Ước lệtượng trưng không phải độc quyền của phú Nôm. Đó là phương
thức sáng tác của cảthời kỳtrung đại. Thếgiới hình tượng của phú theo quan
niệm chính thống lại càng phải thểhiện sựuyên bác. Ở đó, chồng lên nhau là
tầng tầng lớp lớp những biểu tượng ẩn tàng trí tuệthâmviễn của mỹhọc, triết
học phương Đông. Trong từng giai đoạn phát triển của phú Nôm trung đại,
cũng nhưtùy theo cảm hứng sáng tạo của tác giả, chiếm ưu thếtrong thếgiới
nghệthuật ấy sẽlà các biểu tượng Phật, Nho hay những hình tượng tươi tắn,
trong trẻo được nảy mầm từmảnh đất văn học dân gian.
161 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2994 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phú Nôm thời trung đại - Hành trình và đóng góp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghe sách nhi gật gù.
“Sừ tiên ban, sứ tiên cung”, bắt khoan bắt nhặt;
“Tiền diệc tặc, hậu diệc tặc”, tiếng nhỏ tiếng to.”
Thực tế ở Việt Nam, nho sĩ chưa khi nào trở thành tầng lớp tách biệt
tuyệt đối so với người bình dân. Địa vị của người trí thức tuy được đánh giá
cao nhưng không phải bất khả xâm phạm. Dân gian cũng có câu:
“Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rông
Nhất nông nhì sĩ” [53, tr.1648]
Tuy vậy, để khắc họa được một cách sâu sắc hết thảy những cái tạp
nhạp, tầm thường trong tư cách của kẻ sĩ thì phải là những người thuộc chính
tầng lớp đó. Câu chuyện vì dốt mà đọc nhầm “tiền Xích Bích, hậu Xích Bích”
thành “tiền diệc tặc, hậu diệc tặc” đoan chắc là sản phẩm của người có học.
Có điều, đủ lương tâm để nhận thấy tầng lớp mình đang tha hóa nhưng lại
không đủ sức để ngăn chặn một kết cục bi đát cho Nho học, những nho sĩ như
Nguyễn Khuyến chỉ đành lưu lại trong văn chương nụ cười còn mặn cay hơn
nước mắt.
2.2.2.2. Phú chữ Hán, với cảm hứng về lịch sử chống giặc ngoại xâm là
cảm hứng chủ đạo, không quan tâm đến cái hài. Đôi khi tiếng cười có xuất
hiện thì cũng nhằm vào mục đích châm biếm kẻ thù xâm lược:
“Vương Thông, Mã Kỳ đem dầu chữa cháy, cháy lại càng cháy;
Phương Chính, Trần Trí như rùa lê đuôi, ì ạch lang thang.”
(Lê Thánh Tông, Lam Sơn lương thủy phú) [78, tr.179]
Với phú Nôm, tình hình lại khác. Không cần tìm kiếm đâu xa, những
tác phẩm được đánh giá cao như Tịch cư ninh thể phú (Nguyễn Hãng), Ngã
ba Hạc phú (Nguyễn Bá Lân), Hàn nho phong vị phú (Nguyễn Công Trứ),
Tài tử đa cùng phú (Cao Bá Quát), Hỏng thi phú (Tú Xương)… đều xem
tiếng cười như chủ âm của tác phẩm.
Người Việt thích cười. Điều này gần như trở thành một đặc tính dân
tộc, phản ánh cách ứng xử mềm dẻo, coi trọng cái tình, đề cao hòa khí của
con người Việt. Thậm chí, lời trai gái tỏ tình duyên dáng, ngọt ngào đến thế
mà vẫn có thể pha thêm tiếng cười dí dỏm. Truyền thống ấy đi vào thi ca bác
học lại mang thêm màu sắc mới: tiếng cười là chất xúc tác tạo môi trường cho
tác giả tự do bày tỏ những cảm xúc vốn bị câu thúc bởi khuôn khổ nghiêm
khắc của quan niệm thẩm mỹ Nho gia. Điều đáng trân trọng là tiếng cười đã
trở thành ý thức của lương tri, thể hiện sự nhìn nhận bản thân một cách khách
quan nhất. Ý thức bắt buộc người viết phải tự nhận thức mình như một đối
tượng đáng cười bởi vì suy cho cùng, mỗi con người đều là một thực thể chứa
đựng vô vàn sự mâu thuẫn, vừa tốt vừa xấu, vừa mạnh mẽ vừa yếu đuối, vừa
cao thượng lại vừa hèn kém, tầm thường. Con người ở nhiều bài phú Nôm đã
thực hiện một việc rất khó khăn: tự phân tích từng biểu hiện tinh vi và thầm
kín trong tâm lý mình, không ngại ngần bày ra cái yếu đuối thậm chí kém cỏi
của bản thân một cách thành thật đến độ tàn nhẫn.
Không gian và thời gian cũng góp phần vào quá trình tạo nên tiếng cười
cho tác phẩm. Con người được đẩy vào không – thời gian dịch chuyển để va
chạm với hoàn cảnh, từ đó tìm kiếm giá trị bản thân thông qua một cuộc tự
phán xét. Thời gian bố trí không theo chiều tuyến tính càng làm nổi bật hơn
thái độ, cách ứng xử của người viết với những lỗi lầm đã qua. Từ chặng
đường quá khứ, tác giả phú Nôm có thể tự cười cợt, châm biếm bản thân một
cách rất “nhẫn tâm”:
“Có một người:
Mặt mũi khôi ngô;
Râu mày nhẵn nhụi.
Biếng học, siêng ngủ, sách vở mập mờ;
Non tập, già chơi, văn chương xốc nổi.
Đến khoa thi, nửa sợ nửa mừng;
Tính nhân sự, một may một rủi.
Mừng mặt đủ buồng cau bánh thuốc, đồ vào trường kể rất mực
phong lưu;
Theo chân nhiều đầy tớ học trò, chốn tạm trú hãy tìm nơi rộng rãi.
Thuốc Bách Tính đóm diêm, điếu ống, thông mồi này, đặt mồi khác,
văn được như thuốc, ắt hẳn “dài hơi”,
Chả Ba Họ cơm nắm ruốc bông, ăn một miếng, nghĩ một câu, văn được
như cơm, lo gì “ý nỗi”.”
(Khuyết danh, Lạc đệ tự trào phú)
Như vậy, trong phú Nôm, việc tự xét lại bản thân (của các tác giả) và
cái hài là hai yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau. Con người tự phán
xét sẽ thể hiện mình qua tiếng cười tự trào. Cũng là nói về kẻ sĩ nhưng nếu
phú chữ Hán đề cao nét đẹp chuẩn mực của người trí thức thì phú quốc âm
nhìn ngắm, cười cợt họ ở khuôn mặt đời thường, không “quân tử”. Và để có
thể vẽ lại thành công những bức tranh hài hước, tác giả phú Nôm sẽ sử dụng
cả một cơ chế nghệ thuật thích hợp. Khi ấy không chỉ có thi pháp quen thuộc
của thể loại được vận dụng mà từ văn học dân gian nhiều cách thể hiện mới
mẻ cũng đã đi vào phú, hình thành nên một bút pháp nghệ thuật độc đáo cho
mảng sáng tác này.
2.3. Thế giới hình tượng được xây dựng bằng bút pháp nghệ thuật quen
mà lạ
2.3.1. Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng.
Ước lệ tượng trưng không phải độc quyền của phú Nôm. Đó là phương
thức sáng tác của cả thời kỳ trung đại. Thế giới hình tượng của phú theo quan
niệm chính thống lại càng phải thể hiện sự uyên bác. Ở đó, chồng lên nhau là
tầng tầng lớp lớp những biểu tượng ẩn tàng trí tuệ thâm viễn của mỹ học, triết
học phương Đông. Trong từng giai đoạn phát triển của phú Nôm trung đại,
cũng như tùy theo cảm hứng sáng tạo của tác giả, chiếm ưu thế trong thế giới
nghệ thuật ấy sẽ là các biểu tượng Phật, Nho hay những hình tượng tươi tắn,
trong trẻo được nảy mầm từ mảnh đất văn học dân gian.
2.3.1.1. Sử dụng thủ pháp truyền thống để làm đẹp cho đối tượng.
Có thể vận dụng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng để tạo nên những hình
tượng mới lạ là do khả năng và tài năng của tác giả. Cố nhiên, đa phần dấu ấn
sáng tạo của các tác giả trung đại nói chung, phú Nôm nói riêng, nằm ở chỗ
phá cách, nhưng chẳng phải vì thế mà phủ nhận đóng góp của những thủ pháp
nghệ thuật truyền thống. Tuy nhiều lúc có khiến hình ảnh trở nên khô cứng
song cũng chính ước lệ, tượng trưng chắp cho hình tượng đôi cánh bay đến
với cái đẹp mang hồn tính lãng mạn phương Đông. Hình ảnh ước lệ đan cài
khéo léo trong tác phẩm có thể làm đẹp thêm cảnh vật, góp thêm một tiếng
nói yêu mến quê hương vào chuỗi dài văn chương tụng ca về non sông đất
nước. Cảnh Tây Hồ sở dĩ đẹp càng thêm đẹp vì nơi đó có chất thơ tinh tế toát
lên từ những hình ảnh thanh nhã:
“Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn;
Khách thâu nhàn lai láng từng khu.
Manh áo tơi lớp xớp trong mưa, ca Thanh thảo quyến đàn trâu
gã Nịnh;
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc Thương lương đưa gánh củi
chàng Chu.”
(Nguyễn Huy Lượng, Tụng Tây Hồ phú)
Nguyễn Huy Lượng không hề trực tiếp ca ngợi cuộc sống tự tại của con
người Tây Hồ. Mà vốn dĩ cũng không cần ca ngợi khi bốn điển cố “bài ca
Thanh thảo”, “khúc hát Thương lương”, “gã Nịnh”, và “chàng Chu” đã nói hộ
ông. Trong một câu gồm hai vế ngắn gọn ấy có màu xanh của cỏ, sắc trong
của nước, nét đẹp thanh lịch của con người, tất cả là nhờ tác giả vận dụng
khéo léo nghệ thuật ước lệ, tượng trưng. Cái đẹp được tái hiện theo phương
thức như thế vừa đáp ứng được mục đích ca ngợi vương triều Tây Sơn, vừa
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của giới sĩ phu Bắc Hà học vấn uyên bác.
Do chức năng thể loại, phú có khuynh hướng ghi chép tỉ mỉ nhiều hiện
tượng đời sống. Mặc dù vậy, phú vẫn không thuộc dạng ký nếu ta chấp nhận
rằng trần thuật người thật việc thật là một trong những đặc điểm quan trọng
cho sự phân biệt giữa ký và các thể loại khác. Trong khi đó, hệ thống hình
tượng của phú về cơ bản được thiết kế dựa trên ý thức về cái phi thường. Một
dẫn chứng dễ thấy: khởi đầu cho việc miêu tả địa danh thường là câu chuyện
về sự hình thành vũ trụ với lớp sương huyền thoại mờ ảo báo hiệu tính thiêng
liêng của đối tượng, chẳng hạn như:
“Ngao từ chia cực;
Phụng đã xây thành.”
(Nguyễn Giản Thanh, Phụng thành xuân sắc phú)
hay
“Nẻo xưa:
Vũ trụ mơ màng;
Càn khôn xếch xác.
Chân tình chứa đẫy hải hà;
Tú khí còn ngưng quang nhạc.
Vua Bàn Cổ mở lò tạo hóa, hồng mông đà phơi phới hơi xuân;
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn xuyên, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.”
(Nguyễn Bá Lân, Ngã ba Hạc phú)
Từ thế kỷ XVIII, quan niệm con người trong văn học thay đổi từ con
người vị thế của những giai đoạn trước thành con người cá nhân, “đa tài”, “thị
tài”. Ngôn ngữ ước lệ cùng biện pháp khoa trương của phú đan dệt thành
khung trời cho các tác giả tha hồ vẫy vùng, mặc sức tự tôn cao tài năng cá
nhân. Nếu phú cho phép kể tường tận, lai lịch của đối tượng thì đây Cao Bá
Quát đầy tự hào với nét “thông minh vốn sẵn tính trời”:
“Có một người:
Khổ dạng trâm anh;
Nết na chương phủ.
Hoi miệng sữa, tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân Dương;
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí nghiệp những so Y, Phó.”
Và nếu phú được quyền miêu tả không cần đúng sự thật, thì đây, khi
nói về tài năng của mình, tác giả sẽ có thể sắp đặt một cuộc đàm đạo chuyện
thơ ca cùng người sống cách gần ngàn năm là Lý Bạch và Đỗ Phủ:
“Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước xuống, chén tiếu đàm mời mọc
trích tiên;
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng họa thì thầm lão Đỗ.”
(Cao Bá Quát, Tài tử đa cùng phú)
Một chén rượu nghiêng, nghiêng cả nước non. Một cơn xướng họa, gió
trăng đều họa hết. Giây phút con người vụt lớn lên. Giây phút con người có
thể phá tung mọi quy luật thông thường. Để truyền được khoảnh khắc xuất
thần ấy, ngôn từ nhất định phải có tính ước lệ. Nếu non nước, gió trăng tượng
trưng cho vũ trụ mênh mông thì Lý Bạch, Đỗ Phủ là biểu tượng về tài năng
kiệt xuất sống mãi theo thời gian. Giữa siêu không – thời gian đó, tồn tại
không phải một Cao Bá Quát thuộc về số đông nhân loại nữa mà là con người
khác thường tắm mình giữa tinh hoa của trời đất và mang kích thước cao lớn
vô cùng của vũ trụ. Sự ước lệ, hoa mỹ và khoa trương của hình ảnh đã thoát
khỏi lớp vỏ sáo rỗng để bộc lộ một cách nhìn đậm chất nhân văn về con
người. Nói nghệ thuật ước lệ tượng trưng là một đặc điểm tạo nên giá trị của
phú Nôm một phần cũng chính vì lý do như thế.
2.3.1.2. Điển cố hóa truyện dân gian, biến chúng thành chất liệu nghệ
thuật.
Áp lực dùng điển của phú rất lớn. Trong một bài phú độ chừng mấy
mươi câu hoặc hơn, mỗi câu hai vế mà phải liên tục dùng điển là việc hết sức
khó khăn, đặc biệt với phú Nôm. Khó không phải vì tiếng Việt không đủ khả
năng chuyển ngữ những điển cố Trung Hoa. Khó chính là vì đề tài, cảm hứng
của phú Nôm phong phú và đa dạng đến mức những câu chuyện mang tính
quy phạm của văn học Trung Quốc đành bất lực. Đối diện với tình hình ấy,
các tác giả tìm ra một cách giải quyết thông minh: vận dụng kho truyền thuyết
của dân tộc để sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật mới mẻ không thuộc
hệ thống hình tượng có sẵn. Như ở Ngã ba Hạc phú chẳng hạn, Nguyễn Bá
Lân đã biến Chử Đồng Tử trong câu chuyện dân gian thành hình ảnh ước lệ
về những người sống nhờ sông nước:
“Rủ dây dù ông Lã máy cần;
Trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước.”
(Nguyễn Bá Lân, Ngã ba Hạc phú)
Truyện cười dân gian cũng không ngại góp mặt vào thế giới vốn uy
nghiêm của phú. Mà chuyện dân gian vốn là địa hạt quen thuộc của người
bình dân, nói đến nhớ liền, không cầu kỳ, phức tạp như điển cố Trung Hoa.
Nguyễn Khuyến trích hai câu trong hai câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng, lập tức
cụ thể hóa được ngay cái sự dốt của anh thầy đồ:
“Hoặc cầm roi nhi quát tháo;
Hoặc cầm sách nhi gật gù.
“Sừ tiên ban, sứ tiên cung”, bắt khoan bắt nhặt;
“Tiền diệc tặc, hậu diệc tặc”, tiếng nhỏ tiếng to.”
(Nguyễn Khuyến, Thầy đồ ngông phú)
Mỗi khi một câu chuyện được đưa vào phú thì chúng không đơn thuần
chỉ là lịch sử nữa mà trở thành chất liệu nghệ thuật được dùng như một điển
cố đích thực. Ngày xưa để chỉ nước thái bình vẫn hay dùng điển vua Nghiêu,
vua Thuấn, chỉ đất thánh lại thường nói đến Kỳ Sơn, nơi phát tích của nhà
Chu, thì nay, Nguyễn Huy Lượng dùng truyền thuyết Lạc Long Quân giết cáo
và Kim ngưu tìm mẹ để ngụ ý tính linh thiêng của khu vực Tây Hồ:
“Trước bạch hồ vào ở đó làm hang, Long vương trổ nên vùng
đại trạch;
Sau kim ngưu dò vào đây hóa vực, Cao vương đào chặn mạch
hoàng đô.”
(Nguyễn Huy Lượng, Tây Hồ phú)
Hàm súc là đòi hỏi bức thiết của văn chương trung đại nói chung và
phú nói riêng. Dưới áp lực chung này, truyện dân gian khi đặt chân vào thế
giới của phú cũng phải được tinh giản tối đa, trở thành những biểu tượng
mang ý nghĩa tượng trưng cao độ. Để có thể thưởng thức vẻ đẹp của những
hình ảnh hàm súc được liệt kê trong một bài phú, người đọc phải hiểu biết
nhiều về văn hóa dân tộc. Từ góc độ đó, phú Nôm có đóng góp nhất định khi
nhập vào hệ thống điển cố nhiều câu chuyện được chắt lọc từ chính lịch sử và
đời sống dân tộc. Không chỉ vậy, hình ảnh ước lệ trong phú quốc âm còn có
khả năng biến thành phương tiện gây cười, một chức năng hết sức “lạ lùng”.
Vấn đề này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể hơn ở phần tiếp sau.
2.3.2. Nghệ thuật tạo tiếng cười.
Ở những tác phẩm mang cảm hứng trào lộng, châm biếm, tác giả phú
Nôm tận dụng mọi đặc trưng của thể loại để gây cười. Nghệ thuật khoa
trương không chỉ phát huy tác dụng đối với việc ca ngợi một thế giới rực rỡ
sang trọng mà còn tỏ ra phù hợp cho nhiều mục đích sáng tác không thuộc
quy định truyền thống của thể loại như phóng to cái buồn cười. Đối ngẫu
khiến hai vế hô ứng với nhau, nghĩa của vế trên ảnh hưởng đến nghĩa của vế
dưới và ngược lại. Thậm chí nhiều khi việc sử dụng các thi liệu Hán học cũng
có khả năng làm bật lên tiếng cười nhờ vào phép nhại… Những biện pháp này
sẽ hướng đến xây dựng một thế giới hình tượng thấm đẫm chất hài hước –
điều đã làm nên nét mới lạ và hấp dẫn của phú Nôm.
2.3.2.1. Xây dựng hình tượng với những tầng bậc mang ý nghĩa khác
nhau.
- Hình tượng hai lớp nghĩa gợi liên tưởng đến yếu tố phồn thực.
Trong quan niệm dân gian, niềm vui luôn đến cùng sự sinh sôi. Hoạt
động yêu đương của vạn vật không gợi ý niệm xấu mà chở theo nguồn vui.
Trong trò đố nhau, người bình dân vẫn dùng những vật dụng thường ngày có
hình dáng dễ liên tưởng đến sinh thực khí để đánh lạc hướng tư duy người
nghe và xem đó như một thú giải trí vui nhộn. Ngã ba Hạc phú tiếp thu
phương thức ấy. Trước cả Hồ Xuân Hương, ông quan to Nguyễn Bá Lân học
ở nhân dân lối nói ỡm ờ, trêu ghẹo. Nhưng Nguyễn Bá Lân vẫn là Nguyễn Bá
Lân nên cách xây dựng hình tượng cũng có nét khác dân gian. Khác biệt lớn
nhất chính là tác giả đã sử dụng nhiều chất liệu nghệ thuật Trung Hoa và Việt
hóa chúng theo hướng hài hước:
“Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;
Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu, xướng ca canh tạc.”
Hình ảnh cuộc sống ấm no của nhân dân Ngã ba Hạc bề ngoài được
miêu tả theo bút pháp quen thuộc của văn học trung đại: sử dụng điển. Nhưng
Nguyễn Bá Lân lại đặt hai điển tích này trong tình thế oái oăm. Oái oăm do
câu thiếu hẳn chủ ngữ, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Oái oăm còn do từ ngữ
quá gợi hình, khi đi liền nhau thì nghĩa của chữ vế dưới níu gọi nghĩa của chữ
vế trên, hợp thành một trường liên tưởng gợi ra cảnh ái ân: “vén quần”, “vỗ
bụng”, “cắm néo”, “quỳ gối”, “lắc cày xuôi”, “dang nách”, “khom lưng”,
“chèo dếch ngược”. Lớp nghĩa thứ hai ẩn giấu sau lớp nghĩa thứ nhất chẳng
những không làm mờ lớp nghĩa thứ nhất mà cả hai xuyên thấm vào nhau,
cùng mở ra một miền sông nước nhộn nhịp với cảnh vật dễ quyến lòng người:
“Xinh thay Ngã ba Hạc! Lạ thay Ngã ba Hạc!”. Đấy cũng chính là đóng góp
lớn nhất của bài phú: khai mở lối xây dựng hình tượng song quan, đa nghĩa
hướng đến việc gây cười trong văn chương quốc âm.
- Hình tượng xộc xệch giữa hình thức biểu hiện và nội dung được biểu
hiện.
Một thủ pháp khác được tác giả phú Nôm sử dụng để tạo nên tiếng cười
là cấu trúc hình tượng theo kiểu “xộc xệch”. Đó là sự xộc xệch cố ý để cho
nội dung tầm thường được mang mặt nạ đẹp đẽ, nghệ thuật có tính điển phạm
trở thành yếu tố gây nên cái lố bịch đáng cười.
Thuốc phiện phú (Ngô Điền) là một thành công nổi trội khi áp dụng
phương pháp “nhại” trong xây dựng hình tượng. Cảnh con nghiện đói thuốc,
cảnh rủ rê nhau đi hút…, tất cả được tác giả khắc họa những bằng hình ảnh
đẹp đẽ rút ra từ nguồn thi liệu Hán học:
“Rặt những khách dương xuân yên cảnh, rủ rê nhau bỉnh chúc dạ du;
Nguyên những người cố quốc tha hương, nghi ngút cũng hóa công
đào chú.”
hay:
“Rơ rác nhặt từng li từng tí, miệng lâm râm cho biết chữ thánh
nhân vô;
Giàu sang khi dù có dù không, bụng thổn thức cũng bền gan quân
tử cố.”
Thay vì chuyển ngữ những câu chữ Hán sang tiếng Nôm hoàn toàn như
cách làm phổ biến ở nhiều tác giả, Ngô Điền chỉ dẫn lại nguyên văn: “dương
xuân yên cảnh”, “bỉnh chúc dạ du”, “cố quốc tha hương”, “hóa công đào
chú”. Điểm độc đáo được thể hiện ở khả năng kết hợp giữa ngôn ngữ có tính
quy phạm và ngôn ngữ bình dân. Những từ, ngữ tưởng như không thể xếp đặt
cạnh nhau khi đứng vào trong cùng câu văn phú bất ngờ lại đạt hiệu quả gây
cười rất cao: “rặt những” đi với “khách dương xuân yên cảnh”, “rơ rác”,
“nhặt từng li từng tí” đi với “chữ thánh nhân vô”, “bụng thổn thức” đi với
“bền gan quân tử cố”. Sự kết hợp đặc biệt này khiến cho phú – một thể loại
có vẻ chỉ thích hợp cho những hình tượng trang trọng – lại trở thành không
gian thuận lợi làm bùng nổ tiếng cười đa âm sắc đậm đà ý nghĩa nhân sinh.
2.3.2.2. Xây dựng những nghịch lý.
Sở dĩ hình tượng nhân vật trong phú Nôm có thể khiến độc giả phải bật
cười còn là vì chúng vận động theo hướng khác với sự hình dung theo quan
niệm thông thường.
Ban đầu, mâu thuẫn chỉ mới nằm trên bề mặt, không thuộc về chiều sâu
bản chất hiện tượng. Đấy là trường hợp của Tịch cư ninh thể phú (Nguyễn
Hãng). Cuộc sống ẩn dật được miêu tả với những chi tiết tả thực gợi nên một
lối sống có phần khác với tưởng tượng về người ẩn sĩ nói chung:
“Ăn thì:
Tương hạnh chua lòm;
Muối vầu nhạt thếch.
Sớm ba chén chè sen mát ruột, nài chi vò đất hẩm hiu;
Bữa vài lưng cơm lốc no lòng, sá quản mâm đan xộc xệch.”
(Nguyễn Hãng, Tịch cư ninh thể phú)
Theo tiến trình phát triển chung của văn học, phú Nôm còn có khả năng
phát hiện những nghịch lý ẩn sâu trong mỗi con người. Chính những hình
tượng gây nên phản ứng bất ngờ trong tâm lý tiếp nhận của người đọc làm
bùng nổ tiếng cười. Cấu trúc được quy định khá chặt chẽ của phú Đường luật
cũng được các tác giả phú Nôm sử dụng rộng rãi để tăng cường tiếng cười
cho tác phẩm. Có những bài phú phải đọc đến cuối cùng mới có thể lật hết
những mảng, miếng gây cười mà người viết cố tình “gài” sẵn dọc theo bố cục.
Thử xem, câu chuyện Nguyễn Hổ Trừu kể lại trong Xem cờ để mãnh phú có
gì đáng cười? Cái hài thật sự không phải ở câu chuyện có cô gái đến xem học
sinh đánh cờ, vô ý vô tứ để ra cả, mà cũng chẳng do lối biện minh chẳng còn
thiết gì đến kinh sách của mấy anh học trò “Thế mà không cười, họa có ông
thánh”. Tiếng cười chỉ vỡ òa vào phút cuối với kết luận bất ngờ của người
thầy về toàn bộ câu chuyện:
“Tiên sinh nghe rồi,
Nãi mỉm kì môi,
Nãi vỗ kì đùi,
Nãi quẳng kì roi,
Vị nhiên thán viết:
Ối trời ơi, ối đất ôi!
Thế mà hôm qua không có tôi!”
Người viết cố tình lợi dụng sự dài dòng của phú để miêu tả từ từ, để
nhấp nháp sự thú vị có được từ việc làm chậm hóa một chuỗi hành động của
“tiên sinh”. Những từ nối theo đúng phép tắc lại còn giúp người kể ngụy trang
mình sau khuôn mặt tỉnh như không. Nhờ vậy nụ cười ào đến với người đọc
rất tự nhiên trong giây phút bất ngờ đến thần tình.
Tóm lại, khả năng tạo nên tiếng cười trong phú Nôm là kết quả từ cuộc
gặp gỡ giữa thi pháp miêu tả đặc trưng của thể loại và những thủ pháp nghệ
thuật dân gian. Và khi nhìn vào khả năng ấy, chúng ta lại có thêm bằng cớ
vững chắc để tin rằng cái hài luôn nhận được sự quan tâm của văn chương bác
học. Nếu mang phú quốc âm đặt bên cạnh thơ Nôm Đường luật thì “Hồ Xuân
Hương” không còn là hiện tượng đơn độc. Đấy cũng là minh chứng cụ thể
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của yếu tố “Nôm” trong quá trình Việt hóa các
thể loại du nhập từ bên ngoài như thơ và phú.
2.3.3. Hệ thống ngôn từ.
Văn của thể phú, theo quan niệm chính thống, phải đẹp đẽ. Với phú,
người Trung Hoa đã tìm được một thế giới nghệ thuật mà ở đó ngôn từ phát
huy đến mức tối đa vẻ lộng lẫy, hoa mỹ. Điều này có vẻ như chống lại khả
năng tiếp thu từ ngữ đời thường vào thể phú. Nhưng bản thân phú Nôm vì
cách diễn đạt gần gũi với văn xuôi nên so với nhiều thể loại khác được viết
bằng thơ, có thể thu hút một lượng đáng kể ngôn ngữ đời thường.
Mỗi thể loại văn học đều có hình thức cấu trúc văn bản cùng hệ thống
ngôn từ riêng. Ngôn từ được dùng trong một tác phẩm không phải là phép
tính cộng giữa các con chữ mà chúng luôn hô ứng, thống nhất với nhau trong
một cấu trúc lớn hơn. Mặc dù cũng chịu ảnh hưởng từ hai nguồn chính thống
và dân gian như nhiều thể tài khác nhưng phú Nôm có cách xử lý riêng đối
với việc tiếp thu và vận dụng ngôn ngữ dân tộc.
2.3.3.1. Ngôn từ giàu nhạc tính thể hiện ở phương diện ngữ âm.
Phú là thể loại nằm giữa thơ và văn xuôi. Chất thơ thể hiện ở nội dung
là những khoảnh khắc rung động của tâm hồn, ở hình thức nghệ thuật là sự
uyển chuyển của vần và nhịp. “Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp điệu. Đó
là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét.” [26, tr.151]. Nói cách khác,
nội dung của phú Nôm thường được cụ thể hóa bằng ngôn từ nghệ thuật giàu
nhạc tính (dù không giống thơ về mức độ).
Trong văn chương trung đại, nhạc điệu được làm nên do sự kết hợp
chặt chẽ giữa thanh, đối, nhịp, vần theo đúng cách luật. Do đó, nhạc điệu cũng
mang tính khách quan, cố định. Các thể loại từ mô phỏng Trung Quốc đến
thuần Việt đều có những quy tắc ràng buộc người sáng tác. Nếu phá cách thì
chỉ có ý, tình, còn trong ngôn từ nghệ thuật, nhà thơ vẫn phải tuân theo những
quy phạm có sẵn. Phú tuy tương đối co giãn hơn thơ ở độ dài của câu song
cũng có những điều gò bó. Với sự phổ biến của thể phú Đường luật7, nhạc
điệu chung của phú Nôm do những đặc điểm của thể loại như cách gieo vần
cuối các vế, cách ngắt nhịp ở từng loại câu song quan, cách cú, gối hạc… quy
định. Nhưng nhờ khai thác tính nhạc trong tiếng Việt, nhiều tác giả đã thành
công khi làm cho cái lặp lại đến độ cứng nhắc, thiếu sức sống của câu văn phú
trở nên mềm mại hơn.
Dùng từ láy là một cách hiệu quả để tăng nhạc điệu. Vịnh Vân Yên tự
phú (Huyền Quang), Phụng thành xuân sắc phú (Nguyễn Giản Thanh), Tịch
cư ninh thể phú (Nguyễn Hãng)… có thể cho thấy rõ điều đó với những
đoạn như:
“Liễu Chương Đài mây ngọc dờn dờn;
Đào thượng uyển má hồng rỡ rỡ.”
(Nguyễn Giản Thanh, Phụng thành xuân sắc phú)
“Tính lặng dễ say mùi đạo, gối quyển vàng, giấc ngủ ngáy o o;
7 Căn cứ vào những bài phú Nôm được biết và được đưa vào diện khảo sát, có thể kết luận rằng
phú cổ thể ít khi được dùng. Trong năm bài phú Nôm của đời Trần hiện còn, có hai bài tứ tự. Trong
số 41 bài từ đời Lê về sau được tập hợp trong Phú Nôm của Vũ Khắc Tiệp chỉ có Tài bàn phú là
cũng theo cổ thể và cũng viết bằng thể tứ tự. Chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng là phú Đường luật.
Mệnh yên xảy tỉnh lòng trần, trỏ mây bạc, vỗ tay cười khanh khách.”
(Nguyễn Hãng, Tịch cư ninh thể phú)
Bản thân từ láy đã được cấu tạo dựa trên sự hòa phối ngữ âm theo quy
luật hài âm và hài thanh. Trong từ láy hoàn toàn chẳng hạn, các yếu tố láy có
thể lặp lại hoàn toàn thanh điệu của yếu tố gốc (như trường hợp dờn dờn, rỡ
rỡ, hây hây8) hoặc cũng có thể chuyển đổi thanh điệu theo quy luật phát âm
cổ: ngang – hỏi – sắc, huyền – ngã – nặng (như vòi vọi, nhè nhẹ, thay thảy9).
Sự hòa phối âm thanh giữa yếu tố gốc và yếu tố láy giúp cho từ láy phát huy
cao độ giá trị âm thanh và nhịp điệu, trở thành một loại đơn vị có sức gợi cảm
cao.
Nếu khi sử dụng chữ Hán vào sáng tác, người Việt chỉ có thể dựa một
số lượng từ nhất định, không thể sáng tạo nên các tổ hợp từ mới, thì khi vận
dụng tiếng Việt, tác giả có được trong tay một thứ ngôn ngữ mang hơi thở của
cuộc sống, không ngừng phát triển theo sự phát triển của xã hội. Cùng với sự
mở rộng của hệ đề tài, nhiều từ láy biểu hiện những sắc thái tình cảm phong
phú đã nhập tịch vào phú Nôm:
“Chiều người lấy của;
Đẹp duyên là chồng.
Thì cũng chăn chung;
Thì cũng quần chung.
Thì cũng long tong;
Thì cũng ty tung.
Tha hồ túng tính;
Mặc sức vẫy vùng.”
(Khuyết danh, Giặc đến nhà đàn bà phải đánh phú)
8 Từ láy xuất hiện trong Phụng thành xuân sắc phú (Nguyễn Giản Thanh).
9 Từ láy xuất hiện trong Vịnh Vân Yên tự phú (Huyền Quang).
Các từ “ty tung”, “túng tính” gợi nhắc đến một loạt những từ láy khác
bắt đầu bằng âm “t” được dùng để mô phỏng tiếng đàn tính tang, tình tang10.
Chúng bắt buộc trí óc người đọc liên tưởng đến sự gợi cảm âm nhạc trong
ngôn từ văn học. Hiểu theo một cách nào đó thì âm thanh cũng mang nghĩa.
Điệp âm mang âm nhạc vào trong hình ảnh bằng phép chuyển đổi cảm giác.
Âm thanh gây nên ấn tượng về nét tươi sáng của bức tranh ngay cả khi người
đọc chưa kịp biết về nghĩa của từ. Đoạn viết sáng tạo bằng âm điệu cảm xúc
chứ không hẳn là vần luật. Nếu đúng luật, bằng trắc giữa hai vế tứ tự phải đối
nhau. Các cặp “chăn chung”/“quần chung”; “long tong”/“ty tung” đều gieo
vần bằn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN035.pdf