MỤC LỤC
Trang
Chương I: Những vấn đề chung về thị trường ngoại hối. 1
1. Khái quát chung về thị trường ngoại hối. 1
1.1 Khái niệm thị trường ngoại hối. 1
1.2 Các đặc điểm của thị trường ngoại hối. 2
1.3 Vai trò của thị trường ngoại hối trong điều kiện hội nhập kinh tế. 3
1.4 Các chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối. 4
1.4.1 Ngân hàng nhà nước (Central Bank). 4
1.4.2 Các ngân hàng thương mại (Commercial Bank). 5
1.4.3 Các nhà môi giới ngoại hối (Foreign Exchange Brokers). 6
1.4.4 Các khách hàng mua bán lẻ trên thị trường (Retail Clients). 6
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường ngoại hối. 7
2.1 Ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế đối ngoại. 9
2.2 Ảnh hưởng của cung cầu ngoại tệ. 10
2.3 Ảnh hưởng của chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 11
2.4 Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ. 11
2.2.5 Ảnh hưởng của chính sách lãi suất. 12
3. Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối. 12
3.1. Nghiệp vụ giao ngay (Spot Transaction). 12
3.2. Nghiệp vụ kỳ hạn (Forward Transaction). 14
3.3. Nghiệp vụ hoán đổi (Swap Transaction). 17
3.4. Nghiệp vụ quyền chọn (Option Transaction). 18
3.5. Nghiệp vụ giao dịch ngoại tệ tương lai. 22
Chương 2: Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và vai trò của Ngân hàng Ngoại Thương trong việc phát triển thị trường ngoại hối. 4
1. Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam. 24
1.1 Quá trình hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam. 24
1.1.1- Giai đoạn trước năm 1991. 24
1.1.2- Giai đoạn từ năm 1991-1994. 24
1.1.3- Giai đoạn từ năm 1994 đến nay. 25
1.2 Thực trạng hoạt động thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay. 26
1.2.1 Môi trường pháp lý cho tổ chức hoạt động và quản lý TTNH. 26
1.2.1.1 Chính sách quản lý ngoại hối. 27
1.2.1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái. 29
1.2.1.3 Cơ chế lãi suất ngoại tệ. 30
1.2.2 Hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam. 31
1.2.2.1 Hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 31
1.2.2.2 Hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do. 36
1.2.3 Các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường ngoại hối. 39
1.2.3.1 Nghiệp vụ giao ngay. 39
1.2.3.2 Nghiệp vụ kỳ hạn. 41
1.2.3.3 Nghiệp vụ hoán đổi. 42
1.2.3.4 Nghiệp vụ quyền chọn. 43
1.3. Đánh giá sự phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
44
1. 3.1 Về chính sách quản lý ngoại hối. 44
1.3.2 Cơ chế xác định tỷ giá. 46
1.3.3 Về lãi suất cho vay ngoại tệ. 47
1.3.4 Về việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối theo tiêu chuẩn quốc tế. 47
1.3.5 Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và năng lực của hệ thống ngân hàng thương mại. 48
2. Vai trò của Ngân hàng Ngoại thương trong việc phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam. 49
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại Thương. 49
2.2 Tình hình kinh doanh của NHNT. 51
2.3 Những đóng góp của NHNT trong việc phát triển TTNH Việt Nam. 60
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong điều kiện hội nhập. 63
1. Quan diểm xây dựng và phát triển thị trường ngoại hối trong điều kiện hội nhập quốc tế. 63
2.Các giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong điều kiện hội nhập. 66
2.1 Hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. 66
2.1.1 Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối. 66
2.1.2 Hoàn thiện chính sách tỷ giá. 69
2.2 Nâng cao vai trò của NHNN trong việc tổ chức, quản lý và can thiệp thị trường. 71
2.2.1 Tăng cường thu hút ngoại tệ vào ngân hàng. 71
2.2.2 Hoàn thiện và phát triển TTNH có tổ chức ở Việt Nam nhằm hướng TTNH Việt Nam hội nhập với TTNH quốc tế. 74
2.3 Tăng cường sự tham gia hoạt động của các NHTM trên TTNH. 75
2.3.1 Hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống và phát triển nghiệp vụ kinh doanh mới. 75
2.3.2 Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng. 77
2.3.3 Hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ ngân hàng. 78
2.3.4 Xây dựng chính sách khách hàng một cách khoa học. 79
2.3.5. Tăng cường quản lý rủi ro ngoại hối của các NHTM. 80
3. Nhóm giải pháp đối với NHNT trong việc tham gia phát triển TTNH. 80
3.1 Khai thác triệt để các nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của NHNT. 80
3.2 Mở rộng và nâng cao quan hệ đối ngoại để tăng cường hội nhập, mở rộng KDNT với nước goài.
3.3 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phục vụ cho việc KDNT trong nước và với ngân hàng các nước khác trên thế giới.82
3.4 Hoàn thiện chính sách khách hàng nhằm nâng cao doanh số KDNT.83
3.5 Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ trong lĩnh vực KDNT. 85
95 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3166 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam (Thí điểm tại ngân hàng Ngoại Thương) – những vấn đề đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tệ trôi nổi trên thị trường này ước tính 3-4 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, theo ước tính thị trường tự do chỉ chiếm khoảng 20% thị phần trong tổng thể thị trường ngoại tệ, như vậy thị trường chính thức vẫn kiểm soát được thị trường tự do, giữ cho thị trường Ngân hàng Việt Nam phát triển ổn định.
Về tỷ giá: Cơ chế hình thành tỷ giá trên thị trường tự do do quy luật cung cầu trên thị trường quyết định. Nhưng do quy mô thị trường này nhỏ bé nên nó cũng chịu tác động của thị trường chính thức.
Phải nói rằng thị trường tự do cũng có những tác động tích cực đối với nền kinh tế và xã hội. Do hoạt động của thị trường ngoại tê tự do nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước nên đã gây khó khăn và làm giảm hiệu lực của việc thực thi và điều hành chính sách tiền tệ. Sự tồn tại của thị trường tự do dẫn đến tình trạng chảy máu ngoại tệ và nó còn tiếp tay cho hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, ma tuý, rửa tiền....
Tóm lại, trong bối cảnh kinh tế đất nước Việt Nam hiện nay, TTNH còn chưa hoàn thiện và phát triển, việc tồn tại thị trường tự do là tất yếu. Vấn đề đặt ra là phải có biện pháp hữu hiệu để quản lý thị trường này nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực và phát huy các mặt tích cực, tiến tới xây dựng và hoàn thiện TTNH Việt Nam thống nhất và phát triển trong tương lai.
1.2.3 Các nghiệp vụ giao dịch trên TTNH.
TTNH Việt Nam hiện nay vẫn còn trong thời kỳ sơ khai, chưa phát triển hoàn thiện nên các sản phẩm trên thị trường còn rất hạn chế. Các giao dịch ngoại hối chủ yếu là giao ngay (chiếm tỷ trọng 95%), còn lại là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi ngoại tệ và giao dịch quyền chọn.
1.2.3.1 Nghiệp vụ giao ngay.
Trước năm 1998 lượng giao dịch giao ngay ước tính khoảng 99% trên tổng số các giao dịch ngoại hối trên TTNTLNH, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống kể từ khi thực hiện 2 nghiệp vụ mới là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi. Trước tháng 8/1997, doanh số đạt trung bình 50 triệu USD/ngày nhưng do bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu á nên con số này đã giảm đáng kể. Hơn nữa, giá cả giao dịch còn bị hạn chế bởi biên độ giao dịch của NHNN, tỷ giá hầu như không đổi trong suốt cả ngày hoạt động, thậm chí vào ngày sau đó, điều này không thúc đẩy được hoạt động kinh doanh của các NHTM nhằm tạo tính thanh khoản cao trên thị trường, chỉ có rất ít các giao dịch giao ngay được thực hiện đúng với quy định, ví dụ như ngày giá trị thực hiện phải sau hai ngày giá trị giao dịch, mà hầu như 95% các giao dịch giao ngay đã được thực hiện trong cùng ngày giá trị. Mặc dù quy trình nghiệp vụ không đúng với quy chuẩn quốc tế nhưng nó vẫn tồn tại một cách bình thường trên TTNH Việt Nam. Tỷ giá các giao dịch giao ngay giữa USD/VND dựa trên biên độ cho phép của NHNN, biên độ này được điều chỉnh cho từng thời kỳ chứ không cố định (hiện nay là 0,25%). Căn cứ vào tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH cuối ngày của NHNN công bố, các NHTM cộng thêm 0,25% để đặt tỷ giá cho Ngân hàng mình. Ví dụ: Tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH vào 01/05/2005 là 15.800 thì tỷ giá các NHTM là : 15.800 + 15.800 x 0,25% = 15.839,5, tức là tỷ giá kịch trần mà NHTM niêm yết bán ra trên thị trường cho khách hàng của mình là 15.839,5 cho các giao dịch giao ngay.
Còn các giao dịch ngoại hối giữa VND và các ngoại tệ khác hoặc giữa các ngoại tệ với nhau thì không có quy định về biên độ giao dịch mà các Ngân hàng có toàn quyền tự do đặt tỷ giá giao dịch cho mỗi loại tiền tệ miễn là có lãi. Nhưng các giao dịch loại này thưòng rất ít, chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số giao dịch trên thị trường, điều đó phản ánh các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu, chưa đủ năng lực để tham gia TTNH quốc tế. Hiện nay chỉ có Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam và NHNN mới có đủ các trang thiết bị hiện đại và một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm và thành thạo trong việc kinh doanh ngoại hối có khả năng kinh doanh được trên TTNH quốc tế.
1.2.3.2 Nghiệp vụ kỳ hạn.
Giao dịch kỳ hạn bắt đầu được thực hiện căn cứ vào quyết định 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/01/1998 của thống đốc NHNN thành viên chủ yếu tham gia thị trường này là các doanh nghiệp có nguồn thu hoặc có nhu cầu ngoại tệ hợp pháp có mong muốn bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất và các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ thực hiện giao dịch với các mục đích phục vụ nhu cầu của khách hàng, bảo hiểm rủi ro tỷ giá và kinh doanh kiếm lời.
Mặc dù quy chế đã ban hành nhưng giao dịch kỳ hạn được các NHTM áp dụng rất ít, năm 2001 chỉ chiếm 2% tổng giao dịch cho dù đây là phương thức giao dịch rất tiến bộ được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Nguyên nhân là do chúng ta quy định kỳ hạn của giao dịch làm mất tính linh hoạt, theo quyết định 679/2002/QĐ-NHNN về một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ thì kỳ hạn giao dịch đối với giao dịch kỳ hạn và hoán đổi đã được mở rộng từ 7 đến 180 ngày (so với trước đây từ 30 đến 180 ngày) nhưng vẫn chưa đảm bảo tính linh hoạt. Mặt khác, khoảng cách giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn rất lớn dẫn đến hiện tượng thu gom ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo cung cầu về ngoại tệ, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng. Theo quyết định trên, tỷ giá kỳ hạn được xác định theo nguyên tắc:
- Đối với giao dịch giữa VND và USD tỷ giá không được vượt quá mức trần tỷ giá giao ngay áp dụng tại thời điểm kỳ hạn (tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường Interbank do NHNN công bố cộng 0,25%) cộng với mức gia tăng kỳ hạn cho phép (tỷ lệ % mức trần tỷ giá giao ngay) quy định đối với từng kỳ hạn cụ thể.
- Đối với giao dịch liên quan đến các ngoại tệ khác do Tổng giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ được phép xác định.
Rõ ràng cách xác định tỷ giá của Việt Nam không phản ánh tương quan lãi suất 2 đồng tiền và không phản ánh thực chất mối quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Với quy định trên, tổng doanh số giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chiếm tỷ lệ thấp, giao dịch chủ yếu tập trung vào kỳ hạn ngắn, các tổ chức tín dụng bán ngoại tệ kỳ hạn là chủ yếu, đối tượng giao dịch tập trung nhiều vào khối các Ngân hàng nước ngoài.
Để khắc phục những bất cập và tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi thì ngày 28/05/2004, thống đốc NHNN đã ra quyết định 648/2004/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 679/2002/QĐ-NHNN. Quyết định này có những đổi mới cơ bản trong tư tưởng quản lý về các phương diện sau:
- Thời gian giao dịch giới hạn từ 7-180 ngày đựơc xoá bỏ, thời gian giao dịch đối với giao dịch kỳ hạn và hoán đổi giữa các loại ngoại tệ với nhau được thực hiện theo thông lệ quốc tế nhằm khuyến khích sự đa dạng và phát triển của thị trường. Thời hạn giao dịch giữa đồng Việt Nam với ngoại tệ cũng được mở rộng lên mức 3-365 ngày.
- Quản lý tỷ giá: Tỷ giá kỳ hạn do các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp tự do xác định và thoả thuận trong phạm vi mức mức tỷ gía kỳ hạn được tính theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành của hai đồng tiền giao dịch là VND và USD. Còn đối với ngoại tệ không phải USD thì vẫn chủ động giao cho các tổ chức tín dụng như trước.
Như vậy, quy định pháp lý đã được nới lỏng tương đối với thông lệ quốc tế, tạo đà cho các giao dịch mới phát triển, giúp TTNH Việt Nam ngày càng hoàn thiện.
1.2.3.3 Nghiệp vụ hoán đổi.
Năm 1997, NHNN ban hành quyết định 430/1997/QĐ-NHNN 13 về việc thực hiện giao dịch hoán đổi giữa NHNN và NHTM. Quy chế tổ chức trong hoạt động của TTNTLNH ban hành năm 1999 cũng xác định SWAP là một nghiệp vụ của TTNTLNH. Song trên thực tế mãi tới tháng 7/2001 giao dịch hoán đổi mới được đưa vào triển khai trong hệ thống Ngân hàng. Nghiệp vụ này được thựcc hiện trên cơ sở quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN về việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ giữa NHNN với các Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng VND cho các Ngân hàng và Quyết định 894/2001/QĐ-NHNN về tỷ giá áp dụng khi bán USD cho các Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ hoán đổi.
Cũng giống như giao dịch kỳ hạn, cho tới nay doanh số giao dịch hoán đổi trên thị trường vẫn ở mức thấp do tâm lý chưa quen sử dụng một nghiệp vụ mới, TTNTLNH hoạt động còn yếu, chưa chặt chẽ và do đó các quy định chưa phù hợp. Với quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN, cùng với giao dịch kỳ hạn, các quyết định đối với giao dịch hoán đổi đã được thay đổi, tạo điều kiện cho thị trường hoán đổi ngoại tệ ở Việt Nam từng bước phát triển hiệu quả hơn, góp phần làm giảm tình trạng căng thẳng trên thị trường giao ngay và giúp TTNTLNH từng bước làm quen với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới của thị trường quốc tế.
1.2.3.4 Nghiệp vụ quyền chọn.
Nghiệp vụ quyền chọn xuất hiện từ những năm 1970 nhưng ở Việt Nam mới chỉ thực hiện thí điểm từ đầu năm 2003 do nghiệp vụ này đòi hỏi các bên tham gia phải có kiến thức, kỹ năng và thị trường phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định.
Theo quy định, nghiệp vụ quyền chọn sẽ được áp dụng với các Ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, vốn tự có ít nhất 200 tỷ VND, kinh doanh ngoại tệ có lãi trong năm gần nhất. Có đề án chi tiết và quy định của Ngân hàng về quy trình nghiệp vụ quyền chọn, trong đó bao gồm các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank là Ngân hàng đầu tiên thí điểm nghiệp vụ này từ ngày 12/03/2003. Quá trình giao dịch chỉ dùng ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD, EUR, JPY, AUD....không được giao dịch bằng VND. Giới hạn số dư cao nhất là 500.000 USD hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương đương chỉ thực hiện đối với các doanh nghiệp đóng tại Việt Nam. Trong trường hợp thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, doanh nghiệp phải xuất trình cho Ngân hàng chứng từ theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành. Thời hạn giao dịch 7 đến 90 ngày. Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng doanh nghiệp có quyền yêu cầu thực hiện quyền lựa chọn theo giá đã thoả thuận. Khi đã quyết định thực hiện quyền lựa chọn, doanh nghiệp gửi cho Eximbank "giấy đề nghị thực hiện hợp đồng" theo mẫu. Sau Eximbank đã có 11 Ngân hàng được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ quyền chọn, làm đa dạng hoá thêm nghiệp vụ mới cho thị trường.
Mới đây, NHNN đã ban hành quyết định 1452/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng, trong đó lần đầu tiên cho phép cá nhân được thực hiện các giao dịch kỳ hạn và giao dịch quyền chọn với Ngân hàng. Như vậy, các nghiệp vụ này không còn bó hẹp trong phạm vi giao dịch giữa các doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với NHNN mà còn mở rộng ra đối tượng cá nhân. Quy định này sẽ khuyến khích các cá nhân tham gia vào các giao dịch Ngân hàng, giảm lượng ngoại tệ trôi nổi tự do trên thị trường.
1.3. Đánh giá sự phát triển TTNH Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
1. 3.1 Về chính sách quản lý ngoại hối.
Trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý ngoại hối được đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động, nó luôn thu hút sự quan tâm từ nhiều phía, từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước cho tới các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, chính phủ nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch gia nhập. Việc xây dựng hệ thống chính sách liên quan đến ngoại hối như tỷ giá, vay nợ nước ngoài, kiều hối, đầu tư quốc tế...là rất cần thiết vì nó liên quan trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của cá nhân, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ - tài chính khu vực đến nay, hầu hết các chính sách về quản lý ngoại hối đã được đổi mới phù hợp dần với quá trình cải cách theo chiến lược phát triển kinh tế của Đảng.
Bắt đầu từ Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối thay thế Nghị định 161/NĐ-HĐBT của Chính phủ ban hành năm 1998, các chính sách về quản lý ngoại hối đã được xây dựng theo hướng minh bạch hoá nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Biên độ giao dịch so với tỷ giá chính thức chưa linh hoạt.
Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước đã điều chỉnh mở rộng biên độ tỷ giá để đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các Ngân hàng, không còn bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước nhưng phải thấy rằng biên độ giao dịch vẫn chưa hợp lý do NHNN cố định biên độ giao dịch trong một thời gian dài chứ không điều chỉnh thường xuyên. Hiện nay biên độ cho phép là 0,25% so với tỷ giá chính thức, điều này làm cho tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do thường cao hơn của các NHTM và do đó gây khó khăn cho các NHTM trong việc thu gom ngoại tệ trên thị trường vãng lai, đồng thời không thu hút được các khách hàng có tài khoản kiều hối tại Ngân hàng bán ngoại tệ cho Ngân hàng mà mang ra thị trường tự do để bán.
+ Quy định về trạng thái ngoại hối: Từ tháng 10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định mới số 1081/2002/QĐ-NHNN về trạng thái ngoại hối đối với các NHTM. Theo đó, tỷ lệ số dư ngoại tệ trên vốn tự có của các NHTM đã tăng lên 30% so với trước đây là 15%. Tuy đây là một bước tiến về quản lý ngoại hối nhưng quy định này vẫn còn cứng nhắc, không tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tận dụng được thời cơ thuận lợi trong kinh doanh vì vốn tự có của các NHTM hiện nay rất thấp, quy định như vậy sẽ hạn chế hoạt động mua bán ngoại tệ trong ngày của các Ngân hàng.
+ Tuy nhiên việc quản lý ngoại hối cũng đã từng bước tự do hoá, thể hiện ở việc quản lý kết hối từ 40% xuống 30% và hiện nay là 0%; mở rộng đối tượng làm dịch vụ chi trả kiều hối. Tháng 9/2002, NHNN sửa đổi thông tư số 02 - 2000 về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Điều này tạo điều kiện mở rộng đối tượng làm dịch vụ chi trả ngoại hối, trong đó có cả NHTM được làm đại lý cho công ty kiều hối.
Như vậy, cho đến nay các giao dịch vãng lai đã dần được tự do hoá, các giao dịch vốn được kiểm soát trên cơ sở bước đầu có sự nới lỏng hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.3.2 Cơ chế xác định tỷ giá.
Với sự phát triển của TTNTLNH, NHNN cũng rất nỗ lực trong việc điều hành tỷ giá để duy trì TTNTLNH tự do hơn, ít có sự can thiệp của Nhà nước hơn. Cụ thể, ngày 25/02/1999, NHNN Việt Nam công bố 2 quyết định mới về tỷ giá: Quyết định 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố TGHĐ của VND với các loại ngoại tệ và Quyết định 65/1999/QĐ-NHNN7 về quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ 26/02/1999, một cơ chế điều hành tỷ mới được hình thành tại Việt Nam. Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân mua vào và bán ra thực tế trên TTNTLNH, hàng ngày NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào tỷ giá này các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ xác định tỷ giá mua bán giao ngay không quá 0,1% (hiện nay 0,25%) so với tỷ giá công bố. Cơ chế xác định tỷ giá có những ưu điểm sau:
+ Tỷ giá được công bố trên cơ sở tỷ giá bình quân thực tế ngày trước đó nên phản ánh tương đối chính xác quan hệ cung cầu trên thị trường. Vì thế khoảng cách giữa tỷ giá của các tổ chức tín dụng và tỷ giá trên thị trường tự do hẹp hơn, làm giảm các hoạt động kinh doanh ngoại tệ bất hợp pháp, giảm lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường.
+ Tỷ giá được hình thành mềm dẻo và khách quan hơn vì nó không do NHNN điều chỉnh mà tuỳ thuộc ở thị trường.
+ Theo cơ chế mới, để giữ tỷ giá ổn định hoặc điều chỉnh theo mục tiêu nào đó, NHNN có thể bán hoặc mua ngoại tệ để trực tiếp điều tiết cung cầu trên thị trường, qua đó tác động tới tỷ giá. Việc điều chỉnh tỷ giá bằng cách này phù hợp với xu thế tự do hoá hối đoái trên TTNH hơn là điều chỉnh bằng các biện pháp hành chính.
Tuy vậy, trong chính sách điều chỉnh tỷ giá này vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Tỷ giá chính thức của NHNN công bố trên TTNTLNH là tỷ giá thiết lập còn mang nặng tính chủ quan chứ chưa phải là tỷ giá mà các NHTM mua bán với nhau trên thị trường, vì vậy nó không phản ánh thật chính xác tỷ giá thực tế cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tỷ giá luôn có những biến động mạnh trái ngược nhau khiến những cá nhân và tổ chức tham gia thị trường luôn ở trong trạng thái nghe ngóng động tĩnh từ NHNN rồi mới thực hiện các giao dịch.
Mặc dù chưa thực sự phản ánh chính xác cung cầu ngoại tệ và tỷ giá vẫn chưa thả nổi hoàn toàn nhưng những điều chỉnh nói trên cũng cho thấy chúng ta đang xây dựng chế độ tỷ giá ngày càng theo hướng tự do hơn, đáp ứng nhu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
1.3.3 Về lãi suất cho vay ngoại tệ.
NHNN cho phép các NHTM tự xác định lãi suất cho vay bằng ngoại tệ đối với khách hàng dựa trên lãi suất trên thị trường quốc tế và tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho phép các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tham gia nhiều hơn vào thị trường nội địa. Điều này cho thấy Việt Nam đang nỗ lực tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế của TTNH Việt Nam.
1.3.4 Về việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cho tới nay ở Việt Nam đã có 4 nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối được thực hiện là: nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi và nghiệp vụ quyền chọn. Tuy nhiên, do điều kiện TTNH nước ta vẫn còn đang thời kỳ sơ khai nên các hoạt động giao dịch trên thị trường chủ yếu vẫn là hình thức giao ngay còn các nghiệp vụ khác mặc dù đã được NHNN điều chỉnh tạo điều kiện thuận lợi hơn nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, hoạt động không đáng kể. Đối với giao dịch quyền chọn và tương lai, mục đích chính của các loại hình giao dịch này là để đầu cơ và kiếm lời, việc thực hiện chỉ có thể tiến hành trên sàn giao dịch ở các TTNH của các nước có nền kinh tế phát triển. ở nước ta, do TTNH còn non kém, chưa hội tụ đủ các điều kiện cần thiết nên loại nghiệp vụ quyền chọn mới chỉ được đưa vào thử nghiệm, còn nghiệp vụ tương lai vẫn chưa triển khai được.
1.3.5 Về hoạt động của TTNTLNH và năng lực của hệ thống NHTM.
TTNTLNH ra đời từ ngày 20/09/1994. Sau hơn 10 năm đi vào hoạt động nó đã có những bước phát triển tích cực thúc đẩy sự phát triển của TTNH Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay hoạt động của TTLNH vẫn còn sơ khai, khối lượng giao dịch ở mức thấp, giao dịch của các NHTM chủ yếu là tự cung tự cấp tức là khối lượng ngoại tệ mua từ khách hàng hàng sử dụng hết vào việc phục vụ khách hàng của mình. Nguyên nhân do sự vận động của thế giới thời gian qua diễn ra theo một chiều (chỉ tăng hoặc giảm) nên Ngân hàng thừa vốn không thích bán ra thị trường và lo mất giá nên cũng không có ý định phòng ngừa rủi ro.
Trang thiết bị của phòng kinh doanh ngoại hối của các NHTM Việt Nam còn sơ sài, chưa đồng bộ. Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, phương tiện là vô cùng quan trọng vì nếu thiếu phương tiện thì sự cập nhật các thông tin trên thị trường sẽ bị gián đoạn. Một số NHTM có thể nói là thiếu phương tiện thông tin hiện đại mà điều này không thể thiếu được trên trên TTNH quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam chỉ có một số ít NHTM và một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thực hiện thông qua hệ thống Reuter, còn lại thì giao dịch thông qua thủ tục công văn, điện thoại hầu như vẫn được chấp nhận.
TTNTLNH hoạt động chưa hiệu quả, sự can thiệp mua bán của NHNN không đáng kể và không kịp thời, NHNN chưa thực hiện đúng vai trò là người mua và người bán cuối cùng khiến cho có khi tất cả các NHTM cùng thiếu hay thừa ngoại tệ. Các NHTM lúc nào cũng khó khăn trong việc vay vốn cả ngoại tệ và nội tệ trên thị trường.
Công tác kiểm tra, kiểm soát về giao dịch ngoại tệ của bộ phận kiểm soát nội bộ của các NHTM đôi khi còn lỏng lẻo hoặc yếu kém, gây rủi ro cho đối tác giao dịch hoặc cho chính bản thân Ngân hàng. Hơn nữa, các nhân viên giao dịch ở các NHTM nhìn chung còn yếu kém về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, do đó có rất ít NHTM Việt Nam có thể quản lý được ngoại hối với các đối tác quốc tế, bởi vì để có thể quản lý và điều hành được các giao dịch trên thị trường quốc tế đòi hỏi các giao dịch viên phải có trình độ chuyên môn cao, thành thạo kỹ năng cũng như nhạy bén trong phân tích các sự kiện chính trị và xã hội trên toàn thế giới có ảnh hưởng đến TTNH quốc tế.
2. Vai trò của Ngân hàng Ngoại Thương trong việc phát triển TTNH ở Việt Nam
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của NHNT.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có tên giao dịch là Bank For Foreign Trade of Viet Nam, viết tắt là Vietcombank, được chính thức thành lập ngày 01/04/1963 theo Nghị định số 115/CP của Hội đồng chính phủ và được thành lập theo mô hình Tổng công ty 90 theo quyết định số 286/QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 của thống đốc NHNN Việt Nam.
Đây là NHTM đầu tiên của Việt nam hoạt động kinh doanh đối ngoại được NHNN cho phép là Ngân hàng độc quyền về quản lý hoạt động ngoại hối của nước Việt Nam. Từ tổ chức tiền thân là cục quản lý ngoại hối của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước phát triển rất quan trọng trong hoạt động đối ngoại tại Việt Nam. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã góp phần tích cực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, Nhà nước, của ngành Ngân hàng, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã sớm tiếp cận, thích nghi với kinh tế thị trường, tích cực tái cơ cấu Ngân hàng, tiếp tục góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế, tăng cường cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập với bên ngoài.
Ngân hàng Ngoại thương hiện có quan hệ đại lý với hơn 1300 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đồng thời là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiệp hội Ngân hàng Châu á và các tổ chức thẻ quốc tế. Ngoài vai trò là Ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực tự động hoá thanh toán sử dụng mạng SWIFT, Ngân hàng Ngoại Thương còn được coi là Ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2004, Ngân hàng Ngoại thương đã phát triển thành hệ thống vững mạnh bao gồm:
26 chi nhánh cấp 1, 34 chi nhánh cấp 2 và 47 phòng giao dịch trên toàn quốc.
1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài.
3 công ty trực thuộc.
Góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp ( 2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng.
Tham gia 4 liên doanh với nước ngoài.
Có thể khẳng định với bề dày kinh nghiệm hoạt động Ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, đến nay Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã giữ được vị thế là NHTM được Nhà nước tin tưởng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2 Tình hình kinh doanh của NHNT.
Trước năm 1990, Nhà nước thực hiện chính sách độc quyền Ngoại thương và Ngoại hối. NHNT là ngân hàng hoạt động ngoại tệ duy nhất của cả nước, toàn bộ nguồn ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước, của các tổ chức cũng như các giao dịch và TTQT được tập trung tại NHNT. Các tổ chức chính trị có hoạt động đối ngoại buộc phải mở tài khoản tiền gửi ở NHNT. Sau năm 1990, khi hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời, nhiều NHTM được quyền kinh doanh ngoại tệ, hàng loạt ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh và văn phòng đại diện tại Việt Nam. NHNT không còn thế độc quyền hoạt động ngoại tệ như trước mà đặt trong môi trường cạnh tranh gay gắt nên nguồn ngoại tệ đã phân tán nhiều sang các ngân hàng khác.
Tuy nhiên, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối luôn được xác định là một nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc trưng của một ngân hàng đối ngoại để hỗ trợ tích cực cho công tác TTQT, nên NHNT rất coi trọng hoạt động này. NHNT luôn tìm cách tiếp cận thị trường hối đoái trong và ngoài nước với mong muốn rút ra những bài học quý báu cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và từng bước nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
NHNT luôn tổ chức tốt mạng lưới kinh doanh ngoại tệ và nhờ vào trình độ chuyên môn khá đồng đều của cán bộ trong lĩnh vực này nên công tác kinh doanh ngoại tệ đã đem lại kết quả rất đáng khích lệ. Hiện nay, NHNT đã có một số phòng buôn tiền ( Dealing Room ) với nước ngoài tại Hội Sở Trung Ương và Thành phố Hồ Chí Minh. ở các chi nhánh đã thành lập các quầy thu đổi và các phòng giao dịch thu đổi ngoại tệ cho khách vãng lai và thực hiện việc mua bán ngoại tệ với các doanh nghiệp. Doanh số mua bán ngoại tệ của ngân hàng liên tục tăng qua các năm. Điều này được thể hiện rõ thông qua biểu đồ sau:
Bảng: Doanh số mua, bán ngoại tệ của NHNT từ năm 2002 – 2005.
Đơn vị: Triệu USD
Năm
2002
2003
2004
2005 (ước tính)
Doanh số mua
4376
4954
6701
9093
Doanh số bán
4418
5098
6900
9230
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNT tăng đều qua các năm, đây là một dấu hiệu tốt trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Trong giai đoạn từ cuối năm 1997 đến 2001 là giai đoạn nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng Châu á nên tình hình kinh doanh ngoại tệ không mấy khả quan, đó cũng là tình hình chung của các NHTM. Từ năm 2002, khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có những dấu hiệu khả quan và đi vào hoạt động có hiệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 528.Doc