MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN. 1
MỤC LỤC .2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .4
DANH MỤC CÁC BẢNG . 5
MỞ ĐẦU.6
Chương 1: VẤN ĐỀ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
THPT DÂN TỘC KHMER
1.1. Những đặc điểm riêng trong dạy học TV cho học sinh THPTdân tộcKhmer . 17
1.1.1. Nguyên tắc dạy học TV cho học sinh THPT dân tộc Khmer . 17
1.1.2. Phương pháp đối chiếu, so sánh trong dạy học TV
cho học sinh THPT dân tộc Khmer. 22
1.2. Thực trạng dạy học TV cho học sinh THPT dân tộc Khmer . 27
1.2.1. Đôi nét về trường THPT Dân tộc nội trú AG . 27
1.2.2. Những “rào cản ngôn ngữ” của học sinh khi học TV . 29
1.2.3. Hiện tượng giao thoa trong tiếng Khmer . 32
1.2.4. Hiện trạng mắc lỗi từ ngữ,ngữ phápTV . 42
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮA LỖI TỪ NGỮ
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH THPT DÂN TỘC KHMER
2.1. Khái niệm về lỗi từ ngữ . 51
2.2. Nguyên nhân mắclỗi từ ngữ . 53
2.3. Cách chữa lỗi từ ngữ . 55
2.3.1. Lỗi lựachọn từ ngữ. 55
2.3.2. Lỗi kếthợp từ ngữ. 64
2.4. Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ tiếng Việt . 73
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮA LỖI NGỮ PHÁP
TIẾNG VIỆTCHO HỌC THPT DÂN TỘC KHMER
3.1. Khái niệm về lỗi ngữ pháp . 79
3.2. Nguyên nhân mắclỗi ngữ pháp. 80
3.3. Cách chữa lỗi ngữ pháp. 82
3.3.1. Câu sai do cấu trúc không hoàn chỉnh . 82
3.3.2. Câu sai do vi phạm qui tắc kết hợp. 96
3.4. Phương pháp dạy học chữa lỗi ngữ pháp tiếng Việt. 103
KẾT LUẬN. 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 114
PHỤ LỤC. 119
119 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3848 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân tộc Khmer, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êm khắc”.
(c) “Tố Hữu dùng ngòi bút sắc bén đâm chĩa vào bọn đế quốc”.
Trong câu (a), nội dung thông báo về sự lắng nghe của HS một cách
nghiêm túc trước lời giảng của GV. Thế nhưng, người viết lại dùng từ “lắng
nghe thật chu đáo”. “Chu đáo” có nghĩa là “rất cẩn thận, đến nơi đến chốn,
không sơ suất điều gì” [62, tr.112], như “chăm sóc chu đáo”, “chuẩn bị chu
đáo”. Như vậy, nội dung và nghĩa của từ dùng để biểu đạt không có quan hệ
gì với nhau. Phải chăng người viết muốn nói rằng mọi người lắng nghe lời
thầy một cách chăm chú, nhưng lẫn lộn giữa “chu đáo” và “chăm chú”.
52
Câu (b), người viết dùng từ “gan ruột” để nói về những “dòng”, “trang
viết” của cụ Phan Bội Châu. “Dòng gan ruột”, theo ý đồ của người viết là
cách nói ẩn dụ, chỉ những gì sâu xa, chân thật mà cụ Phan viết ra. Nhưng
dùng từ “gan ruột” thì không chính xác. Bên cạnh đó có sự trùng lặp về nội
dung biểu đạt trong ngữ động từ “tự phê bình mình”.
Câu (c), HS dùng từ “đâm chĩa” khi nói về “ngòi bút” của nhà thơ Tố
Hữu. Trong lịch sử văn học, Nguyễn Đình Chiểu dùng từ “đâm” khi nói về
ngòi bút: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm; Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà”. Cách nói của cụ Đồ Chiểu đặt trong văn cảnh của hai câu thơ, là
ta có thể chấp nhận được. Nhưng trong văn cảnh của câu (d), từ “đâm chĩa”
khó có thể chấp nhận, bởi vì nghĩa của nó quá cụ thể. Tất cả các hiện tượng
lệch lạc vừa đề cập và phân tích là những biểu hiện cụ thể của lỗi dùng từ
ngữ.
So với lỗi chính tả, lỗi từ ngữ trong bài viết của HS lại ít hơn. Qua
khảo sát các bài viết của HS THCS và HS THP, hiện tượng sai về mặt từ
ngữ có giảm dần theo các cấp học. Trong bài làm của HS lớp 9, hiện tượng
dùng sai từ ngữ còn khá phổ biến. Nhìn chung, mỗi bài viết thường sai từ 5
đến 7 lỗi. Có trường hợp cá biệt, bài viết sai từ 8 đến 10 lỗi. Trường hợp bài
viết sai vài ba lỗi chiếm tỉ lệ rất thấp. Ở cấp THPT, tình hình chung là mỗi
bài sai từ 3 đến 7 lỗi các loại. Cá biệt, những bài yếu kém có thể sai đến
hơn một chục lỗi. Hiện tượng bài viết không có lỗi dùng từ với tỉ lệ rất thấp,
khoảng 20%– 30%. Còn đối với HS THPT dân tộc Khmer việc mắc lỗi từ
ngữ lại có tính nghiêm trọng hơn so với HS người Kinh. Những bài viết của
HS THPT dân tộc Khmer mắc từ 2 đến 5 lỗi chiếm tỉ lệ cao nhất. Ngoài ra,
53
chỉ có khoảng từ 3% - 5%, HS dân tộc Khmer phạm phải lỗi dùng từ ngữ từ 7
đến 10 lỗi.
Những vấn đề trên cho thấy, từ cuối cấp THCS lên đầu cấp và đến
cuối cấp THPT, vốn hiểu biết và năng lực sử dụng từ ngữ của HS phát triển
khá rõ nét. Tuy nhiên, hiện tượng HS giữa và cuối cấp THPT còn sai lỗi từ
ngữ là điều không thể không quan tâm đến. Và HS THPT dân tộc Khmer từ
đầu cấp đến cuối cấp cũng thế. Nhưng ở một bộ phận nhỏ HS dân tộc
Khmer vẫn chưa có sự thay đổi nhiều.
2.2. Nguyên nhân mắc lỗi từ ngữ
Thực tế, HS dùng từ sai vì không hiểu nghĩa, hoặc hiểu nghĩa không
chính xác. Điều này thể hiện rõ trong giao tiếp. Với tư cách người tiếp thu,
HS không biết lựa chọn nghĩa thích hợp trong văn cảnh. Còn với tư cách
người phát ngôn, HS không biết lựa chọn từ cho đúng để xây dựng văn bản.
HS đã có vốn từ nhưng chưa biểu hiện thành vốn từ tích cực. Vốn từ tích cực
là lúc HS sử dụng nhanh và chính xác. Những vốn từ này tiềm tàng bên
trong của mỗi HS cần được sự khơi mạch đúng chỗ.
Nhưng có nhiều người cho rằng HS thường mắc lỗi ở từ ngữ tiêu cực
hơn. Vì đây là những từ ngữ chưa quen dùng nên khi cần thiết phải dùng đến
nó thì hay dễ dùng sai. Nhưng thực tế, những từ vựng tích cực tuy thường
dùng, nhưng tỉ lệ dùng sai vẫn không nhỏ. Nguyên nhân là vì thường dùng
nó nên người dùng dễ chủ quan, tự cho là đúng. Cũng có những thói quen
dùng từ ngữ ở cá nhân không phù hợp với chuẩn dùng từ ngữ của xã hội. Có
lúc vì không cẩn thận trong việc lựa chọn từ ngữ, nhất là trong việc xem xét
cách phối hợp nghĩa sao cho hợp lý giữa một số từ trong câu, nên đã phạm
54
lỗi từ ngữ. Và viết xong không đọc kỹ lại để sửa chữa những khuyết điểm
về sử dụng từ ngữ cũng là một trong những nguyên nhân phạm lỗi. Đó là
những nguyên nhân chủ quan của người phạm lỗi từ ngữ. Bên cạnh đó còn
có nguyên nhân khách quan của lỗi dùng từ. Nói một cách khái quát là bản
thân từ ngữ có những vấn đề phức tạp cần phải nhận thức cho đầy đủ. Mỗi
đơn vị từ vựng đứng riêng lẻ đều có hai mặt âm và nghĩa. Khi sử dụng vào
lời nói, nó còn có thêm một số chức năng khác như chức năng ngữ pháp,
chức năng tạo ra nghĩa lớn hơn của nó, chức năng tạo ra ý nghĩa tình thái,
chức năng tạo ra ý nghĩa tu từ, chức năng phù hợp với phong cách trong câu,
chức năng phối hợp với tình huống ngữ cảnh để tạo ra ý nghĩa đích thực khi
giao tiếp. Do đó, muốn diễn đạt một ý nào đó thì phải dùng nhiều đơn vị từ
vựng. Trong câu, các đơn vị từ vựng phối hợp với nhau về nghĩa và các chức
năng khác. Nếu dùng từ ngữ đi lệch chuẩn thì sẽ dẫn đến mắc các lỗi từ ngữ
như trên.
Việc mắc lỗi dùng từ ngữ của HS THPT dân tộc Khmer cũng xuất
phát từ những nguyên nhân trên. Nhưng ở đây, chúng tôi còn thấy một
nguyên nhân nữa của HS dân tộc Khmer, đó là sự ảnh hưởng của hiện tượng
giao thoa trong ngôn ngữ Khmer – Việt (chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau).
Những từ ngữ tương ứng giữa hai ngôn ngữ, các em dễ dàng vận dụng trong
giao tiếp. Nhưng phần lớn, từ ngữ giữa hai ngôn ngữ Khmer – Việt không
tương đồng nên các em mắc lỗi dùng từ ngữ TV nhiều hơn. Do thói quen sử
dụng từ ngữ tiếng mẹ đẻ, nên các em lựa chọn và diễn đạt TV cũng như thế.
Chẳng hạn chúng ta thường nói: “người con gái” thì các em lại sử dụng là
“người cô gái’. Bởi vì tiếng Khmer chỉ “người con gái” thì dùng “níak ming
55
canh nha”( người cô gái). Hay ta nói: “Đi tắm!” thì HS dân tộc Khmer lại nói
là “Đi tắm nước!”. Bởi vì người Khmer lại nói “Tâu mus tức”, tức là đi tắm
nước. Nếu nói “đi tắm” (tâu mus) như người Kinh thì họ không hiểu đi tắm
cái gì… Và cũng xuất phát từ đó, tình hình mắc lỗi câu sai lại xuất hiện rất
nhiều trong HS THPT nói chung, và trong HS THPT dân tộc Khmer nói
riêng.
2.3. Cách chữa lỗi từ ngữ
Thông thường, sự chính xác của từ ngữ được xét dựa trên hai cơ sở:
lựa chọn và kết hợp. Ngược lại, sự vi phạm tính chuẩn mực của từ ngữ cũng
bộc lộ trên hai cơ sở ấy. “Một từ có ý nghĩa là nhờ vào những thế đối lập
trên hai trục lựa chọn và kết hợp. Từ đó, giáo viên đưa ra những phương
pháp sửa chữa lỗi dùng từ của học sinh, với mục đích giúp họ hiểu đúng, viết
đúng và nói đúng” [8, tr. 260]. Do đó, phân loại lỗi dùng từ ngữ dựa trên cơ
sở hai trục vừa nêu. Dựa vào hai trục này, lỗi dùng từ ngữ có hai loại lớn: lỗi
lựa chọn và lỗi kết hợp. Mỗi loại lỗi chia thành nhiều kiểu lỗi nhỏ, căn cứ
vào tính chất, đặc điểm của hiêïn tượng sai.
2.3.1. Lỗi lựa chọn từ ngữ
Nói đến lỗi lựa chọn từ, chủ yếu là xét qua hai mối quan hệ: Giữa nội
dung mối biểu đạt với nghĩa của từ được dùng. Giữa giá trị phong cách của
từ được dùng với phong cách ngôn ngữ văn bản.
Trên cơ sở đó, lỗi lựa chọn từ có thể chia thành ba kiểu lỗi sai nhỏ:
2.3.1.1. Dùng từ chưa chính xác
Chọn từ chưa chính xác là chọn từ mà nghĩa của nó không phù hợp với
nội dung muốn biểu đạt, tức khái niệm, hành động, tính chất, trạng thái…
56
mà người viết muốn nói đến. Nói cách khác, chọn từ không chính xác là
hiện tượng nghĩa của từ được dùng và nội dung muốn biểu đạt có sự chênh
lệch ở mức độ này hay mức độ khác.
Xem xét các ví dụ dưới đây:
(a) “Nguyễn Du đã liên lạc suốt mười năm trường”.
(b) “Trái lại, lũ quan lại dưới triều đình chỉ biết hợp tác với nhau, dùng
mọi âm mưu, thủ đoạn để bóc lột nhân dân, để ăn chơi xa xỉ”.
(c) “Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê
nồng nhiệt của mình, không rơi vào thác oan”.
Khi nhận diện và sửa chữa các lỗi dùng từ sai của HS THPT dân tộc
Khmer, chúng ta có thể sử dụng phương pháp đối chiếu ngôn ngữ để HS
hiểu rõ và chắc hơn. Tức là vận dụng hình thức song ngữ trong cách giải
thích nghĩa của từ cho HS. Ở đây, nó cũng còn phụ thuộc vào vốn hiểu biết
về ngôn ngữ Khmer của GV. Bởi vì một số từ ngữ, thuật ngữ mang tính văn
chương, tính thuần Việt thì không thể nào bắt gặp trong ngôn ngữ Khmer.
GV người Kinh biết tiếng Khmer, kể cả GV người người Khmer cũng khó
lòng giải thích nghĩa của từ bằng song ngữ. Nhưng ở khía cạnh là GV dạy
TV cho HS dân tộc Khmer, chúng ta cố gắng học thêm tiếng mẹ đẻ của HS
mình để có nhiều thuận lợi trong giao tiếp và giảng dạy.
Trong ví dụ (a), “liên lạc” (tiếng Khmer gọi là Tíak tôn) có nghĩa là
truyền tin, liên hệ với nhau, là người làm công tác liên lạc. “Liên lạc” hoàn
toàn không phù hợp với nội dung mà HS muốn biểu đạt. Ở đây, người viết
muốn sử dụng từ “lưu lạc” mà tiếng Khmer gọi là “Sáth ondet”. Dường như
HS muốn nói rằng: Nguyễn Du sống trôi dạt rày đây mai đó, không ổn định.
57
Nhưng do không hiểu được nghĩa của từ “liên lạc” và “lưu lạc” một cách rõ
ràng, nên HS có sự nhầm lẫn.
Còn ví dụ (b), có ba từ chọn không chính xác: “dưới”, “hợp tác”, “xa
xỉ”. “Dưới” chỉ vị trí thấp hơn trong không gian so với một vị trí xác định nào
đó, hay thấp hơn các vị trí khác nói chung. Nghĩa của từ “dưới” trong câu
văn không phù hợp với nói nội dung muốn biểu đạt: thuộc phạm vi. Còn
“hợp tác” (tiếng Khmer là Sahắc ka) có nghĩa là cùng chung sức với nhau
trong một công việc, một lĩnh vực hoạt động nào đó, nhằm một mục đích
chung. Nói “hợp tác” còn có một sự bao hàm đánh giá cao, tốt đẹp. Nhưng
nội dung HS muốn nói là hợp thành một phe cánh, một lực lượng để thực
hiện âm mưu, hành động xấu xa. “Xa xỉ” có nghĩa là tốn nhiều tiền không
thật cần thiết (trong tiếng Khmer nói là “hư ha”). So với nội dung muốn biểu
đạt: quá sang trọng, mang tính lãng phí, thì nghĩa của từ “xa xỉ” hoàn toàn
không phù hợp.
Ví dụ (c), nội dung muốn nói là ở trạng thái hỗn loạn, không giữ trật
tự, nề nếp bình thường. Tiếng Khmer, từ “hỗn loạn” được nói là “chrui
chopol”. Nội dung muốn biểu đạt đó không phù hợp với nghĩa của từ “thác
oan” (“Slăp chaiđon”): chết oan ức, lẽ ra không phải chết.
Trong câu, chọn từ chưa phù hợp có biểu hiện khá đa dạng. Có trường
hợp chỉ sai nghĩa cơ bản. Chẳng hạn như các từ: “liên lạc”, “dưới”, “xa xỉ’,
“thác oan” trong các ví dụ vừa dẫn. Có trường hợp vừa sai nghĩa cơ bản
(nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu vật), vừa sai cả nghĩa biểu thái (thành phần
nghĩa biểu thị thái độ đánh giá của người viết đối với đối tượng được nói
đến). Đó là trường hợp từ “hợp tác” đã dẫn. Nguyên nhân của lỗi chọn từ
58
chưa phù hợp là do HS hiểu nghĩa của từ một cách mơ hồ, thiếu chính xác,
hay nhầm lẫn nghĩa từ này với nghĩa từ khác. Thực tế, bài viết của HS, xét
về mặt số lượng âm tiết và về nguồn gốc của từ, đa số các trường hợp chọn
từ không phù hợp là từ đa âm tiết, trong đó từ Hán – Việt chiếm tỉ lệ cao. Và
ở đây, sự lẫn lộn về nghĩa dẫn đến chọn sai thường xảy ra giữa các từ hai âm
tiết. Trong đó có một số từ có âm tiết giống nhau hay gần gũi nhau về vần.
Chẳng hạn giữa “lưu lạc” với “liên lạc”, “đào thải” với “sa thải”, “xa xỉ” với
“xa hoa”, “trấn áp” với “đàn áp”, “khêu gợi” với “khơi dậy”, “thác loạn” với
“thác oan”… Còn một hiện tượng chọn sai từ đơn âm lại thường rơi vào từ
thuần Việt. Và đa số là do HS tự phát dùng những từ đơn tiết với nghĩa bóng,
nghĩa trừu tượng nào đó, những văn cảnh không cho phép. Ví dụ như “Tất cả
mọi hành động suy nghĩ của mình, chị Dậu dồn hết tình thương cho chồng
cho con”. Từ “dồn” không phù hợp với văn cảnh.
Xét về mặt từ loại, trong các bài viết của HS, hiện tượng lựa chọn từ
ngữ không phù hợp thường tập trung vào các từ loại như danh từ, động từ,
tính từ. Hiện tượng chọn sai từ đối với lớp hư từ lại ít xuất hiện. Hiện tượng
này, HS THPT dân tộc Khmer mắc phải chiếm tỉ lệ từ 40% – 67%. Nhưng
đối với học sinh người Kinh thì tỉ lệ này lại quá cao. Còn đem so sánh với
HS cấp THCS thì nó có tỉ lệ thấp hơn. Đây là một trong những hiện tượng
mắc lỗi nhiều nhất của HS trong việc dùng từ đặt câu khi viết văn bản.
Bảng 2.6. Kết quả mắc lỗi dùng từ ngữ chưa chính xác của HS
trong các bài kiểm tra học kỳ
59
HỌC KỲ I HỌC KỲ II KHỐI LỚP TỔNG SỐ
SL TL SL TL
12
11
10
97
100
100
41
64
67
42,2%
64,0%
67,0%
39
47
60
40,2%
47,0%
60,0%
(SL: Số lượng bài mắc lỗi; TL: Tỉ lệ)
Theo kết quả khảo sát, học kỳ I có giảm bớt việc mắc lỗi này: khối 10
là 67%, khối 11 là 64%, khối 12 là 42,2%. Và giữa hai học kỳ của từng khối
lớp cũng có sự giảm tỉ lệ mắc lỗi này. Nhìn chung, nó dao dộng ở tỉ lệ từ 40
– 60%. Một con số khá cao.
Từ đó, việc lựa chọn từ chưa phù hợp bao giờ cũng dẫn đến nội dung
biểu đạt của câu bị lệch lạc. Thậm chí, có trường hợp chọn sai dẫn đến nghĩa
của câu mâu thuẫn với ý đồ muốn nói của người viết.
Ví dụ: “Đã quen có người bao bọc, thời gian đầu mặc áo trắng học
sinh Dân tộc nội trú, tôi không cảm thấy bơ vơ”.
Xét về ý đồ muốn nói, đối tượng nói đến trong câu là một người được
nuôi dưỡng, chăm sóc, đùm bọc chu đáo. Nhưng khi đối tượng đi học trường
THPT DTNT, thời gian đầu sống xa sự chăm sóc gia đình, sống tự lập không
giống như môi trường trước đây nữa. Hoàn cảnh ấy làm đối tượng cảm thấy
lạc lõng, bơ vơ. Căn cứ vào ý đồ biểu đạt, người viết chọn sai hai từ: “bao
bọc”, “không”. “Bao bọc” có nghĩa là làm thành một lớp che chắn khắp xung
quanh sự vật, nên nó không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt. Có lẽ do
người viết lẫn lộn giữa “bảo bọc” (riêng nia) và “bao bọc” (rap rol). Lỗi này
60
có thể cho qua. Lỗi thứ hai ta lại cần nói nhiều hơn. Phó từ “không” biểu thị
ý nghĩa phủ định. Tác giả viết “… không cảm thấy bơ vơ” là ngược lại với ý
đồ biểu đạt. Đáng lẽ ra phải viết: “… không khỏi cảm thấy bơ vơ” mới phù
hợp, chính xác.
Sửa chữa lỗi chọn từ chưa phù hợp, trước hết, căn cứ vào văn cảnh của
câu để phát hiện, xác định nội dung mà HS muốn nói, tức là khái niệm, hành
động, tính chất… mà HS muốn đề cập. Trên cơ sở đó, liên hệ đến những đơn
vị từ vựng có nghĩa tương ứng, chọn ra đơn vị thích hợp và thay thế cho từ bị
chọn không phù hợp. Có thể chọn một từ hay chọn một liên hợp song song
gồm hai, ba từ để thay thế, tùy vào lỗi sai cụ thể.
Chẳng hạn, các trường hợp dẫn sai có thể được sửa chữa như sau:
(a) Nguyễn Du đã trải qua mười năm lưu lạc.
(Nguyễn Du slon cash đop chhnăm sáth ondet)
(b) Trái lại, lũ quan lại trong triều đình chỉ biết cấu kết với nhau, dùng
mọi âm mưu, thủ đoạn để bóc lột nhân dân, ăn chơi xa hoa.
(Phiu môs vinh púkh muntrây róth ka kưnong riếch chắc ka chêste rum
kôm ních, nưng khnia prơ crôpus bai kol, kol lơ bacs chis chonh prochia
chone, sipơt lênh sơch hư ha.)
(c) Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê
nồng nhiệt của mình, không rơi vào thác loạn.
(Túch chia nes kăcrây srolanh pronhấp pronhát, chúch ches ponte nâu
đonđen kômnotchus ches dang khlăng rôboth dơn, manh oi thơleas khnong
savach savên.)
2.3.1.2. Dùng từ ngữ có nghĩa sáo rỗng
61
Từ ngữ có nghĩa sáo rỗng là những từ khi đọc lên nghe rất kêu (sáo),
nghĩa của chúng vượt qua tính chất, quá mức độ cần thiết so với nội dung
muốn biểu đạt, trở thành cường điệu, rỗng tuếch.
Ví dụ:
(a) “Bài thơ “Tâm tư trong tù” là một đỉnh cao muôn trượng”.
(b) “Chúng ta phải ra sức học tập để góp một phần công lao vĩ đại của
mình đưa đất nước tiến lên tầm cao thời đại”.
(c) “Nếu đời sống là nguồn cảm hứng dồi dào, mang đậm hương vị
mặn mà của tiếng lòng nhân ái, thì thời đại là ánh hào quang trong băng giá,
xua tan mây mù cho ánh sáng tràn theo rực rỡ nắng và hoa lung linh màu
sắc”.
Trong ví dụ (a), HS đánh giá bài thơ “Tâm tư trong tù” của Tố Hữu là
“đỉnh cao muôn trượng”. Một bài thơ, dù thành công đến đâu, cũng khó mà
đạt đến “đỉnh cao muôn trượng”. Một sự đánh giá quá mức.
Ở ví dụ (b), HS muốn đóng góp “một phần” – chỉ một phần thôi –
“công lao vĩ đại” của mình để đưa nước nhà tiến lên “tầm cao thời đại”. Quả
là nói quá mức, khó chấp nhận được.
Còn ví dụ (c), hàng loạt cụm từ được trau chuốt, bóng bảy, mượt mà:
“ánh hào quang trong băng giá, xua tan mây mù cho ánh sáng tràn theo với
rực rỡ nắng và hoa lung linh màu sắc” dùng để ca ngợi “thời đại”, chẳng rõ
là thời đại nào. Nhưng nghĩa của các cụm từ này và nghĩa của cả câu hết sức
mù mờ, khó hiểu một cách chính xác được.
Thật ra, hiện tượng dùng từ ngữ có nghĩa sáo rỗng cũng thuộc kiểu lỗi
chọn sai từ. Bởi vì sự sai lạc của hiện tượng này thể hiện ở sự chênh lệch,
62
không hoàn toàn trùng khít giữa nội dung muốn biểu đạt và nghĩa của từ ngữ
được dùng. Trong bài làm văn của HS, lỗi này xuất hiện không nhiều, chỉ
tập trung ở một số bài. Nguyên nhân dẫn đến lỗi này là do HS không xác
định một cách rõ ràng, cụ thể nội dung muốn biểu đạt. Mặt khác, HS lại
muốn trau chuốt, gọt giũa từ ngữ cho ra vẻ văn chương. Vì thế, HS thường
lắp ghép từ ngữ vốn được dùng trong tác phẩm nào đó vào câu văn của mình
một cách máy móc nhưng lại không hiểu rõ nghĩa của từ ngữ ấy.
Sửa lỗi chọn từ ngữ có nghĩa sáo rỗng này, đầu tiên, chúng ta dựa vào
văn cảnh của câu để xác định một cách cụ thể nội dung mà HS muốn biểu
đạt. Trên cơ sở đó, chọn từ ngữ đồng nghĩa, gần nghĩa thích hợp thay thế từ
ngữ sáo rỗng. Nếu thấy cần thiết thì có thể thay đổi cách diễn đạt. Đối với
trường hợp câu văn có quá nhiều từ ngữ sáo rỗng làm cho nghĩa của câu quá
mơ hồ, không thể hiểu nghĩa rõ, có thể không cần sửa chữa. Chẳng hạn như
ví dụ (c) vừa dẫn.
Các câu (a), (b) có thể sửa chữa như sau:
(a) Bài thơ “Tâm tư trong tù” của Tố Hữu là một trong những thành
công nổi bật của thơ ông. (“thành công nổi bật”, trong tiếng Khmer nói là
“som rash phol khơpus onlơng”)
(b) Chúng ta phải ra sức học tập để sau này đóng góp một phần công
sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước ( trong
tiếng Khmer, từ “vĩ đại” gọi là “mô lưcsmia”, “công sức nhỏ bé” được nói là
“kom lăng chom nôs”)
2.3.1.3. Dùng từ ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản
63
Từ ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản là những từ ngữ mà giá trị
phong cách của nó không phù hợp với phong cách ngôn ngữ văn bản.
Cũng giống như các ngôn ngữ khác, trong TV, không phải các đơn vị từ vựng
và cụm từ cố định đều có thể sử dụng trong tất cả các lĩnh vực giao tiếp. Mà
ở đây, thường xảy ra hiện tượng chuyên dùng, tức là việc ưu tiên sử dụng từ,
cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa trong từng lĩnh vực giao tiếp
khác nhau. Giá trị phong cách của từ ngữ là nét nghĩa phụ của từ ngữ cho
biết từ ngữ thường được ưu tiên sử dụng trong phạm vi giao tiếp nào, tức là
phong cách ngôn ngữ nào (phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ hay phong cách
ngôn ngữ gọt giũa, hay các phong cách ngôn hành chính, khoa học, báo chí,
văn chương…). Nếu một từ ngữ nào đó vốn được chuyên dùng trong phong
cách ngôn ngữ này, nhưng HS lại sử dụng trong một phong cách ngôn ngữ
khác, thì đó chính là hiện tượng chọn từ ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn
bản.
Trong bài viết của HS, kiểu lỗi này thường thấy ở việc sử dụng các
đơn vị từ vựng, các cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa thuộc phong
cách khẩu ngữ tự nhiên mà bài viết của HS lại thuộc phong cách ngôn ngữ
khoa học. Do đó, các từ, cụm từ này thành lỗi sai.
Ví dụ:
(a) “Đọc tác phẩm, ta thương và cảm phục nhân vật Mỵ quá chừng!”.
(b) “Tnú là một nhân vật anh hùng quá xá cỡ!”.
(c) “Vợ chồng Nghị Quế tàn ác hết chỗ nói!”.
(d) “Đọc hai câu thơ này, ta ngỡ Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây, lòng
ta dâng lên một niềm cảm xúc, thấy thương ông làm sao ấy!”.
64
Trong các ví dụ trên, tổ hợp từ như “quá chừng”, “quá xá cỡ”, “hết chỗ
nói”, “làm sao ấy” thường xuất hiện trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chúng
thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Dùng những tổ hợp từ này vào trong
bài viết là sai phong cách ngôn ngữ văn bản.
Hiện tượng chọn sai từ ngữ phong cách ngôn ngữ văn bản trong các bài viết
của HS không nhiều. Lỗi này xuất hiện rải rác ở một số bài. Những bài có
phạm lỗi này thường cũng không quá hai, ba trường hợp. Nguyên nhân chọn
từ ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản là do HS không hiểu rõ giá trị
phong cách của từ ngữ cũng như đặc điểm của các phong cách ngôn ngữ
khác nhau.
Sửa kiểu lỗi này, trước tiên cần xác định nội dung HS muốn biểu đạt,
dựa vào từ ngữ đã chọn sai. Trên cơ sở đó, chúng ta lựa chọn từ, ngữ khác
phù hợp với phong cách ngôn ngữ để thay thế.
Bốn trường hợp sai vừa dẫn có thể sửa sai như sau:
(a) Đọc tác phẩm, ta thương và cảm phục nhân vật Mỵ vô cùng.
(An both nipon pơônmiên, ches srolanh nưng phiêps escha rôboth tua
ko Mỵ chia anech)
(b) Tnú là một nhân vật rất đỗi anh hùng.
(Tnú cưchia tua ko mui pronhâp thvơ vi reas bôros)
(c) Vợ chồng Nghị Quế thật tàn ác.
(Pđây prôpon Nghị Quế khô khâu năs)
(d) Đọc hai câu thơ này, ta ngỡ như Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây,
lòng chúng ta dâng lên một niềm xúc cảm, thấy thương ông vô hạn.
2.3.2. Lỗi kết hợp từ ngữ
65
Lỗi kết hợp là lỗi dùng từ ngữ xét qua mối quan hệ về nghĩa từ vựng
giữa các từ ngữ trong cấu tạo cụm từ. Dựa vào đặc điểm, tính chất của các
hiện tượng vi phạm, có thể chia lỗi kết hợp thành các kiểu lỗi nhỏ: kết hợp
sai từ vựng, kết hợp trùng lặp, thừa từ, so sánh khập khễnh.
2.3.2.1. Kết hợp sai nghĩa từ vựng
Kết hợp sai nghĩa từ vựng là kiểu lỗi sai thể hiện qua hiện tượng kết
hợp từ tạo thành cụm từ mà nội dung nghĩa giữa các thành tố không tương
hợp với nhau, làm cho nghĩa của cả cụm từ trở nên luẩn quẩn, mơ hồ hay
lệch lạc so với ý đồ biểu đạt.
Xem xét các ví dụ dưới đây:
(a) “Văn học
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH001.pdf