Luận văn Phương hướng và giải pháp phát triển đường giao thông nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010

MỤC LỤC

 

 

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI 3

1.1 Khái quát về chuyển giao công nghệ 4

1.1.1 Khái niệm và nội dung của chuyển giao công nghệ 4

1.1.2 Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI nói riêng 5

1.1.3 Đặc điểm và tác động của việc chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI 6

1.1.4 Một số vấn đề cần chú ý khi tiếp nhận công nghệ qua các dự án FDI 11

1.2 Lý thuyết lựa chọn công nghệ 14

1.2.1 Sự cần thiết phải lựa chọn công nghệ 14

1.2.2 Mô hình lý thuyết lựa chọn công nghệ 15

1.2.3 Những tiêu chuẩn rút ra từ ba mô hình lý thuyết 22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 24

2.1 Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án fdi 25

2.1.1 Ban hành các qui định pháp lý và thực hiện bảo hộ đối với các công nghệ được chuyển giao 25

2.2.2 Đưa ra các giải pháp để bảo vệ lợi ích của Bên chuyển giao và Bên tiếp nhận 26

2.2 Khái quát tình hình thu hút fdi vào việt nam thời gian qua. Mối liên hệ với chuyển giao công nghệ 29

2.2.1 Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài 29

2.2.2 Đối tác đầu tư 30

2.2.3 Cơ cấu đầu tư 31

2.2.4 Hình thức đầu tư 33

2.3 Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua 34

2.3.1 Các kênh chuyển giao công nghệ vào Việt Nam 34

2.3.2 Nguồn gốc và các hình thức chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI 35

2.3.3 Đối tác cung cấp công nghệ 38

2.3.4 Đặc điểm chuyển giao công nghệ theo lĩnh vực 40

2.3.5 Vấn đề lựa chọn công nghệ của Việt Nam và chuyển giao công nghệ của nước ngoài 50

2.3.6 Ứng dụng công nghệ được chuyển giao 53

2.4 Đánh giá chung về thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua 59

2.4.1 Những kết quả đạt được 59

2.4.2 Những tồn tại và nguyên nhân 60

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CÁC CÔNG NGHỆ ĐƯỢC TIẾP NHẬN QUA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 62

3.1 Quan điểm, phương hướng chỉ đạo của nhà nước 63

3.2 Các mục tiêu trong công tác tiếp nhận công nghệ 63

3.2.1 Mục tiêu chung 63

3.2.2 Mục tiêu theo ngành 65

3.3 Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI tại Việt Nam 70

3.3.2 Giải pháp từ phía Nhà nước 70

3.3.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp FDI 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO 78

 

doc90 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và giải pháp phát triển đường giao thông nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư nước ngoài. Thứ hai là lực lượng lao động trong nước tuy dồi dào nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được các yêu cầu sản xuất hiện đại, năng suất thấp và do vậy chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm còn cao; sự di chuyển lao động giữa các cùng còn gặp nhiều trở ngại… 2.2.3.2 Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút đầu tư nước ngoài như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng trọng điểm phía Nam (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu) chiếm 56% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phí Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 26,3% tổng vốn đăng ký của cả nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các thành phố lớn có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, trình độ nguồn nhân lực cao hơn sẽ khuyến khích chuyển giao những công nghệ hiện đại. Tuy nhiên nó sẽ tạo ra sự mất cân đối trong phát triển kinh tế giữa thành thị - nông thôn, miền xuôi - miền ngược do đó ảnh hưởng đến chủ trương phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 2.2.4 Hình thức đầu tư Trong các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang chiếm tỷ trọng lớn nhất về số dự án (70% số dự án) cũng như tổng vốn đầu tư (44%). Tiếp đó là doanh nghiệp liên doanh với 26,2% số dự án và 44% tổng vốn đầu tư. Hợp đồng hợp tác kinh doanh và hình thức BOT chỉ chiếm một tỷ lệ hạn chế về số dự án cũng như quy mô vốn đầu tư. Biều đồ 2.2 Phân loại dự án theo hình thức đầu tư (tính đến hết ngày 31/12/2003 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT 2004 Mặc dù doanh nghiệp 100% VNN là hình thức đầu tư chiếm tỷ trọng cao nhất nhưng đối tác cung cấp công nghệ (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) lại tồn tại ở nước ta phổ biến là dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là hình thức phổ biến nhưng lại vắng mặt trong một số ngành quan trọng như dầu khí, viễn thông, sản xuất ô tô xe máy. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và có mặt trong rất ít ngành nhưng đây lại là hình thức phổ biến trong lĩnh vực viễn thông (chiếm tới 94% số doanh nghiệp). 2.3 THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 2.3.1 Các kênh chuyển giao công nghệ vào Việt Nam Cũng giống như các nước khác, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các kênh chủ yếu sau: - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): công nghệ, bí quyết kinh doanh cùng với vốn được du nhập vào. - Hợp đồng nhập khẩu công nghệ (licensing agreement). - Nhập khẩu hàng hoá tư bản (capital goods) như máy móc, thiết bị toàn bộ kiểu chìa khoá trao tay ; cử chuyên gia, cán bộ kỹ thuật ra nước ngoài để tiếp thu công nghệ ; mời các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật nước ngoài vào. Trong các kênh trên đây, về số lượng công nghệ thì kênh thứ ba chiếm vị trí lớn. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là kênh thu hút kỹ thuật nước ngoài quan trọng hơn cả nếu về mặt chính sách, chiến lược cũng như hiệu quả kinh tế trực tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thái cho nước ngoài tham gia kinh doanh, tức là phải chịu sự tác động nhất định của nước ngoài, nhưng đứng về mặt du nhập công nghệ, đây là kênh có hiệu quả nhất vì có thể tranh thủ được bí quyết kinh doanh, mạng lưới tiếp thị (maketing) quốc tế của các xí nghiệp đa quốc gia, do đó có thể rút ngắn được quá trình phát triển công nghiệp. Ở Việt Nam, chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Nó được biểu hiện qua giá trị chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp có vốn FDI tăng lên nhanh chóng trong thời gian gần đây (biểu đồ 2.3). Năm 1998, tổng giá trị nhập khẩu công nghệ của các doanh nghiệp đạt tới trên 637 triệu USD, chiếm khoảng 31% tổng giá trị nhập khẩu công nghệ của cả nước (Vietnam Economic News, No.4, 1999, p.43-44). So với năm 1995, tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 12,7% (World Bank 1997). Biểu đồ 2.3 Nhập khẩu công nghệ (phần cứng) ở Việt Nam (1995-1999) Đơn vị: % Nguồn: Đầu tư quốc tế – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001. 2.3.2 Nguồn gốc và các hình thức chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI 2.3.2.1 Nguồn gốc của công nghệ. Trong số 71 doanh nghiệp FDI được khảo sát năm 2002, có tới 63% số doanh nghiệp trả lời sử dụng công nghệ và máy móc thiết bị (MMTB) trong nội bộ hệ thống đối tác nước ngoài (xem biểu đồ 2.4). Biểu đồ 2.4. Nguồn gốc của công nghệ Nguồn: Hoạt động ĐTTTNN ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh – NXB Khoa học xã hội 2002). Điều này phù hợp với một trong những đặc trưng căn bản của FDI là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài và bản thân các đối tác kinh doanh khi tham gia thường muốn sử dụng công nghệ có sẵn, trong nội bộ hệ thống công ty của mình. Tuy nhiên, vẫn có 27% doanh nghiệp cho biết không phải từ đối tác và hệ thống của họ và 10% số doanh nghiệp được khảo sát sử dụng cả hai nguồn. Xem xét từng loại hình sở hữu của doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và liên doanh đều sử dụng công nghệ trong nội bộ hệ thống và hình thức kết hợp, chiếm tỷ lệ tương ứng là 85% và 56%. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc chuyển giao công nghệ trong nội bộ hệ thống công ty trong quá trình đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia. 2.3.2.2 Hình thức chuyển giao Hầu hết các doanh nghiệp đều mua công nghệ bằng tiền (48%). Việc đóng góp bằng phát minh, bản quyền và chuyển giao thông qua hình thức đại lý chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (13%) trong số 70 doanh nghiệp trả lời. Biểu đồ 2.5. Các hình thức chuyển giao công nghệ Nguồn: Hoạt động ĐTTTNN ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh – NXB Khoa học xã hội 2002). Xem xét với các loại hình đầu tư cho thấy việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp Hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện chủ yếu bằng mua trực tiếp. Trong khi đó hình thức đóng góp vào doanh nghiệp dưới hình thức bằng phát minh, bản quyền và hình thức chuyển giao toàn bộ dưới hình thức đại lý chỉ được thực hiện ở các liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chỉ so sánh hai loại hình liên doanh và 100% vốn nước ngoài, loại hình liên doanh có xu hướng nhập công nghệ bằng tiền nhiều hơn là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lại có xu hướng có tỉ lệ đóng góp vào doanh nghiệp bằng phát minh và bản quyền nhiều hơn các doanh nghiệp liên doanh (xem hình 2.7). Biểu đồ 2.6. Các hình thức chuyển giao công nghệ và MMTB chia theo loại hình doanh nghiệp Nguồn: Hoạt động ĐTTTNN ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh – NXB Khoa học xã hội, 2002) Đại đa số các hợp đồng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam không bao gồm hợp đồng li-xăng-pa-tăng, mà thường chỉ bao gồm li-xăng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá và các cam kết chuyển giao tài liệu kỹ thuật, bản vẽ, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo. Ngoài lý do về quan hệ nội bộ, hiện tượng trên đây còn có thể do một số nguyên nhân khác : Theo phê bình của một số nhà phân tích thì qui định chuyển giao công nghệ hiện nay là quá chặt (đặc biệt qui định giá trần cho công nghệ và quyền của bên mua đối với công nghệ sau khi hết hạn hợp đồng), khiến chủ sở hữu các công nghệ của họ vào Việt Nam. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam thường khởi sự với các hoạt động sản xuất, gia công, lắp ráp dựa trên các thiết kế sản phẩm đã có và công nghệ phổ biến. Với tính chất sản xuất như vậy, công nghệ cần thiết ở dạng hệ thống thiết bị, cộng với kiến thức vận hành, căn chỉnh máy móc, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn nguyên vật liệu. Trong hoàn cảnh này, hợp đồng chuyển giao công nghệ nếu được lập, thường do nguyên nhân tính thuế, chứ ít khi gắn với li-xăng-pa-tăng. Việc vắng bóng các hợp đồng li-xăng-pa-tăng trong các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được Bộ Khoa học và Công nghệ chấp thuận còn chứng tỏ công nghệ chuyển giao đó hoặc không được bảo hộ bởi pa-tăng hoặc được bảo hộ bởi pa-tăng ở nước ngoài nhưng không được đăng ký bảo hộ ại Việt Nam. Cả hai khả năng đó đều chứng tỏ công nghệ đó không còn mới mẻ. 2.3.3 Đối tác cung cấp công nghệ Xét trên các chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh hưởng thị trường thế giới... thì ở Việt Nam còn có quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Trong số 500 tập đoàn lớn nhất mà tạp chí Fortune (Mỹ) bình chọn hàng năm, ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ có 10% số đó có dự án đầu tư và thiết lập các quan hệ giao thương hàng hoá dịch vụ và công nghệ, trong khi đó ở Trung Quốc đã có tới 40% số này thực hiện đầu tư tức là vào khoảng 200 tập đoàn. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận được trên một số lĩnh vực kinh tế chủ yếu, các TNC lớn đã thiết lập và duy trì các quan hệ kinh tế dài hạn với VIệt Nam. Ví dụ trong lĩnh vực dầu khí, nước ta đã cấp 33 giấy phép cho các tập đoàn dầu khí lớn của thế giới theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm để thăm dò và khai thác dầu khí chủ yếu ở các thềm lục địa Việt Nam : Đó là các tập đoàn hùng mạnh về tài chính và công nghệ nổi tiếng thế giới như Mobil (Mỹ), BP (Anh), Shell (Hà Lan – Bỉ), Total (Pháp), Mishubishi (Nhật Bản) và Petronas (Malayxia). Trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, điện tử và vật liệu xây dựng, Việt Nam đã thu hút được nhiều tạp đoàn lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc như Mitsui, Mishubishi, LG, Samsung... từ các tập đoàn nổi tiếng của Mỹ như Ford, Chrysler; từ Đức như Mercedes, OPEL… Trong lĩnh vực viễn thông, những tập đoàn hàng đầu của thế giới như Telstna (Úc), Siemen (Đức), Acatel (Mỹ)… đã có dự án đầu tư vào Việt Nam… Điều đáng kể nhất là các tập đoàn lớn này do có tiềm lực hùng hậu về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức điều hành… luôn hoạt động theo một chiến lược dài hạn. Do vậy cả những khi nền kinh tế nước đối tác gặp khó khăn (như Việt Nam hiện nay), các công ty này có thể điều chỉnh chiến lược đầu tư, giảm tiến độ thực hiện dự án cũ và chưa triển khai các dự án mới… nhưng rất hiếm khi rút vốn, từ bỏ sự hiện diện của mình. Ví dụ trong lĩnh vực sản xuất ô tô ở Việt Nam, do thị trường chưa được mở rộng, nhà nước có chủ trương hạn chế mua sắm ô tô bằng vốn ngân sách, do nhập khẩu ô tô nguyên chiếc và qua sử dụng tràn lan… nên 14 liên doanh ô tô gặp khó khăn. Tuy vậy, trừ một số liên doanh là một số đối tác thuộc công ty vừa và nhỏ buộc phải chuyển nhượng hoặc ngừng sản xuất, các tập đoàn lớn vẫn kiên trì chờ đợi và tính đến khả năng thu nhập của người dân Việt Nam trong thập kỷ tới. Lực lượng các tập đoàn xuyên quốc gia lớn hiện diện, theo đó rõ ràng đã góp phần làm chậm lại tình trạng đầu tư nước ngoài giảm sút ở Việt Nam hiện nay. Còn lại phần lớn các dự án đầu tư vào Việt Nam thường chỉ đạt quy mô dưới 20 triệu USD và thường được thực hiện bởi các TNC Châu Á. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu, do đó không thể là những ngành công nghệ cao, đòi hỏi vốn lớn mà phần đa là các ngành điện tử, dệt may, nông lâm hải sản chế biến , dịch vụ du lịch và khách sạn. Hiện trạng này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, lợi thế so sánh chủ yếu của Việt Nam hiện tại chủ yếu là lao động rẻ, nguyên vật liệu rẻ và thị trường rộng lớn. Những ngành sản xuất tận dụng các lợi thế này chủ yếu là các ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên vật chất nên công nghệ chuyển giao thường không cao. Trong điều kiện toàn cầu hoá, khi lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế đã chuyển trọng tâm sang các ngành đòi hỏi có hàm lượng cao về công nghệ và tri thức thì theo logic của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu, phần xâm nhập vào thị trường Việt Nam chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai, như trên đã phân tích, phần đầu tư và chu chuyển thương mại ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu bỏi các TNC Châu Á. Do đó, xuất phát từ hiện trạng vốn có của các TNC Châu Á : quy mô tài chính, trình độ công nghệ, tổ chức điều hành… của họ còn thấp xa với các TNC Bắc Mỹ và Châu Âu. Thứ ba, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, về môi trường đầu tư, về năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư của phía Việt Nam… đang có nhiều bất cập so với yêu cầu, đòi hỏi từ phía đối tác nước ngoài là các tập đoàn xuyên quốc gia lớn. Thứ tư là do thiếu các hiệp định song phương giữa Việt Nam và các nước công nghiệp phát triển. Thứ năm là do Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của tiến trình hội nhập quốc tế… 2.3.4 Đặc điểm chuyển giao công nghệ theo lĩnh vực 2.3.4.1 Khái quát về đặc điểm công nghệ chuyển giao theo lĩnh vực Các công nghệ hiện đang sử dụng ở các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thường là công nghệ đã (và đang) được sử dụng phổ biến ở bản quốc, dựa chủ yếu vào nguồn công ty mẹ, có thể được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện vận hành, đặc tính nguyên liệu, quy mô sản xuất, trình trạng lao động tại Việt Nam. Các công nghệ hiện đại tiên tiến đã được chuyển giao vào những ngành then chốt như dầu khí, điện tử, viễn thông, ô tô xe máy... tạo ra các sản phẩm mới, chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu. Đây cũng là những lĩnh vực thu hút được nhiều đối tác là những nước có trình độ công nghệ hiện đại như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu. Các công nghệ sử dụng nhiều lao động ít vốn được chuyển giao vào các ngành dệt may, giày da không chỉ góp phần giải quyết công an việc làm cho người lao động mà còn trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Còn các ngành sản xuất hàng dịch vụ tiêu dùng trong nước (thực phẩm, hoá mỹ phẩm...) không chỉ tiếp nhận được các công nghệ vừa và nhỏ mà thậm chí cả những công nghệ hàng đầu thế giới như kem, trà, dầu gội, bột giặt,... Bảng 2.3. Sơ lược công nghệ chuyển giao vào Việt Nam Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 2.3.4.2 Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam theo lĩnh vực. a. Lĩnh vực dầu khí: So với các ngành kinh tế Việt Nam thì Dầu khí là một trong rất ít ngành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới đến tham gia đầu tư. Đến nay (2002), chúng ta đã cấp 45 giấy phép hoạt động cho các nhà đầu tư tương đối có tiềm lực về mọi mặt thuộc Bắc Mỹ, châu Âu, châu Úc, châu Á. Hình thức hoạt động chủ yếu của các nhà đầu tư này là hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC), hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên doanh (JV). Hiện nay, một số mỏ đã tiến hành khai thác như: Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Bunga, Kekwa, và chuẩn bị khai thác mỏ khí Lan Đỏ, Lan Tây, Rồng Đôi, Hải Thạch, Emeral... (ngoài các mỏ Bạch Hổ, Rồng do Vietso Petro thực hiện). Các công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực dầu khí là: Tìm kiếm, thăm dò, khai thác Ứng dụng công nghệ địa chất định lượng, mô hình hoá - mô phỏng hoá trong phân tích bể trầm tích, phân tích mô cùng các công nghệ chuyên sâu trong từng lĩnh vực địa cấu tạo, địa hoá, địa tầng, thạch học trầm tích, đánh giá trữ lượng, xác định các điều kiện vật lý mỏ cho từng trường hợp cụ thể. Ứng dụng công nghệ địa vật lý thích hợp, sử dụng kết hợp nhiều trường địa vật lý có bản chất khác nhau để có thể khai thác thông tin toàn diện về cấu trúc lòng đất, tính chất môi trường và sự biến đổi của chúng trong không gian - thời gian. Ứng dụng công nghệ tin học, điện tử, vật liệu mới và các thành tựu toán lý vào công tác đo đạc, thu nhận và chuyển tải thông tin, xử lý và minh giải số liệu, mô hình hoá và mô phỏng hoá, giải quyết trực tiếp các nhiệm vụ địa chất tổng thể lẫn chi tiết với thời gian rút ngắn và độ chính xác cao. Ứng dụng công nghệ vật liệu mới, tự động hoá, kỹ thuật cư khí trong điều kiện nhiệt độ áp suất cao, kỹ thuật xây dựng hiện đại và công tác xây dựng các công trình biển, công tác khoan và khai thác, vận chuyển bằng đường ống, đặc biệt là khoan định hướng, khoan ngang và khoan thứ cấp, tam cấp trong tất cả các loại mỏ… Chế biến dầu khí Ứng dụng công nghệ hoá dầu và khí đốt để khai thác tối đa giá trị của dầu mỏ, khí đốt phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế và phục vụ dân sinh. Việc ứng dụng những công nghệ hiện đại trong khai thác và chế biến đã đem lại cho Việt Nam hàng chục triệu dầu thô và hàng tỷ tấn doanh thu mỗi năm. Biểu đồ 2.7. Sản lượng khai thác và doanh thu xuất khẩu dầu thô Nguồn: www.PetroVietnam.com.org Lĩnh vực viễn thông Đến nay (2002) đã có 20 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là trên 2 tỷ USD. Trong số các dự án đầu tư ở lĩnh vực này, có đến 94% số dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án theo hình thức liên doanh để sản xuất các thiết bị vật tư điện. Đặc biệt, đây là hình thức không có dự án đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Ngành Bưu chính Viễn thông là ngành được đánh giá thực hiện việc chuyển giao công nghệ nhanh và chất lượng tốt nhất trong các ngành mà công nghệ được chuyển vào Việt Nam. Một loạt các công ty nước ngoài đã tham gia chuyển giao công nghệ vào lĩnh vực này như liên doanh Goldstar (Hàn Quốc), Fvarcetelecom (Pháp), NEC (Nhật), Motorola (Mỹ), Alcatel (Pháp), Sremens (Đức), Samsung LGIC (Hàn Quốc) đã và đang được triển khai tốt. Đặc biệt là sự hợp tác liên doanh giữa công ty thông tin di động Việt Nam (VWS) và hai công ty Industri for Waltnius AB Kinnevi và Comvil của Thuỵ Điển với tổng đầu tư là 341,5 triệu USD. Đây có thể coi là đầu tư lớn nhất trong ngành Bưu chính viễn thông, nó đã phủ mạng trong toàn quốc và quốc tế vào ngày 1/1/1996 ngành Bưu chính viễn thông đưa vào khai thác tuyến cáp quang ngầm xuyên biển quốc tế Thái Lan – Việt Nam – Hồng Kông cung cấp cho Việt Nam 8500 kênh quốc tế. Ngành Bưu chính viễn thông đã thực hiện tốt công tác tiếp nhận công nghệ thông tin và triển khai hoạt động tốt, đi thẳng vào số hoá, tự động hoá và đa dịch vụ. Sử dụng vệ tinh viễn thông mạng truyền dẫn bằng cáp quang và vi ba băng rộng, sử dụng tổng đài tự động trên cả nước. Hệ thống thông tin di động và mạng chuyển mạch gói truyền số liệu... Mạng lưới bưu chính viễn thông tuy còn ít về số lượng, song hiện đại tương ứng với mạng lưới của các nước đang phát triển. c. Lĩnh vực điện tử tin học Công nghiệp sản xuất hàng điện tử tin học Theo số liệu của Bộ Công nghiệp năm 2003, toàn ngành điện tử tin học hiện có khoảng hơn 200 doanh nghiệp, đa phần là loại hình vừa và nhỏ của nhiều thành phần kinh tế. Tổng số vốn đầu tư của toàn ngành hiện nay là gần 1,6 tỉ USD, trong đó vốn của các doanh nghiệp liên doanh và 100% VNN chiếm tới 90% trong khi số doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 1/3. Đầu tư trong ngành điện tử tin học tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hàng điện tử dân dụng (67%). Sản xuất linh kiện phụ tùng chỉ chiếm 21,5% và điện tử chuyên dụng 11,5%. Cơ cấu vốn như vậy đã phần nào phản ánh trình độ phát triển còn lạc hậu và non trẻ của ngành điện tử Việt Nam trong khi các nước có ngành công nghiệp điện tử tiên tiến đang chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng và dịch vụ tin học. Tuy nhiên đây cũng là tình trạng chung của các nước đang phát triển, khi mà ngành công nghiệp điện tử của họ bắt đầu được hình thành. Các sản phẩm của ngành sản xuất hàng điện tử tin học gồm: Nhóm điện tử gia dụng: Các sản phẩm chính là máy thu hình (tivi) và máy thu thanh (radio). Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 70% công suất sản xuất ti vi (hơn 2000 cái/năm). Lắp ráp sản phẩm từ linh kiện rời hoàn toàn nhập ngoại chiếm tới 90%. Nhóm điện tử chuyên dụng: Các loại cân tự động cán băng tải , cân đóng bao, hệ thống kiểm tra hành lý xuất nhập cảnh, một số thiết bị y tế như điện não tâm đồ, điện tâm đồ, máy siêu âm… Nhóm thiết bị tin học: sản phẩm thiết bị tin học của Việt Nam cũng chỉ được sản xuất dưới dạng lắp ráp, chủ yếu là lắp ráp máy vi tính. Nhóm linh phụ kiện: Các sản phẩm chính là đèn hình (công suất 2 triệu chiếc/năm); đế mạch in (công suất: 8,5 triệu chiếc/năm), tụ điện các loại, cuộn cao áp, cuộn cảm, cuộn lái tia, các chi tiết nhựa, các chi tiết cho lắp ráp đèn hình, các loại anten. Công nghệ sản xuất Nhìn chung, công nghệ sản xuất của ngành điện tử Việt Nam vẫn còn ở trình độ đơn giản, loại hình lắp ráp đang chiếm ưu thế. Giá trị gia tăng của các sản phẩm điện tử khoảng 5-10%. Phần lớn hoạt động chế tác được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bản quyền của đối tác nước ngoài bao gồm thiết kế nguyên bản sản phẩm, cách trang bị và tổ chức dây chuyền sản xuất. Việt Nam hầu như chưa phát triển thiết kế gốc mang tính thương mại, chưa có nhãn mác đáng kể cho các mặt hàng điện tử gia dụng lẫn điện tử công nghiệp. Công nghệ sản xuất linh kiện, vật liệu mới bắt đầu hình thành, dây chuyền và công nghệ sản xuất chưa thực sự hiện đại. Tuy nhiên thông qua FDI chúng ta cũng ta tiếp thu được công nghệ lắp ráp hiện đại – công nghệ lắp ráp bảng mạch tự động SMT thay cho công nghệ lắp ráp thủ công PTH trước đây. Lĩnh vực phần mềm tin học Có 31 dự án hoạt động trong lĩnh vực tin học (hai hợp đồng hợp tác kinh doanh, 3 liên doanh và 26 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 45,95 triệu USD (số liệu năm 2002). Đây là những dự án nhỏ, có vốn đầu tư dưới 5 triệu USD và chủ yếu là dịch vụ phát triển phần mềm cho các hãng lớn của Hoa Kỳ, Singapore, Hồng Kông và một số nước khác. Tuy có quy mô vốn đầu tư nhỏ nhưng các dự án tin học của khu vực này cũng chiếm tới 90% năng lực toàn ngành. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họ đã trở thành nổi tiếng và có lợi thế cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thế giới như: Toyota, Ford, Honda, Suzuki... Đến 2002, chúng ta đã cấp giấy phép hoạt động cho 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô và 4 dự án đầu tư sản xuất xe máy. Số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ô tô đến nay là 376 triệu USD (bằng 43,12% vốn đăng ký), với số sản phẩm sản xuất bình quân 140.000 xe ô tô/năm. Trong số 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô có 3 dự án không triển khai (Chysler, Nissan và Vietsin), 1 dự án tuy đã triển khai (đã đầu tư 16 triệu USD) nhưng tạm dừng không đầu tư tiếp (dự án Mercedes-Ben) và liên doanh Mê Kông đã ngừng sản xuất. Các nhà chế tạo ô tô đầu tư vào Việt Nam thuộc trong số những công ty hàng đầu trên thế giới về doanh thu, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Với bản chất phức tạp và sử dụng nhiều lao động của công đoạn lắp ráp ô tô (đặc biệt là công đoạn trang trí và hoàn tất), các nhà chế tạo ô tô phải tập trung suy nghĩ tìm ra cách sử dụng công nhân sản xuất trực tiếp có hiệu quả hơn, làm giảm những khuyết tật của các sản phẩm. Một số cách sử dụng lao động tỏ ra thành công là tổ chức công nhân thành các đội tự quản một phần, luân phiên công nhân giữa các nhà sản xuất; tìm kiếm những ý kiến từ phía các công nhân về việc làm thế nào để hoàn thiện quá trình sản xuất; giám sát cẩn thận và làm giảm những khuyết tật sản phẩm bằng hệ thống cải tiến chất lượng hiện đại. Các nghiên cứu thực tiễn cho thấy, đa số công nhân chế tạo ô tô ở Việt Nam đã được bố trí vào một số hình thức tổ chức lao động và thực tiễn giám sát chất lượng tiên tiến. Do nhu cầu xe hơi ở Việt Nam còn thấp nên năng lực khai thác của các nhà máy thấp (trung bình khoảng 10%). Bên cạnh đó cơ sở cung cấp (hỗ trợ) cho công nghiệp ô tô hầu như chưa có. Vì có ít nhà cung cấp trong nước nên tất cả các loại xe sản xuất ở trong nước được cung cấp dưới dạng “CKD” (complete knock down). Đây là loại hình nhà máy khá phổ biến trong những nền kinh tế mới nổi lên và đang chuyển đổi. Thực hiện loại hình này, hầu như toàn bộ phụ tùng được mang đến từ nước ngoài, ở đó các cụm máy và phụ tùng được tháo ra từ dây chuyền lắp ráp và được “gom lại” trong các container để vận chuyển đến các nhà máy lắp ráp. Xe máy hiện đang là phương tiện giao thông phổ biến ở Việt Nam. Ngành chế tạo xe máy đã phát triển nhanh chóng trong những năm 1990. Cho đến năm 1998, có sáu liên doanh lắp ráp xe máy hoạt động tại Việt Nam với vốn đầu tư 320 triệu USD và năng lực sản xuất thiết kế là 900.000 sản phẩm/năm. Hiện nay các nhà máy lắp ráp xe máy đều sử dụng hình thức lắp ráp theo thiết kế và sản xuất xe máy có chi phí thấp theo kiểu IKD. Lĩnh vực công nghiệp hoá chất Đến hết năm 2000, lĩnh vực này đã thu hút 167 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 682 triệu USD; trong đó thời kỳ 1996-2000 cấp phép 163 dự án với 1,7 tỷ USD vốn đăng ký. Năm 1999, tỷ trọng giá trị sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tới 26,5% trong tổng giá trị sản xuất kinh doanh của toàn ngành Hoá chất Việt Nam. Điều đáng chú ý ở đây là, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành này đã sản xuất ra nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao như: một số hoá chất cơ bản, sơn, thuốc sát trùng, dầu nhờn, thuốc trừ sâu, bột giặt, dầu gội... Do đó để cạnh tranh với các doanh nghiệp ĐTNN, các doanh nghiệp trong nước buộc phải thay đổi thiết bị, công nghệ, cải tiến quản lý để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.  Một trong những doanh nghiệp FDI thành công trong lĩnh vực hoá mỹ phẩm tại Việt Nam với chủng loại sản phẩm đa dạng (bột giặt, dầu gội, kem đánh răng...) là liên doanh Lever Việt Nam của công ty thực phẩm và hoá chất nổi tiếng thế giới Unilever. Tại Việt Nam, từ năm 1995 đến nay (2/2002) Unilever đã đầu tư khoảng 120 triệu USD trong 3 doanh nghiệp: Bảng 2.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Unilever vào Việt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhương hướng và Giải pháp phát triển đường Giao thông Nông thôn vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010.doc
Tài liệu liên quan