Luận văn Phát triển nguồn nhân lực cho các Khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015

Quá trình mở rộng và phát triển các KCX, KCN l à quá trình góp ph ần

đáng kể vào chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế th ành phố, chuyển từ một

vùng nông nghi ệp lạc hậu với năng suất thấp th ành vùng công nghi ệp, phát triển

toàn diện về kinh tế, văn hóa, x ã hội . . .

Về chuyển dịch c ơ cấu kinh tế th ành phố, trước đây Quận 2, 7, 12, Tân

Bình, Thủ Đức, Bình Chánh, C ủ Chi, Nhà Bè là nh ững huyện nông thôn ngoại

thành, vùng ven thành phố, giá trị sản xuất công nghiệp thấp; tuy nhi ên, từ khi

có KCX, KCN trên các đ ịa bàn này, đã chuyển hóa những v ùng nông thôn, đ ầm

lầy hoang hóa, v ùng đất bạc màu tại nơi đây thành nh ững nơi trù phú về sản xuất

công nghiệp, khang trang về hạ tần g kỹ thuật –xã hội, có không gian xanh t ươi.

Giá trị sản xuất công nghiệp ngo ài quốc doanh của các quận, huyện tr ên trong

vòng vài năm đã tăng đáng kể.

pdf76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1942 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển nguồn nhân lực cho các Khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
X. Vốn đầu t ư ước thực hiện 1,467 tỷ USD, đạt 79% vốn đầu tư đăng ký. - Thuế và các khoản nộp ngân sách: Số thu ngân sách về thuế tiếp tục tăng cao trong năm 2007, ước đạt 1.100 tỷ đồng, đạt 106,5% kế hoạch năm 2007 (1.032 tỷ đồng) và tăng 60% so với năm 2006. Vốn đầu tư của các công ty phát triển hạ tầng v à các ngành cung ứng dịch vụ Về đầu tư hạ tầng KCX, KCN , có 12 công ty phát triển hạ tầng KCX, KCN, trong đó có 02 đơn vị liên doanh với nước ngoài, các đơn vị còn lại là doanh nghiệp trong nước. Tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCX, KCN để phục vụ cho nhà đầu tư là 270 triệu USD. Ngoài ra, các ngành cung ứng phát triển mạnh như: Nước (Công ty cấp nước thành phố), Điện (Công ty Điện lực thành phố và Công ty điện Hiệp Phước), Bưu chính viễn thông (VNPT, Viettel, SPT . . . ), Xăng dầu v à Ngân hàng thương mại (Việtcombank, Sacombank, Incombank, Ngân h àng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VIB Bank , Ngân hàng Phương Nam . . .) đã thành lập các chi nhánh và phòng giao dịch, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị máy móc thiết bị tại các KCX, KCN để đáp ứng kịp thời nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp v à người lao động (dich vụ trả lương thông qua tài khoản cá nhân, hệ thống ATM) với tổng vốn đầu tư trên 281,3 triệu USD. 2.2.2. Về kim ngạch xuất khẩu - Xuất khẩu: năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của các KCX, KCN ước đạt 2.700 triệu USD, tăng 16% so với năm 2006 ( 2.320 triệu USD ), đạt 100% kế hoạch 32 năm 2007; cấp 2.000 Giấy chứng nhận xuất xứ h àng hóa ASEAN mẫu D cho các doanh nghiệp với giá trị 50 triệu USD. Như vậy, việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) và Mỹ bình thường hóa quan hệ vĩnh viễn với Việt Nam đã góp phần gia tăng kim nghạch xuất khẩu của các KCX, KCN th ành phố.(xem phụ lục 2.4) Các nhóm hàng xuất khẩu chính bao gồm: may mặc ( chiếm tỷ trọng 39,81% kim nghạch xuất khẩu ), điện - điện tử ( 17,92% ), cơ khí – cơ khí điện ( 14,46% ), hóa chất, hóa dầu ( 5% ), thực phẩm ( 4,78% ), vật liệu xây dựng (4,8%). - Nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu trong năm ước đạt 2.300 triệu USD, tăng 32% so với năm 2006 (1.740 triệu USD), đạt 110% kế hoạch năm 2007 (2.100 triệu USD). Như vậy, so sánh giữa kim ngạch xuất khẩu v à kim ngạch nhập khẩu, các KCX, KCN đạt giá trị xuất siêu là 400 triệu USD, góp phần tạo nguồn ngoại tệ và tăng GDP của Thành phố. 2.2.3. Về trình độ kỹ thuật, công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý Công nghệ của các doanh nghiệp trong KCX, KCN thời gian ban đầu thường là các loại công nghệ thâm dụng lao động, sử dụng nguồn nguy ên liệu dễ tìm trên thị trường như các ngành dệt may, lắp ráp điện tử; chủ yếu là gia công. Càng về sau, khi độ an toàn của môi trường đầu tư cho phép, các nhà đầu tư nâng trình độ công nghệ lên, đi vào những lĩnh vực công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa. Một số lĩnh vực kỹ thuật công nghệ cao tại KCX, KCN đã được các doanh nghiệp đầu tư thể hiện qua các dây chuyền sản xuất các sản phẩm như: hộp số tự động ô tô, cáp điện, linh kiện điện -điện tử của các Công ty Furukawa, Nikkiso, Saigon Precision, Chubu Rika, Nidec Tosok. Ngoài ra, m ột số nhà đầu tư bắt đầu đi vào công nghệ của nền kinh tế tri thức như thiết kế, sản xuất con chip, phần mềm điện toán như Công ty Renesas. Mặt khác, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp KCX, KCN đ ã chuyển giao dần việc quản lý và điều hành sản xuất cho người lao động Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp đã bố trí, sử dụng người lao động Việt Nam vào 33 các vị trí, chức danh công việc quan trọng nh ư: tổ trưởng các bộ phận, quản đốc, trưởng phòng, giám đốc, phó giám đốc, hoặc thành viên Hội đồng quản trị. Qua đó, giúp lao động Việt Nam tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của nước ngoài. 2.2.4. Về giải quyết việc làm Việc hình thành các KCX, KCN và sự gia tăng của khu vực đầu tư nước ngoài đã thu hút, giải quyết việc làm ngày càng nhiều cho người lao động kể cả lao động của thành phố và lao động từ các tỉnh. Tính đến 31/12/200 7, các KCX- KCN đã thu hút được 249.525 lao động, trong đó lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 179.383 người, chiếm tỉ lệ 72%. Lực lượng lao động trong KCX, KCN chủ yếu là lao động trẻ có độ tuổi trung b ình từ 18 đến 25, lao động nhập cư chiếm trên 60% và tỷ lệ lao động chiếm khoảng 67% tổng số lao động. Bảng 2.1 Tình hình thu hút lao động của các KCX, KCN Tp.HCM (Tính đến 31/12/2007) Stt KCX - KCN Số lao động (người) Lao động nữ (người) 1 Bình Chiểu 5.500 2.340 2 Cát Lái 2 4.064 1.641 3 Hiệp Phước 4.537 1.569 4 Lê Minh Xuân 9.008 4.017 5 Tây Bắc Củ Chi 18.059 11.688 6 Tân Bình 28.872 14.279 7 Tân Tạo 25.868 11.343 8 Tân Thới Hiệp 6.869 4.665 9 Vĩnh Lộc 15.970 9.264 10 Linh Trung I 45.966 37.310 11 Linh Trung II 23.069 14.540 12 Tân Thuận 59.762 49.952 13 Tân Phú Trung 1.981 593 TỔNG CỘNG 249.525 163.201 Nguồn: Ban Quản lý các KCX, KCN TP.HCM Lao động làm việc trong KCX, KCN liên tục tăng qua các năm, đặc biệt là trong giai đoạn đầu hình thành KCX, KCN. Trong 5 năm đầu, tốc độ tăng 34 hàng năm trên 100%. Những năm kế tiếp, tốc độ tăng lao động giảm h ơn so với trước. Nguyên nhân là do giai đoạn này hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã dần ổn định và các KCX, KCN đã khai thác gần như lấp đầy. Vấn đề tồn tại hiện nay là nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và số lượng. Đa số lao động phải tuyển dụng từ các tỉnh khác, do đó thị trường lao động luôn bị biến động và không ổn định. Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, khuyến khích các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, giảm dần tỷ lệ các ngành nghề thâm dụng lao động dẫn đến t ình trạng thiếu lao động kỹ thuật. Đồng thời, chương trình giảng dạy tại các trường còn mang nặng tính lý thuyết, chậm đổi mới, nội dung đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tiễn; nhiều lao động đã được đào tạo qua trường lớp nhưng khi được tuyển dụng, doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại. Do đó, việc cung ứng nguồn nhân lực, đặc biệt l à lao động chất xám, kỹ thuật cao, luôn gặp khó khăn. 2.2.5. Về thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố phát triển Quá trình mở rộng và phát triển các KCX, KCN là quá trình góp phần đáng kể vào chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, chuyển từ một vùng nông nghiệp lạc hậu với năng suất thấp thành vùng công nghiệp, phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội . . . Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, trước đây Quận 2, 7, 12, Tân Bình, Thủ Đức, Bình Chánh, Củ Chi, Nhà Bè là những huyện nông thôn ngoại thành, vùng ven thành phố, giá trị sản xuất công nghiệp thấp; tuy nhi ên, từ khi có KCX, KCN trên các địa bàn này, đã chuyển hóa những vùng nông thôn, đầm lầy hoang hóa, vùng đất bạc màu tại nơi đây thành những nơi trù phú về sản xuất công nghiệp, khang trang về hạ tầng kỹ thuật – xã hội, có không gian xanh tươi. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của các quận, huyện tr ên trong vòng vài năm đã tăng đáng kể. Năm 1991, sự hình thành KCX Tân Thuận (một trong năm chương trình phát triển để hướng phát triển thành phố về hướng Nam và ra biển Đông) đã mở ra đường Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh (nay là đại lộ Nguyễn Văn Linh) với khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng hiện đại, mở ra KCN Hiệp Phước, Nhà máy điện 35 Hiệp Phước cùng với hệ thống cảng tổng hợp sẽ được xây dựng. Như vậy, KCX Tân Thuận đã góp phần tạo sự chuyển hướng từ một vùng nông nghiệp lạc hậu trở thành vùng đô thị công nghiệp phát triển trong tương lai. Về cơ sở hạ tầng, trong thời g ian qua thành phố đã nỗ lực dần xây dựng cơ sở hạ tầng bên ngoài kết nối đến KCX, KCN nhằm phục vụ cho sự hình thành và phát triển KCX, KCN thành phố, như đã xây dựng và mở rộng các hệ thống trục giao thông chính (Quốc lộ 1, đ ường Trường Chinh, xa lộ Bắc Nam, xa lộ Đông Tây, xây dựng thêm cầu Kinh Tẻ, cầu Tân Thuận 2, hầm chui trên Quốc lộ 1 tại các điểm tiếp giáp KCN) cũng nh ư các hệ thống điện, nước, viễn thông phát triển. Một số công ty phát triển hạ tầng KCX, KCN v à doanh nghiệp trong khu đã đầu tư phát triển các hạ tầng xã hội như: khu nhà ở chuyên gia, nhà lưu trú công nhân, khu ăn uống, vui chơi giải trí thể thao, phòng khám y tế, hệ thống thẻ ATM. Về thu ngân sách, một kết quả đáng ghi nhận là trong những năm qua, các KCX, KCN cũng đóng góp vào nguồn thu ngân sách của thành phố. Thu ngân sách trong các KCX, KCN liên tục tăng cao qua các năm, tốc độ tăng bình quân là 53%/năm. Trong năm 2007, thu ngân sách ước đạt 1.100 tỷ đồng, đạt 106,5% kế hoạch năm 2007 (1.032 tỷ đồng) và tăng 60% so với năm 2007. Nhìn chung, qua 15 năm hình thành và phát triển, hiệu quả thu hút đầu tư tại các KCX, KCN được thể hiện trên một ha đất cụ thể như sau: thu hút được khoảng 3,07 triệu USD vốn đầu tư, tạo ra 9,97 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm cho gần 148 ngàn lao động, đóng góp ngân sách trên 40.000 USD/năm. 2.3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của các KCX, KCN Tp.HCM 2.3.1. Tình hình cung ứng nguồn nhân lực trong KCX, KCN 2.3.1.1. Sự phát triển về số lượng lao động Khu chế xuất ở Tp.HCM ra đời vào cuối năm 1991. Đến đầu năm 1993 doanh nghiệp đầu tiên ở KCX Tân Thuận bắt đầu hoạt động, với chuyên ngành sản xuất là kéo sợi. Đây là mốc khởi đầu của hoạt động, huy động, bồi d ưỡng và 36 cung ứng lao động cho sản xuất công nghiệp của to àn bộ quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các KCX, KCN. Trong quá trình phát triển của mình, các KCX, KCN TP.HCM đã là một đầu mối thu hút một lực lượng lao động đông đảo từ quỹ lao động tự có tại TP.HCM cũng như từ các địa phương bạn, kể cả những địa phương cách rất xa Thành phố. Với phương châm vừa chạy vừa xếp hàng lần lượt các khu chế xuất rồi đến các khu công nghiệp đã thu hút ngay lực lượng lao động đông đảo đang thiếu việc làm với trình độ tay nghề hầu như chưa có gì đáng kể, với sự năng động quý báu của các nhà đầu tư trong nỗ lực đào tạo tại chỗ rất hiệu quả, đáp ứng cơ bản nhu cầu của sản xuất. Theo cách thức như vậy, sức thu hút lao động của các khu đ ã tăng lên mạnh mẽ, đặc biệt là trong thời kỳ định hình của hệ thống trong các năm 1995 – 1997. Sự phát triển về định lượng của lực lượng lao động đầu quân vào nền sản xuất của các khu được phản ánh qua thống kê: Bảng 2.2 Tỷ lệ tăng số lao động làm việc tại các KCX, KCN theo năm Stt Năm Số lao động (người) Tỷ lệ tăng(%) 1 1993 107 2 1994 1.238 3 1995 5.202 320.19 4 1996 11.155 114.44 5 1997 22.985 106.05 6 1998 31.356 36.42 7 1999 53.015 69.07 8 2000 76.920 45.09 9 2001 87.726 14.05 10 2002 109.67 25.01 11 2003 132.997 21.27 12 2004 145.696 9.55 13 2005 188.761 29.56 14 2006 211.437 12.01 15 2007 249.525 18.01 Nguồn: Ban Quản lý các KCX, KCN TP.HCM 37 Từ năm 1993 đến 1997 là thời kỳ các nhà máy trong các khu ào ạt mở cửa từ kết quả của các giấy phép đầu t ư khi các KCX, KCN mới vào cuộc. Do đó, tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động vào thời gian này là có sự đột biến, năm 1995 tăng 320,19%; năm 1996 tăng 114,43%; năm 1997 tăng 113,22%. Số lượng lao động thu hút được vào ca KCX, KCN phần lớn bao gồm học sinh phổ thông mới ra trường, tỉ trọng đến 70%. Theo số liệu của Phòng Quản lý lao động thuộc Ban quản lý th ì tỉ trọng của các loại lao động tính chung cho thời gian qua được phản ánh như sau: + Trung học phổ thông ( tú tài hoặc hết lớp 12/12 ): 28,6% + Phổ thông cơ sở ( tốt nghiệp cấp 2 hoặc học hết lớp 9/12): 40,9% + Tốt nghiệp đại học: 10% + Tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp: 15,5% Tình trạng này bắt nguồn từ thực tế là khả năng đào tạo tay nghề của chúng ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt chất lượng tay nghề được đào tạo vẫn còn khá xa với yêu cầu. từ thực tế này, các nhà đầu tư bắt buộc phải nâng cao tính năng động của mình bằng việc đào tạo tại chỗ mà đầu vào là học sinh chưa có tay nghề nhưng có khả năng được đào tạo nhanh. Cần nói cho chính xác rằng nhu cầu thực sự của các doanh nghiệp trong các khu đương nhiên không phải đơn giản là học sinh phổ thông với trình độ học vấn nhất định, mà nhu cầu thật sự là các công nhân có tay nghề được đào tạo từ các học sinh mới ra trường với trình độ học vấn như đã nêu. 2.3.1.2 Về chất lượng nguồn nhân lực - Về trình độ học vấn: Các KCX – KCN đã góp phần nâng cao dân trí, người lao động trở nên năng động hơn, có ý thức học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề, trình độ văn hóa; có ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp. Tỷ lệ lao động trình độ THCS, PTTH có xu hướng giảm, thay vào đó là trình độ lao động trung cấp, cao đẳng và đại học ngày càng tăng. Tỷ lệ về trình độ học vấn được thể hiện bảng sau: 38 Ba ̉ng 2.3: Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn ở các KCX, KCN Năm 2007 Năm 2006 Trình độ văn hóa - tay nghề Số lao động (người) Tỷ trọng (%) Số lao động (người) Tỷ trọng (%) Cấp 1 7.105 2,85 7.408 3,5 Cấp 2 85.791 34,38 72.199 34,14 Cấp 3 90.055 36,09 79.441 37,57 Trung học chuyên nghiệp, cao đẳng 39.894 15,99 29.003 13,71 Đại học và trên ĐH 26.680 10,69 23.422 11,08 Tổng cộng 249.525 100 211.473 100 Nguồn: Ban Quản lý các KCX, KCN TP.HCM Nếu như năm 2006, tỷ lệ lao động có trình độ lao động phổ thông là 75% và trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp là 25% thì đến năm 2007, tỷ lệ lao động có trình độ phổ thông giảm xuống là 73% và trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp tăng lên 27%. - Về trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các KCX, KCN thời gian ban đầu thường là các loại công nghệ thâm dụng lao động, sử dụng nguồn nguyên liệu dễ tìm trên thị trường như các ngành dệt may, lắp ráp điện tử, chủ yếu là gia công. Càng về sau, khi độ an toàn môi trường đầu tư cho phép, các nhà đầu tư nâng trình độ công nghệ đi lên, đi vào những lĩnh vực công nghệ cao tại KCX, KCN đã được các doanh nghiệp đầu tư thể hiện qua các dây chuyền sản xuất các sản phẩm như: hộp số số tự động ô tô, cáp điện, linh kiện điện-điện tử của các công ty Furukawa, Nikkiso, Saigon Precision, Chubu Rika. Ngoài ra, một số nhà đầu tư bắt dầu đi vào công nghệ của nền kinh tế trí thức như thiết kế, sản xuất con chíp, phần mềm điện toán như công ty Renesas. 2.3.1.3. Về tạo nguồn và tổ chức cung ứng lao động Một sự hiệp đồng khá nhịp nhàng với sự hình thành và phát triển nhanh chóng của các KCX, KCN là sự hình thành trung tâm dạy nghề, mở đầu bằng sự ra đời của Trung tâm dạy nghề quận 7 với sự yểm trợ của nh à đầu tư phát triển KCX Tân Thuận về dây chuyền thiết bị dạy nghề nhập khẩu. 39 Tiếp theo đó, các quận của Thành phố đã lần lượt cho ra đời các trung tâm dạy nghề riêng trong các thời điểm khác nhau. Hiện nay trên toàn Thành phố có tất cả 72 trung tâm dạy nghề ngoài công lập. Ngoài ra, Thành phố còn có 28 trường dạy nghề, trong đó có 17 trường dạy nghề công lập và 11 trường dạy nghề ngoài công lập, và một số đáng kể trung tâm thuộc các doanh nghiệp, và doanh nghiệp có dạy nghề. Về mặt số lượng, lực lượng trung tâm dạy nghề có thể nói đông đảo v à đều khắp. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng dạy nghề, cũng như ở hệ thống giáo dục chính quy, là chủ đề cần được cải thiện mạnh mẽ. Hòa nhịp với sự xuất hiện của các trung tâm dạy nghề, tr ên TP.HCM đã có 7 trung tâm giới thiệu việc làm đầu mối, và một số trung tâm dạy nghề có hoạt động giới thiệu việc làm. Ngoài ra còn một số trung tâm trực thuộc ngành, và đông đảo các doanh nghiệp làm nhiệm vụ giới thiệu việc làm. Các trung tâm này đã hợp thành một hệ thống cùng nhau đảm đương một phần quan trọng việc cung ứng lao động cho các doanh nghiệp KCX, KCN tr ên TP.HCM, bên cạnh một phần nhỏ hơn là lực lượng lao động do các doanh nghiệp trực tiếp huy động. Theo tổng kết của trung tâm cung ứng lao động ( bây giờ l à Trung tâm giới thiệu việc làm ) của HEPZA, lượng lao động được tuyển mộ qua các trung tâm này đã đóng góp to lớn và tích cực cho việc cung ứng lao động cho các xí nghiệp trong các KCX, KCN. Song tác động rõ nét của hệ thống này chủ yếu là xử lý các công việc thuộc phạm vi thủ tục h ành chính. Khó khăn đã phát sinh là chính sách áp dụng có chỗ chưa thống nhất giữa các chủ thể cũng làm một công việc như nhau. 2.3.2. Tình hình đào tạo nghề cho các KCX, KCN Tp.HCM 2.3.2.1. Mạng lưới cơ sở dạy nghề cho các KCX, KCN Đến cuối năm 2006, toàn Thành phố có 320 cơ sở dạy nghề chính thức đăng ký hoạt động, tăng 1,9 lần so với đầu năm 2001. Mạng lưới này phân bố khắp 24 quận huyện, có quy mô đào tạo hàng năm khoảng 35.000 học sinh công nhân kỹ thuật v à 320.000 học viên ngắn hạn. 40 Trong phát triển mạng lưới, chủ trương xã hội hóa đã khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư mở mới cơ sở dạy nghề . Tỷ lệ cơ sở dạy nghề ngoài công lập mở mới trong 5 năm qua chiếm h ơn 80% tổng số cơ sở dạy nghề mở mới trong cùng thời kỳ. Ngoài ra Thành phố đã khai thác có hiệu quả hệ thống trường Trung ương trú đóng tại Thành phố để góp phần đào tạo công nhân kỹ thuật. Hàng năm số học sinh Thành phố do các trường Trung ương đào tạo xấp xỉ số do các trường Thành phố đào tạo. 2.3.2.2. Ngành nghề và hình thức đào tạo cho các KCX, KCN Nhiều ngành nghề và hình thức đào tạo được bổ sung, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của người lao động cũng như thực tế sản xuất kinh doanh . Ngoài các ngành nghề truyền thống, các nghề trong lĩnh vực công nghệ mới, trình độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển mạnh nh ư: kỹ thuật máy tính, lập trình hệ thống, thiết kế đồ họa trên máy vi tính (CAD), cơ điện tử- điều khiển tự động-cơ khí chính xác, nghiệp vụ tài xế taxi (ngoài kỹ năng lái xe), thiết kế thời trang, bán hàng, kỹ thuật đàm phán hợp động, thẩm mỹ, các dịch vụ du lịch, làm vườn, cây cảnh, kỹ thuật chất dẻo, kiểm tra chất l ượng thực phẩm, sửa chữa thiết bị viễn thông, quản lý nh à cao tầng, v.v. . . Ngoài hình thức đào tạo tập trung theo kế hoạch (đào tạo tại trường theo chương trình chính quy; chủ yếu đối với hệ dài hạn chính quy và lao động chưa có việc làm, cần học nghề để tìm việc hoặc tổ chức việc làm), nhiều hình thức đào tạo mới được tổ chức:  Đào tạo tại chức đối với công nhân, vi ên chức đang làm việc, muốn nâng cao tay nghề; người lao động khác muốn học thêm nghề hoặc nâng cao khả năng nghề nghiệp, chuyển giao công nghệ .  Đào tạo tại xí nghiệp đối với công nhân do xí nghiệp tuyển v ào, tổ chức đào tạo và sử dụng.  Đào tạo có địa chỉ: Cơ sở dạy nghề tuyển sinh đào tạo và cung cấp lao động theo “đơn đặt hàng” của các doanh nghiệp. 41  Bồi dưỡng nâng bậc thợ: Các cơ sở dạy nghề phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng chương trình, tổ chức các lớp bồi dưỡng và tổ chức thi nâng bậc thợ cho công nhân.  Đào tạo theo chế độ “môđun” (môđun hóa ch ương trình đào tạo dài hạn) và liên thông giữa đào tạo ngắn hạn và dài hạn.  Đào tạo bổ sung tay nghề thực hành cho học sinh tốt nghiệp trung cấp để lấy bằng công nhân kỹ thuật.  Đào tạo theo phương thức hợp đồng sử dụng bản quyền về ch ương trình, kiểm tra đánh giá và cấp bằng nước ngoài. 2.3.3. Tình hình chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động trong KCX, KCN 2.3.3.1. Vấn đề nhà ở của người lao động trong các KCX, KCN Để giải quyết chỗ ở cho người lao động, UBND Thành phố đã ban hành chỉ thị số 07/2003/CT-UB ngày 23/4/2003 về chủ trương xây dựng nhà cho người có thu nhập thấp và Quyết định số 322/2003/QĐ-UB ngày 30/12/2003 về phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng nhà lưu trú cho công nhân tại các KCX, KCN trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh. Việc giải quyết nhu cầu nhà ở cho công nhân đã được tham gia bởi nhiều thành phần, bao gồm: do tư nhân tổ chức cho công nhân thuê có vị trí gần các KCX, KCN; do doanh nghiệp tự đầu tư như Công ty Nissei Electric; do t ổ chức đầu tư như Tổng công ty xây dựng Sài Gòn. Tính đến cuối năm 2007, đã hoàn thành 9 lô nhà chung cư và một khu nhà cấp bốn, đáp ứng chỗ ở cho 6.398 công nhân. Tuy nhiên, việc xây dựng các khu nhà lưu trú công nhân vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nhà ở và chưa thu hút được người lao động vào ở. Do đó, phần lớn người lao động ở trọ tại các khu dân cư xung quanh, chật hẹp và thiếu tiện nghi. 42 Bảng 2.4: Tình hình xây dựng nhà ở cho công nhân Stt KCX-KCN Qui mô Số chỗ ở đáp ứng được 1. Tân Thuận 2 lô nhà 5 tầng 1.900 2. Nissei Electric – Linh Trung 1 2 lô nhà 5 tầng 1.520 3. Tân Bình 1 lô nhà 3 tầng 380 4. Tổng Công ty Xây dựng Sài Gòn – Linh Trung 1 2 lô nhà 5 tầng 1.478 5. Tân Tạo 40 căn nhà cấp 4 400 6. Vĩnh Lộc 2 lô nhà chung cư 720 Tổng cộng 6.398 Nguồn: Ban Quản lý các KCX, KCN TP.HCM Nhà nước có chủ trương tạo điều kiện chỗ ở cho người lao động nhưng việc thực hiện chủ trương này từ các cơ quan chức năng của Nhà nước còn rất hạn chế, các chính sách miễn giảm chậm nghiên cứu triển khai thực hiện v ì vậy đại bộ phận công nhân lao động sinh sống trong các ph òng trọ mà người dân xây dựng, các khu nhà trọ này thường là các dãy nhà cấp 4 được ngăn thành phòng nhỏ ẩm thấp và rất nóng nực vào mùa khô với diện tích phòng dao động từ 5m2 đến khoảng 12m2, giữa các dãy phòng trọ thường có lối đi chật hẹp v ì vậy các khu nhà trọ không có các khu vực rộng để ng ười lao động vui chơi giải trí lành mạnh. 2.3.3.2. Văn hóa tinh thần của người lao động Hàng năm, Ban quản lý, tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên tổ chức xe đưa những công nhân có hoàn cảnh khó khăn về quê ăn tết, thăm và tặng quà cho công nhân vào dịp tết cổ truyền của dân tộc, ngoài ra Ban quản lý đã tích cực chủ động phối hợp với Câu lạc bộ h àng Việt Nam chất lượng cao tổ chức trao học bổng giúp công nhân lao động có ho àn cảnh khó khăn tham gia học văn hóa, tay nghề; thường xuyên tổ chức thăm và tặng 50 tivi cho công nhân ở các khu nhà trọ, vận động các nhà tài trợ trang bị 25 tủ sách với hơn 25.000 đầu sách, cung cấp mỗi ngày trên 300 tờ báo Người lao động cho các doanh nghiệp và nhà lưu trú có đông công nhân lao đ ộng, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các cuộc hội thi tìm hiểu pháp luật lao động được công đoàn, đoàn thanh niên tổ chức đã góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của 43 công nhân lao động, những kết quả đó đã đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận công nhân lao động, góp phần vào sự ổn định và phát triển sản xuất. Đời sống văn hóa tinh thần của công nhân lao động diễn ra chủ yếu l à ở địa bàn cư trú nhưng do thu nhập thấp, điều kiện và thời gian làm việc căng thẳng nên phần đông công nhân lao động sau giờ l àm việc họ ở nhà nghỉ ngơi, ít có điều kiện tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ tham quan du lịch . . . nếu phải bỏ chi phí. Theo số liệu khảo sát của Sở Khoa học Công nghệ th ành phố thì ngoài giờ làm việc chỉ có 14,5% công nhân đi xem phim, xem ca nhạc; 9,7% công nhân đến các khu vực vui chơi, giải trí. Một số doanh nghiệp có quan tâm và tạo điều kiện cho công nhân đi tham quan nghỉ mát hoặc tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ trong ng ày kỷ niệm thành lập doanh nghiệp nhưng còn khá nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh mà chưa nhận thấy sự cần thiết và trách nhiệm trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ng ười lao động; từ đó chưa dành thời gian, chưa tạo điều kiện cho người lao động tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ. Hoạt động văn hóa văn nghệ, phong trào thể dục thể thao tuy được Công đoàn và Đoàn Thanh niên thường xuyên tổ chức nhưng những hoạt động đó chủ yếu diễn ra vào các dịp lễ, chưa trở thành các hoạt động thường xuyên bên cạnh đó khả năng tổ chức sinh hoạt, các trang thiết bị ph ục vụ cho nhu cầu văn hóa và tinh thần cũng còn nhiều hạn chế vì vậy nội dung hoạt động văn hóa văn nghệ còn rất đơn điệu cả về hình thức lẫn nội dung nên chưa thu hút được công nhân lao động tham gia. Điều đó, đòi hỏi phải có sự đầu tư đúng mức của Thành phố và cần phải có sự phối hợp hiệu quả của các tổ chức chính trị x ã hội vì nếu đời sống vật chất và tinh thần thấp sẽ là nguyên nhân cho những yếu tố tiêu cực khác có thể phát sinh và đó chính là những nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng phát triển đội ngũ công nhân lao động. 2.3.4. Chính sách sử dụng và đãi ngộ lao động trong các KCX,KCN 2.3.4.1. Về lương người lao động 44 Đối với người lao động sau khi có việc làm ổn định thì thu nhập là yếu tố rất quan trọng, luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu, lương cơ bản bình quân của lao động phổ thông ngành may mặc là 870.000 đồng đến 930.900 đồng/ tháng từ 6 tháng đến 1 năm đầu mới vào làm việc, ngành điện tử có cao hơn 1.200.000 đồng/tháng, đối với lao động khối văn ph òng mức lương trung bình từ 1,8 triệu – 3 triệu đồng/tháng. Nói chung, thu nhập b ình quân của người lao động trong các doanh nghiệp KCX, KCN khoảng 1.200.000 đồng/tháng. Ngo ài mức kương cơ bản, đa số các doanh nghiệp người lao động còn được tiền thưởng từ 50.000 đồng – 250.000 đồng/tháng, phụ cấp nhà trọ 50.000 đồng, cơm trưa và chế độ phụ cấp khác. Căn cứ vào hiệu quả lao động trong các dịp lễ, tết ng ười lao động còn được doanh nghiệp có chế độ khen th ưởng. Tuy nhiên theo đánh giá chung từ nhiều năm qua đến nay, mức thu nhập b ình quân của người lao động vẫn không thay đổi nhiều khoảng 1.300.000 đồng/tháng. Đó l à mức thu nhập thấp so với tình hình gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhát triển nguồn nhân lực cho các Khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015.pdf
Tài liệu liên quan