MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ 4
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ 4
1.2. Thị trường bảo hiểm nhân thọ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA 42
2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 42
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam trong những năm vừa qua 45
2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 52
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 72
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 72
3.2. Đánh giá nhu cầu bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 73
3.3. Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 76
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
100 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5680 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Khẳng định hướng đi đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Năm 1999, đánh dấu mốc quan trọng sự phát triển của thị trường BHNT Việt Nam. Nhận thức rõ được tiềm năng to lớn của thị trường BHNT Việt Nam, đã có nhiều công ty BHNT nước ngoài đăng ký xin phép được hoạt động ở Việt Nam. Và đến năm 1999, có ba công ty BHNT có vốn đầu tư nước ngoài đã được Nhà nước ta cấp giấy phép hoạt động, đó là: Công ty TNHH BHNT Chinfon-Manulife (hiện nay Chinfon đã bán hết cổ phần cho Manulife và đổi tên thành Công ty TNHH BHNT Manulife), Công ty TNHH BHNT Bảo Minh-CMG (là liên doanh giữa Bảo Minh và tập đoàn CMG), và Công ty BHNT Prudential UK.
Đến năm 2000, một công ty BHNT 100% vốn đầu tư nước ngoài nữa được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam, đó là Công ty TNHH BHNT Quốc tế Mỹ (AIA). Như vậy, có thể nói đến lúc này, thị trường BHNT Việt Nam thực sự được hình thành. Sự cạnh tranh không phải diễn ra giữa các công ty trong nước như trong bảo hiểm phi nhân thọ, mà là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2001 đến nay: Đây là giai đoạn mà đất nước tiếp tục thời kỳ đổi mới, cải cách kinh tế đi vào chiều sâu và đạt được nhiều thành quả quan trọng. Kinh tế phát triển ổn định, tăng trưởng đạt bình quân 6,9%, lạm phát một con số. Đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 300 USD năm 1996 lên 430 USD năm 2001 và trên 500 USD năm 2003. Đây là những điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thúc đẩy thị trường BHNT Việt Nam phát triển.
Đồng thời, để tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển một cách bền vững, tại Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 8 của nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật này có hiệu lực từ ngày 1.4.2001, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, trong đó có BHNT.
Bên cạnh Bảo Việt Nhân thọ và bốn công ty BHNT có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập từ năm 2000 trở về trước, thị trường BHNT Việt Nam tính đến cuối năm 2005 còn có thêm ba công ty mới và đều là công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, đó là: Công ty TNHH BHNT Prévor, và công ty TNHH BHNT ACE, công ty TNHH bảo hiểm new York Life . Có thể nói thị trường BHNT Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị trường BHNT khu vực và trên thế giới.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường BHNT ở Việt Nam trong những năm vừa qua
2.2.1. Điều kiện kinh tế
Giai đoạn từ năm 1996, khi Bảo Việt triển khai sản phẩm BHNT đầu tiên, đến nay là giai đoạn mà tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam tiếp tục phát triển và ổn định sau những năm đầu mở cửa và cải cách, nền kinh tế đã đạt được các chỉ tiêu phát triển đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng gia tăng, nhưng không vượt quá hai con số, vì vậy không ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đến đời sống dân cư và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đây là những điều kiện tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của thị trường BHNT trong giai đoạn này cũng như những năm về sau. Một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng có thể kể đến đó là:
2.2.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
GDP trong giai đoạn này có sự tăng trưởng mạnh. Số liệu bảng 2.1 cho thấy, nếu như năm 1995 GDP của Việt Nam là 195.567 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2005 con số này đạt 392.260 nghìn tỷ đồng. So với năm 2004, GDP năm 2005 tăng 8,4%, đây là mức tăng trưởng GDP cao nhất kể từ năm 1997.
Bảng 2.1: GDP và tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1994-2005 (Theo giá so sánh năm 1994) [23]
Năm
1995
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
GDP (nghìn tỷ đồng)
195,57
256,27
273,67
292,54
313,14
335,99
361,86
392,26
Tốc độ tăng (%)
9,5
4,8
6,8
6,9
7,1
7,3
7,7
8,4
2.2.1.2. Thu nhập dân cư
Thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư đều được cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây. Dựa vào bảng số liệu 2.2 cho thấy, nếu năm 1999, thu nhập bình quân năm tính trên mỗi đầu người là 5.221.000 đồng, đến năm 2005 con số này là 10.080.000 đồng. Mức tăng thu nhập dân cư bình quân giai đoạn 1999-2005 là 15,5%.
Bảng 2.2: Thu nhập bình quân đầu người/năm giai đoạn 1999-2005 (Theo giá thực tế) [27]
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
GDP (nghìn tỷ đồng)
399,94
441,64
481,29
535,67
605,58
652,21
837,86
Dân số(triệu người)
76,597
77,635
78,686
79,727
80,902
82,000
83,119
Thu nhập bình quân đầu người/năm (1000đ)
5.221
5.688
6.116
6.718
7.485
7.953
10.080
Mức sống nâng cao đã giúp cho người dân Việt Nam bắt đầu có tích lũy và sử dụng tiền tích lũy tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Trong đó BHNT là một trong những kênh người dân có thể lựa chọn để đầu tư. Đây là cơ sở kinh tế quan trọng cho sự phát triển của BHNT.
2.2.2. Điều kiện văn hóa xã hội
2.2.2.1. Dân số
Là một trong số những quốc gia có dân số đông trên thế giới, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về BHNT. Mặc dù trong những năm gần đây dân số nước ta tiếp tục tăng, nhưng tốc độ tăng đã được kiểm soát, luôn thấp hơn 1,5% (bảng 2.3). Đến cuối năm 2005 dân số Việt Nam đạt 83,119 triệu người. Hiện nay, nước ta là một trong những nước đông dân trên thế giới: Dân số Việt Nam đứng thứ 3 khu vực Đông Nam á, đứng thứ 7 Châu á, và đứng thứ 12 thế giới. Thế nhưng số người tham gia BHNT mới khoảng hơn một triệu người, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì còn rất ít.
Bảng 2.3: Dân số và tăng trưởng dân số [27]
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Dân số (Triệu người)
76,597
77,635
78,686
79,727
80,902
82,000
83,119
Tốc độ tăng (%)
1,51
1,36
1,35
1,32
1,47
1,01
1,33
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tuổi thọ do đó tăng lên, đến nay tuổi thọ bình quân của Việt Nam đã đạt mức trung bình của thế giới (khoảng 70 tuổi). Đây là những điều kiện thuận lợi thu hút sự tham gia của người mua sản phẩm BHNT. Đặc biệt các sản phẩm bảo hiểm tích lũy tử kỳ, niên kim nhân thọ sẽ có nhiều triển vọng tăng trưởng.
2.2.2.2. Giáo dục
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về giáo dục trong những năm vừa qua. Số lượng học sinh đi học phổ thông niên học 2002- 2003 tăng gần 1,5 lần so với niên học 1986 - 1987. Khối trung học chuyên nghiệp tăng hơn 2,6 lần, khối cao đẳng và đại học tăng 12,4 lần. Về cơ bản đến nay Việt Nam đã thực hiện xong phổ cập giáo dục tiểu học và đang từng bước nâng cao trình độ dân trí. Thực tế này cho thấy truyền thống hiếu học của dân tộc ta và cũng cho thấy tiềm năng của BHNT trong những năm tới đối với các sản phẩm bảo hiểm giáo dục như An sinh giáo dục.
2.2.2.3. Văn hóa
Việt Nam là một nước ở phương Đông, chịu ảnh hưởng to lớn của Nho giáo, gia đình và tình cảm ruột thịt luôn được người Việt Nam hết sức coi trọng. Với tinh thần tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, chia sẻ ngọt bùi, mỗi người dân Việt Nam luôn sẵn lòng chia sẻ những khó khăn mà đồng bào phải gánh chịu. Có thể nét đặc trưng văn hóa này sẽ tạo nên một thị trường BHNT hết sức hấp dẫn ở Việt Nam, bởi vì BHNT là sự biểu lộ sâu sắc trách nhiệm và tình thương bao la đối với người thân và gia đình. Hơn nữa, người Việt Nam còn có nét đặc trưng về tính cách đó là tiết kiệm, “lo xa” về bảo đảm cuộc sống cho mình và cho người thân trong tương lai. Trong khi đó, BHNT là một công cụ hữu hiệu để giải quyết những vấn đề này.
2.2.3. Công nghệ thông tin
Thế kỷ XX có thể nói là thể kỷ của khoa học kỹ thuật, với sự ra đời của hàng loạt các phát minh sáng chế, làm cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật có những bước phát triển nhảy vọt. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy các nền kinh tế của các quốc gia phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có. Khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế. ở Việt Nam nhờ tăng cường đầu tư hợp tác, chuyển giao khoa học công nghệ mà lĩnh vực này đã hoạt đạt được những bước phát triển nhất định trong thời gian qua. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật số, cáp quang, kỹ thuật khai thác và xử lý thông tin…Hệ thống thông tin quốc gia Việt Nam ngày nay đã đủ mạnh để hòa nhập vào mạng lưới viễn thông khu vực và thế giới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trình độ công nghệ thông tin Việt Nam đã bước đầu phát triển sang các lĩnh vực in ấn, thông tin, Internet, thương mại điện tử và công nghệ phần mềm…
Việc ứng dụng công nghệ thông tin cho phép các DNBH:
- Vi tính hóa quá trình dịch vụ và giảm bớt tính cồng kềnh của cơ cấu tổ chức tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm theo mô hình “doanh nghiệp thông tin”, đa dạng hóa kênh phân phối và hình thức dịch vụ, tạo ra cơ sở chung phục vụ nhu cầu lưu trữ tra cứu và phân tích, từ đó cho phép thay đổi mô hình tổ chức theo hướng gọn nhẹ chuyên môn hóa cao.
- Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường dịch vụ khách hàng bằng các dịch vụ phụ trợ kỹ thuật cao, phục vụ khách hàng nhanh chóng, thường xuyên.
- Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm cá nhân hóa các dịch vụ bảo hiểm qua Internet đáp ứng nhu cầu cá nhân.
- Phát triển của công nghệ thông tin ảnh hưởng tới tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm và cách thức trao đổi thông tin. Do hệ thống thông tin hỗ trợ các quá trình trao đổi thông tin đa chiều các bộ phận trong doanh nghiệp bảo hiểm và với khách hàng qua hệ thống mạng nên các khái niệm về không gian (như khoảng cách giữa các phòng ban), thời gian trong trao đổi thông tin bị xóa nhòa. Điều này dẫn tới việc thay đổi cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm và cách thức mà doanh nghiệp quan hệ với khách hàng. Như vậy thay cho việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải thành lập nhiều công ty chi nhánh để mở rộng hệ thống phân phối trên các địa bàn với cơ cấu tổ chức cồng kềnh thì với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cần thành lập các bộ phận chuyên quản lý để bán sản phẩm và phụ vụ khách hàng. Các hoạt động hạch toán kế toán quản lý hợp đồng… được thực hiện tập trung. Mô hình quản lý này sẽ giảm thiểu hoạt động trùng lặp, tăng cường chuyên môn hóa, tăng cường chỉ đạo theo định hướng chiến lược phát triển và nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí hoạt động. Nhờ vậy, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thay đổi mô hình nhiều cấp sang mô hình ít cấp hoặc mô hình sao với sự trao đổi thông tin đa chiều giữa các bộ phận. Điều này góp phần giảm bớt các cấp quản lý trung gian vốn chỉ thực hiện chức năng tổng hợp báo cáo thông tin trình lãnh đạo ra quyết định.
Ngoài ra sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, tin học cũng gây biến đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng. Khách hàng có nhu cầu tìm hiểu thông tin và đòi hỏi được cung cấp dịch vụ qua các phương tiện thông tin hiện đại như qua Internet, qua điện thoại, email; được cung cấp dịch vụ tài chính tổng hợp như bảo hiểm- đầu tư- thanh toán… Do vậy, đây là cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm triệt để ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, đáp ứng tốt nhu cầu mới khách hàng thực hiện cạnh tranh.
2.2.4. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu để phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giới hiện nay. Việc mở cửa nền kinh tế ở nước ta trong những năm qua đã tạo ra nhiều cơ hội cho các lĩnh vực, các ngành nghề, trong đó có lĩnh vực bảo hiểm và BHNT. Sự tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam của các doanh nghiệp BHNT nước ngoài lớn, có tiềm năng tài chính hùng mạnh, có kinh nghiệm trong kinh doanh BHNT như AIA, Prudential..., đã tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng của thị trường BHNT Việt Nam, thúc đẩy thị trường phát triển.
Mở cửa và hội nhập cũng đang góp phần tạo ra những thay đổi trong cách nghĩ, cách làm của người dân Việt Nam. Thay vào việc trông chờ bao cấp của Nhà nước, người dân phải học cách tự lo cho mình, và du nhập tập quán tham gia bảo hiểm là một cách nghĩ tích cực.
2.2.5. Môi trường pháp lý
Trong suốt thời kỳ từ năm 1965 đến năm 1993, Nhà nước thực hiện độc quyền về kinh doanh bảo hiểm với một doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất là Bảo Việt, vừa tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm. Do hoạt động trong điều kiện bao cấp nên vai trò của bảo hiểm trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội còn hạn chế. Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm, tạo tiền đề pháp lý quan trọng cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam nói riêng.
Mục tiêu quan trọng của Nhà nước khi ban hành Nghị định 100/CP năm 1993 đó là: Tạo ra một thị trường bảo hiểm thực sự ở Việt Nam, xóa bỏ sự độc quyền của Bảo Việt, tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh, phù hợp với chủ trương chung là phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng thị trường, đáp ứng các nhu cầu về bảo hiểm phát sinh, đặc biệt khi xóa bỏ cơ chế bao cấp của Nhà nước.
Xuất phát từ các mục tiêu trên, hai nội dung quan trọng của Nghị định 100/CP năm 1993 cần được nhắc tới, đó là: Thứ nhất, cho phép thành lập các doanh nghiệp bảo hiểm khác được kinh doanh trên thị trường bên cạnh Bảo Việt; và thứ hai, Bộ Tài chính là cơ quan Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã thành lập Phòng quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, trực thuộc Vụ Tài chính các Ngân hàng và tổ chức tài chính với các chức năng:
- Quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
- Quản lý tài chính các doanh nghiệp bảo hiểm
- Chủ quản các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước
Sau khi ban hành Nghị định 100/CP, tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho sự hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc duy trì thị trường phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững, Bộ Tài chính đã có nhiều nỗ lực để tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Ngày 9/12/2000 Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua.
Trên cơ sở Luật kinh doanh bảo hiểm, ngày 1/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/2001/NĐ-CP quy định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, và ngày 28/8/2001 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 72/2001/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện Nghị định 43/2001/NĐ-CP.
Một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam cần được kể tới đó là năm 2003, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010" với các mục tiêu: “Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.
Nhìn chung cho đến nay, về cơ bản các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã được hình thành tương đối hoàn chỉnh, từng bước đi vào cuộc sống và phát huy được những tác dụng tích cực của nó. Hệ thống các văn bản pháp quy này đáp ứng được yêu cầu phát triển thị trường bảo hiểm và là công cụ quan trọng giúp cho việc quản lý thị trường bảo hiểm phát triển an toàn hiệu quả. Đồng thời, công tác quản lý nhà nước cũng được đổi mới theo hướng hạn chế dần sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện thực thi pháp luật. Việc giám sát của Nhà nước dựa trên các chỉ tiêu tài chính, kinh tế khách quan, chú trọng bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm. Năng lực tổ chức, cán bộ và bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm đã được củng cố, nâng cao, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển lâu dài và lành mạnh của thị trường.
2.3. thực trạng hoạt động của thị trường BHNT ở Việt Nam
2.3.1. Quy mô, tốc độ phát triển
Trong những năm qua, thị trường BHNT Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô như: tăng số lượng các công ty bảo hiểm, tăng doanh thu phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và số lượng hợp đồng bảo hiểm.
2.3.1.1. Số lượng các công ty bảo hiểm nhân thọ
Kể từ năm 1996, khi Bộ Tài chính ký Quyết định số 568/QĐ-TCCB thành lập Công ty BHNT là Bảo Việt Nhân Thọ, trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cho đến nay trên thị trường đã có tất cả 8 công ty BHNT (Bảng 2.4). Đặc biệt, trừ Bảo Việt Nhân Thọ là doanh nghiệp Nhà nước, tất cả các công ty còn lại đều là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhận thấy BHNT là một lĩnh vực mới mẻ và có kỹ thuật bảo hiểm phức tạp, Chính phủ sớm có định hướng nhanh chóng mở cửa thị trường BHNT. Trên cơ sở Điều 2, mục 1 và 3 của Nghị định 100/CP về việc cho phép thành lập công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, năm 1999 có tới 3 công ty BHNT nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam, đó là: Công ty TNHH BHNT Manulife (Việt Nam), Công ty TNHH BHNT Bảo Minh-CMG, Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam. Năm 2000, một công ty nữa được thành lập là Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA). Năm 2005, có 3 công ty BHNT được thành lập.
Bảng 2.4: Các doanh nghiệp BHNT đang hoạt động ở Việt Nam (2005) [20]
TT
Tên doanh nghiệp
Năm triển khai
Xuất xứ
Hình thức sở hữu
Vốn điều lệ ban đầu
Vốn điều lệ 2005
1
Bảo hiểm Nhân Thọ Việt Nam (Bảo Việt)
1996
Việt Nam
Nhà nước
779 tỷ VNĐ
1.500 tỷ đ
2
Công ty TNHH Manulife (Việt Nam)
1999
Canada
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
10 triệu USD
3
Công ty TNHH BHNT Bảo Minh – CMG
1999
Việt Nam và úc
Liên doanh
2 triệu USD
10 triệu USD
4
Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam
1999
Anh
100% vốn nước ngoài
14 triệu USD
75 triệu USD
5
Công ty TNHH BHNT quốc tế Mỹ(AIA)
2000
Mỹ
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
25 triệu USD
6
Công ty TNHH BHNT ACE
2005
Mỹ
100% vốn nước ngoài
20 triệu USD
7
Công ty TNHH BHNT Prevoir
2005
Pháp
100% vốn nước ngoài
10 triệu USD
8
Công ty TNHH bảo hiểm New York Life
2005
Mỹ
100% vốn nước ngoài
10 triệu USD
Có thể nói thị trường BHNT Việt Nam đã có mặt đầy đủ các công ty BHNT hàng đầu đại diện cho các nước có thị trường BHNT phát triển nhất thế giới như Anh, Pháp, Mỹ, Canada, úc.
2.3.1.2. Doanh thu phí bảo hiểm
Trong những năm qua doanh thu phí BHNT luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt vào những năm đầu mới triển khai.
Bảng 2.5: Doanh thu phí bảo hiểm của thị trường BHNT (Tính theo giá thực tế) [2]
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Doanh thu phí (tỷ đồng)
1
11
203
485
1.290
2.778
4.368
6.575
7.711
8.023
Tốc độ tăng trưởng (%)
-
1000
1.745
139
166
115
57
50
17
4,05
Đóng góp vào GDP (%)
0,00035
0,01
0,0 6
0,12
0,29
0,56
0,81
1,09
1,07
1,04
Số liệu bảng 2.5 cho thấy, năm 1996 khi Bảo Việt mới bắt đầu triển khai BHNT, doanh thu phí mới chỉ đạt xấp xỉ một tỷ đồng, đến năm 1997 con số này là 11 tỷ đồng, tăng 1000% so với năm 1996. Đặc biệt năm 1998, phí bảo hiểm toàn thị trường đạt tốc độ tăng cao nhất là 1.745% so với năm trước. Thực tế này khẳng định việc triển khai BHNT trên thị trường Việt Nam của Bảo Việt là đúng đắn. Năm 2000, do có sự tham gia trên thị trường của 4 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là Manulife, Bảo Minh-CMG, Prudential và AIA, doanh thu phí toàn thị trường đạt 1.290 tỷ đồng, tăng 166% so với năm trước. Ngoài ra, đóng góp doanh thu phí của thị trường BHNT vào GDP Việt Nam cũng tăng qua các năm. Nếu như năm 1996 tỷ trọng đóng góp này là 0,00035% thì đến năm 2005 là 1,04%. Nếu so sánh về mặt số tương đối thì con số này không phải là lớn, nhưng nếu xét về số tuyệt đối thì mức tăng này là khá lớn vì nó được tính so với GDP của một nước.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường BHNT Việt Nam trong thời gian qua đã làm tăng vị thế của ngành bảo hiểm, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước. Điều này được thể hiện qua số lượng hợp đồng bảo hiểm và số tiền bảo hiểm đã được ký kết, số lượng công ăn việc làm đã được tạo ra, nguồn vốn đầu tư thị trường BHNT cung cấp cho nền kinh tế…
2.3.1.3. Số lượng hợp đồng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và chi trả bảo hiểm
Thời gian qua, một số lượng lớn hợp đồng BHNT đã được ký kết với những hợp đồng có số tiền bảo hiểm lên tới hàng tỷ đồng. Rõ ràng đây là công cụ hữu hiệu được người dân lựa chọn để đối phó với những khó khăn tài chính do rủi ro gây nên, hoặc tiết kiệm để dành cho những dự tính quan trọng trong tương lai như tạo vốn làm ăn, cho con học hành, sinh sống tuổi già… Năm 1996, khi Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT tại một số tỉnh thành, kết quả đạt được dừng lại ở những con số rất khiêm tốn: Khai thác được 1.200 hợp đồng bảo hiểm với tổng doanh thu phí xấp xỉ một tỉ đồng. Nhưng ngay sau đó một năm, số lượng hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến cuối năm 1997 đã là gần 1,6 triệu hợp đồng với số tiền bảo hiểm gần 1.300 tỷ đồng. Từ bảng số liệu 2.6 cho thấy, nhìn chung số hợp đồng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của các nghiệp vụ BHNT năm 2005 đều tăng so với năm 2004. Tuy nhiên, có 2 nghiệp vụ bảo hiểm đó là bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm sinh kỳ có số hợp đồng và số tiền bảo hiểm bị giảm. Cụ thể, tổng số hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực đã lên 1.484 nghìn hợp đồng, tổng số tiền bảo hiểm tăng lên tương ứng là 28.720 tỷ đồng. Trong đó chủ yếu người dân tham gia loại hình bảo hiểm hỗn hợp, vừa có tính tiết kiệm như một khoản tiền để dành, vừa có tính rủi ro giúp người dân khắc phục khó khăn khi gặp rủi ro. Điều này càng thể hiện BHNT ngày càng có xu hướng phát triển.
Bảng 2.6: Số lượng hợp đồng và STBH có hiệu lực năm 2004 và 2005 [20]
Nhóm sản phẩm
2004
2005
Lượng tăng giảm tuyệt đối
Số HĐ
(nghìn)
STBH
(tỷ đồng)
Số HĐ
(nghìn)
STBH
(tỷ đồng)
Số HĐ
(nghìn)
STBH
(tỷ đồng)
1. Bảo hiểm trọn đời
2. Bảo hiểm sinh kỳ
3. Bảo hiểm tử kỳ
4. Bảo hiểm hỗn hợp
5. Bảo hiểm trả tiền định kỳ
66
4
93
3.316
12
3.991
119
3.678
86.047
61
61
3
125
3.478
1.298
3.722
105
5.144
92.941
20.703
-5
-1
+32
+162
+1286
-269
-14
+1466
+6894
+20642
Tổng số
3.491
93.896
4.975
122.616
+1.484
+28.720
Kết quả của việc tham gia bảo hiểm trên, thông qua hoạt động chi trả tiền bảo hiểm, thời gian qua các công ty BHNT đã đóng vai trò tích cực trong việc ổn định kinh tế-xã hội và đời sống cho người dân. Tính đến cuối năm 2001, các công ty chi trả quyền lợi bảo hiểm cho gần 12.000 hợp đồng BHNT với tổng số tiền gần 400 tỷ đồng. Đây cũng là thời điểm thị trường BHNT Việt Nam chi trả bảo hiểm cho các hợp đồng đáo hạn đầu tiên. Sau hơn 5 năm bắt đầu triển khai BHNT, năm 2001 Bảo Việt đã chi trả số tiền lên tới 108 tỷ đồng, trong đó cho 400 khách hàng đầu tiên đã nhận tiền bảo hiểm khi kết thúc tốt đẹp thời hạn hợp đồng bảo hiểm, và 2.200 khách hàng nhận được quyền lợi bảo hiểm có liên quan đến rủi ro. Đến năm 2004 và 2005 (Bảng 2.7), số tiền chi trả bảo hiểm gốc đã lên tới trên 813 tỷ đồng và 1.354 tỷ đồng, bao gồm cho cả hai trường hợp: đáo hạn hợp đồng và hợp đồng gặp rủi ro. Ngoài ra, nếu tính thêm cả số tiền hoàn trả do hợp đồng hủy trước thời hạn (chỉ có tính tiết kiệm), tổng số tiền chi trả trong năm 2004 và 2005 tương ứng là 1.388 tỷ đồng và 2.120 tỷ đồng. Trong các nhóm sản phẩm, chi trả tiền cho nhóm bảo hiểm hỗn hợp là chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 90%). Bởi vì đây là nhóm sản phẩm có số lượng người tham gia bảo hiểm và STBH lớn nhất.
Bảng 2.7: Tình hình trả tiền bảo hiểm năm 2004-2005 [20]
Đơn vị: Triệu đồng
Nhóm sản phẩm
Trả tiền BH gốc
Giá trị hoàn lại
Tổng số tiền chi trả
2004
2005
2004
2005
2004
2005
1. Bảo hiểm trọn đời
2. Bảo hiểm sinh kỳ
3. Bảo hiểm tử kỳ
4. Bảo hiểm hỗn hợp
5. Bảo hiểm trả tiền định kỳ
5.523
3
3.592
803.260
439
16.894
106
9.448
1.317.567
10.137
16.771
3
0
488.533
69.590
8.228
1.006
2
700.090
56.586
22.294
6
3.592
1.291.793
70.029
25.122
1.112
9.450
2.017.657
66.723
Tổng
812.817
1.354.152
574.897
765.912
1.387.714
2.120.064
2.3.1.4. Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế
Với chức năng tập trung những khoản tiền nhỏ nhàn rỗi trong dân cư thông qua phí bảo hiểm, BHNT đã hình thành một quỹ đầu tư lớn, cung cấp vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần phát triển kinh tế xã hội. So với ngành ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy mới có thời gian hoạt động còn rất ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân phối vốn rất hữu hiệu cho nền kinh tế. Với gía trị tài sản quản lý được tích luỹ dưới hình thức dự phòng ngày càng lớn cho phép các doanh nghiệp BHNT thực hiện các khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, gửi tiết kiệm ngân hàng ... Những năm qua các công ty BHNT đã tham gia vào rất nhiều dự án đầu tư, là cổ đông lớn trong nhiều công ty cổ phần đồng thời cũng là thành viên thường xuyên trong các cuộc đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc và cũng là " người chơi lớn" trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van A.Bom chuan_sua.doc
- bia.doc