc KTTN của thành phố Tuy Hoà là
10,61 tỷ đồng. Trong đó, DNTN có số vốn bình quân thấp nhất là 3,56 tỷ đồng, CT
TNHH là 9,96 tỷ đồng và cao nhất là CTCP 56,99 tỷ đồng. Xét theo lĩnh vực kinh
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
55
doanh, vốn đầu tư trung bình cao nhất ở lĩnh vực công nghiệp 14,09 tỷ đồng và thấp
nhất là TM – DV với số vốn 9,09 tỷ đồng. Đây cũng là một biểu hiện bình thường
trong cơ cấu vốn xét theo lĩnh vực kinh doanh, bởi lĩnh vực công nghiệp luôn cần
lượng vốn đầu tư cao hơn các lĩnh vực khác, do đầu tư ban đầu cho lượng vốn cố
định cao. Như vậy, đa số các DN của tỉnh Phú Yên nói chung và thành phố Tuy
Hoà nói riêng đều thuộc loại nhỏ và vừa[24]
Bảng 2.7:Số vốn bình quân của DN thuộc KTTN
ĐVT Chung
Theo loại hình DN Theo lĩnh vực KD
DNTN CT TNHH CTCP CN XD TMDV
1. Tổng số DN
2. Tổng vốn
3. Bình quân
DN
tỷ đồng
tỷ đồng
603
6395,90
10,61
270
962,25
3,56
288
2869,04
9,96
45
2564,61
56,99
86
1211,60
14,09
106
1448,59
13,67
411
3735,71
9,09
Nguồn: Số liệu điều tra DN của Cục thống kê Phú Yên năm 2010
Bảng 2.8: Quy mô và cơ cấu vốn của DN thuộc KTTN Thành phố Tuy Hoà
( tính bình quân doanh nghiệp)
ĐVT Chung DNTN CTTNHH CTCP
Tổng vốn Tỷ đồng 10,61 3,56 9,96 56,99
I.Nguồn vốn:
Vốn tự có Tỷ đồng 6,15 2,07 7,37 35,90
% 57,96 58,15 73,99 62,99
Vốn vay Tỷ đồng 4,46 1,49 2,59 21,09
% 42,04 41,85 26,01 37,01
II. Theo tính chất:
Vốn cố định Tỷ đồng 4,49 1,18 5,18 20,52
% 42,32 33,15 52,01 36,01
Vốn lưu động Tỷ đồng 6,12 2,38 4,78 39,47
% 57,68 66,85 47,99 69,26
III. Chia tổ theo quy mô:
< 5 tỷ % 79,2 73,53 44,25 12,23
5 tỷ - 50 tỷ % 18,4 26,47 30,75 33,33
>50 tỷ % 2,4 - 25,00 54,44
(Nguồn:Số liệu điều tra DN của Cục thống kê Phú Yên năm 2010)
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
56
Trong cơ cấu và quy mô vốn, số vốn tự có chiếm 57,96% phần còn lại là
vốn vay, đây cũng được xem là tỷ lệ vốn có thể đảm bảo cho hoạt động DN diễn
ra bình thường. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, trong điều kiện khủng
hoảng và lạm phát như hiện nay, vốn tự có phải đạt khoảng 70%, mới đảm bảo
an toàn, nếu vay nhiều rủi ro tài chính càng cao. Trong các loại hình chỉ có loại
hình CT TNHH đạt được mức 73,99%, nhưng về cơ bản cũng không phải là dấu
hiệu lạc quan, vì có nhiều trường hợp vốn tự có của DN là nhà cửa, đất đai của
chủ DN. Sau khi dùng như là phần vốn tự có của DN, chủ DN lại mang đi cầm
cố để vay thêm vốn sản xuất. Trong những trường hợp này khả năng mở rộng
DN trở nên khó khăn, đặt biệt trong điều kiện lại suất ngân hàng trên 20% như
hiện nay. Và nếu, vốn góp bằng giá trị tài sản đất đai thì đồng tiền phục vụ cho
SXKD sẽ không có, gây những khó khăn nhất định cho DN, nhưng nếu vốn góp
thuần là tiền thì sẽ rất thuận lợi cho việc mua sắm tài sản và đầu tư ban đầu cho
DN. Như vậy, DN thuộc KTTN của thành phố Tuy Hoà chủ yếu là DN nhỏ và
vừa. Độ lớn của DN cũng được tạo ra từ vốn vay, nhưng tỷ lệ vốn vay cao quá
mức cho phép, điều này dẫn đến tuổi thọ của các DN cũng sẽ trở nên ngắn ngủi.
Ngoài ra, các DNTN còn có điểm hạn chế khác trong tỷ lệ vốn lưu động của DN,
66,85% với loại hình DNTN và 69,26% với loại hình CTCP, thể hiện đầu tư ban
đầu của các loại hình DN này không cao, chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực TM –
DV chứ không phải là những ngành có đầu tư công nghệ cao. Về quy mô trong
mức trung bình chung, quy mô DN dưới 5 tỷ chiếm tỷ lệ cao 79,2% và loại hình
DNTN ở mức này chiếm tỷ lệ 73,53% cao nhất trong các loại hình DN.
Như vậy, quy mô và cơ cấu nguồn vốn của mỗi DN không chỉ phụ thuộc đặc
thù ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà còn phản ánh hiện thực sự chọn lựa những
ngành, nghề, mặt hàng có những yêu cầu đầu tư ban đầu không lớn lắm. Điều này
cho thấy KTTN ở Thành phố, thật ra đang ở thời kỳ đầu của sự lựa chọn đầu tư và
phát triển
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu về DN, tôi cũng nhận thấy rằng có
một số DN khi khởi sự, họ chỉ có 30% vốn tự có tức là nhà và đất đang ở được
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
57
dùng làm nơi SXKD. Hoặc cũng có một vài trường hợp, thành lập những công ty
TNHH chuyên trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế lượng vốn thật tự có của họ còn
thấp hơn mức 30% vốn đăng ký. Rõ ràng, đây là những vấn đề cần quan tâm khi
bàn về vốn của KTTN.
2.3.2. Về nguồn nhân lực
2.3.2.1. Về chủ Doanh nghiệp
Chủ các DN thuộc KTTN đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
SXKD của DN, họ là người có ảnh hưởng lớn nhất đến các quyết định của DN. Hơn
thế, các chủ DN đa số là người bỏ vốn hoặc là người có phần vốn góp lớn nhất
trong các DN nên họ có trách nhiệm rất cao khi đưa ra những quyết định cho hoạt
động SXKD của DN. Sự thành công của DN cũng là sự thành công của người đứng
đầu doanh nghiệp, đồng thời mang về cho họ các giá trị tài sản lớn hơn. Vì thế năng
lực của chủ DN cũng là yếu tố rất quan trọng cho phát triển KTTN.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã thực hiện điều tra một số DN tiêu biểu
để tìm hiểu về tình hình nguồn vốn, nguồn nhân lực, trình độ khoa học công
nghệ, với cấu điều tra như sau:
Bảng 2.9 Mô tả cơ cấu DN tiến hành điều tra
Loại hình doanh nghiệp Lĩnh vực kinh doanh
DNTN CTTNHH CTCP CN XD TM-DV
Tổng số DN 270 288 45 86 106 411
Số DN điều tra 20 21 5 7 11 28
Tỷ lệ (%) 7,41 7,29 11,11 8,14 10,38 6,82
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TẾ
HU
Ế
58
Trong số liệu điều tra sơ bộ năm 2011của tác giả, thể hiện ở Bảng 2.10 cho thấy:
Bảng 2.10: Một số đặc điểm chung về chủ DN
ĐVT Chung
Theo loại hình DN Theo lĩnh vực KD
DNTN TNHH CTCP CN XD TMDV
1.Giới tính
Nam
Nữ
2.tuổi
3.Trình độ
chuyên môn
Đại học
Cao đẳng
Chưa qua đào tạo
%
%
năm
%
%
%
60,8
39,1
55,7
47,8
21,7
30,5
100,0
52,9
47,1
59,6
17,7
23,5
58,8
100,0
70,8
29,2
52,5
58,3
25,0
16,7
100,0
60,0
40,0
58,4
100,0
-
-
100,0
72,7
27,3
53,6
54,5
36,4
9,1
100,0
70,0
30,0
49,5
90,0
10,0
-
100,0
52,00
48,00
59,2
28,0
20,0
52,0
100,0
(Nguồn: số liệu điều tra của tác giả năm 2011)
Thứ nhất, về chủ DN, nam giới chiếm 60,8% và nữ giới chỉ chiếm 39,1%,
phản ánh sự cân đối về giới trong các chủ DN đang phát triển theo chiều hướng tích
cực, số nữ giới làm chủ DN đang dần tăng lên.
Hơn thế, sự cân đối về giới cũng còn tuỳ thuộc vào loại hình SXKD, nữ giới
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực TM – DV (chiếm 48%), và ít nhất trong lĩnh vực
công nghiệp (chiếm 27,3%).
Thứ hai, về trình độ chuyên môn. Các chủ DN có trình độ đại học chiếm
47,8%, cao đẳng chiếm 21,7% và chưa qua đào tạo chiếm 1/3 (30,5%). Các chủ DN
có trình độ chuyên môn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp
và loại hình CTCP với công ty TNHH. Bộ phận chưa qua đào tạo, chủ yếu tập trung
là các DNTN với hoạt động TM - DV. Đây cũng là hạn chế của các chủ DN thuộc
KTTN của cả tỉnh, đa phần những chủ DN trong lĩnh vực kinh doanh này chưa qua
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
59
đào tạo. Họ đi lên từ thực tiễn và lãnh đạo chỉ nhờ tiền vốn tích cóp được. Điều đó,
làm hạn chế quá trình điều hành, quản lý DN và nắm bắt thị trường, làm cho khả
năng phát triển DN lên loại hình cao hơn cũng bị hạn chế.
Thứ ba, về tuổi đời các chủ DN rất cao – 55,7 tuổi (theo Điều tra sơ bộ),
trong khi đó, DNTN đầu tiên được thành lập (DN theo Điều tra sơ bộ) năm 1997.
Như vậy, do điều kiện hạn chế của lịch sử, đa số họ ít được đào tạo,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_kinh_te_tu_nhan_o_thanh_pho_tuy_hoa_tinh_phu_yen_3195_1912327.pdf