Để đạt được chất lượng sản phẩm cao và quản lý chất lượng một cách toàn diện thì vấn đề chất lượng phải được cán bộ công nhân viên của Công ty hiểu một cách rõ ràng, ý thức trách nhiệm về chất lượng phải được mọi người thấm nhuần. Vì vậy trách nhiệm phải được xác định rõ ràng cho từng phòng ban cá nhân như: giám đốc, các phòng ban chức năng, nhiệm vụ của tổ trưởng sản xuất, công nhân, hay của từng đại lý như sau:
- Giám đốc Công ty: Có trách nhiệm xác định thị trường của Công ty sẽ tham gia và loại sản phẩm mà Công ty cần tham gia thị trường thông qua việc xác định mục tiêu kinh doanh và chiến lược phát triển. Giám đốc là người quyết định cuối cùng về mức chất lượng cần đạt trong thiết kế sản phẩm và mức độ cam kết về quản lý chất lượng cần thiết để đạt được chất lượng đó. Sau đó lãnh đạo các bộ phận chức năng trong toàn Công ty cùng nhau cam kết thực hiện quản lý chất lượng.
- Các phòng ban chức năng: Có nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch do giám đốc đặt ra. Cán bộ quản lý ở cấp này cần tập trung vào việc thiết kế và kiểm tra quá trình sản xuất sao cho phù hợp với các đặc tính kỹ thuật của việc thiết kế. Như vậy các phòng ban chức năng có trách nhiệm thiết kế và thực hiện hiệu quả chương trình quản lý chất lượng, nhằm đáp ứng các đặc tính sử dụng của sản phẩm.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1904 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế biến sản phẩm của Công ty:
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: “áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ và đổi mới thể chế, chính sách quản lý nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước”. Nhận thức được điều này nhiều doanh nghiệp đã xác định biện pháp chủ yếu của quản lý chất lượng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm: “Đổi mới công nghệ là khâu đột phá, xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn chất lượng là cơ sở, kiểm tra, kiểm soát chất lượng là việc làm thường xuyên”
Công ty Cổ phần Tràng An trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu về số lượng và chất lượng bánh kẹo trên thị trường đã chuyển hướng sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm với mẫu mã đẹp, giá thành hạ và chất lượng cao. Công ty đã tự thiết kế xây dựng, mở rộng, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất với công nghệ hiện đại được nhập từ Pháp, Đức, Indonesia… như dây truyền sản xuất bánh Snack, kẹo mềm cao cấp, bánh quế.
(Bảng 6 trang bên).
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh của sản xuất, nguồn vốn còn hạn hẹp nên việc đầu tư vào máy móc thiết bị của Công ty chưa được đồng bộ. Công ty vẫn còn sử dụng một số máy móc đã cũ kỹ, lạc hậu như:
- Máy trộn nguyên liệu máy quật kẹo, máy cán của Trung Quốc được nhập vào từ năm 1960.
- Nồi sấy WKA4, nồi hoà đường CK22, máy tạo tinh… của Ba Lan từ những năm 1966, 1977, 1978…
Và một số máy móc khác được nhập của Đức, Hà Lan cũng rất lạc hậu.
Đây có thể nói là một khó khăn lớn cho quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm của công. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần tập trung vay vốn từ nhiều nguồn để mua sắm, trang bị lại dây chuyền sản xuất, đó là vấn đề mang tính chiến lược của Công ty.
Một vấn đề nữa công ty phải quan tâm là hiệu suất sử dụng máy móc, thiết bị của công ty chưa cao, thời gian ngừng máy còn nhiều. Điều này dẫn đến giá trị khấu hao phân bổ của công ty còn cao, làm đội giá thành lên. Đây là tình trạng chung của các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo nói chung, của Công ty bánh kẹo Tràng An nói riêng. Trong thời gian tới, Công ty phải chú ý bảo đảm khai thác tốt nhất công suất máy móc thiết bị, giảm chi phí, hạn giá thành sản phẩm hơn nữa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
7. Quá trình sản xuất Kẹo hương cốm truyền thống:
7.1/ Sơ đồ quá trình sản xuất :
Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ sản xuất kẹo hương cốm.
Sơ chế phụ liệu
Hoà trộn đường
Cô, khuâý trộn
Làm nguội
Cuộn kẹo
Thành phẩm
Vào thùng
Đóng túi
Vận chuyển
Định hình và gói
Sơ đồ 3: Quy trình công nghệ SX bánh quế trên dây chuyền Indonesia.
Xay đường, đỗ xanh, thắng dịch Caramen
Cân, sản xuất dịch vỏ
Nhân kem chuyển đến lò nướng, bơm nhân
Cân kiểm tra sản phẩm bánh trần
Đóng gói bánh quế
Đóng hộp
Vào thùng
Thành phẩm
7.2/ Mô tả quá trình:
- Cốm tươi: Cốm đã được bào chế thu mua trước khi đưa vào sử dụng đều được kiểm tra theo các tiêu chuẩn kỹ thuật cơ sở.
- Cho cốm, đường, các sản phẩm khác vào máy nhào trộn và cô quấy. Sau đó thu được sản phẩm thạch nha đã qua chế biến sau đó để nguội cho vào máy cắt thành từng viên. Tiến hành cuộn kẹo, đóng túi.
Qua sơ đồ ta thấy quy trình sản xuất mỗi mặt hàng là khác nhau nhưng luôn theo một trình tự nhất định. Để dây chuyền sản xuất thực hiện liên tục, có hiệu quả, ở mỗi công đoạn đều được bố trí số lượng công nhân hợp lý, thực hiện đúng nhiệm vụ được giao rõ ràng. Sau mỗi ca làm việc, công nhân công nghệ, công nhân phụ trợ đều phải kiểm tra lại quá trình hoạt động của máy móc thiết bị và vệ sinh công nghiệp trong phạm vi đảm nhiệm. Vì vậy, những yêu cầu đặt ra đối với công nhân rất khắt khe, không những đảm nhiệm công việc được giao mà còn có khả năng tính toán, phát hiện và xử lý kịp thời những trục trặc của máy móc thiết bị. Có như vậy thì sự kết hợp giữa con người và máy móc mới đem lại hiệu quả cao trong quá trình tạo ra sản phẩm.
Ii. hệ thống chỉ tiêu đáng giá chất lượng sản phẩm tại công ty.
Chất lượng của một sản phẩm được đánh giá qua một hệ thống chỉ tiêu chất lượng. Hệ thống đó được doanh nghiệp xây dựng theo tiêu chuẩn đặt ra của từng ngành và được trung tâm đo lường sản phẩm Nhà nước phê duyệt và cho phép sản xuất. Để đánh giá chất lượng sản phẩm có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không người ta phải dựa vào hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đã đăng ký đó.
Đối với bánh kẹo là hàng thực phẩm tiêu dùng ngay nên đánh giá chất lượng phải dựa trên các chỉ tiêu lý, hoá, chỉ tiêu vi sinh. Ngoài ra còn dựa vào chỉ tiêu cảm quan để đánh giá. Nếu tất cả các chỉ tiêu đó đều đạt yêu cầu thì bánh kẹo mới được coi là đạt yêu cầu chất lượng.
Công ty Cổ phần Tràng An dựa trên tình hình nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sở thích của người tiêu dùng đồng thời dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ công nhân và đặc biệt dựa vào chỉ tiêu chất lượng Nhà nước để xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng cho Công ty mình. Chỉ tiêu chung cho các loại bánh, kẹo (Bảng 8, 9 trang bên).
Ngoài ra để đánh giá phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận Công ty còn đưa ra cá chỉ tiêu so sánh chủ yếu sau:
Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất.
Tỷ lệ sai hỏng Số lượng sản phẩm sai hỏng
(theo hiện vật) = x 100
Tổng số sản phẩm sản xuất
Tỷ lệ sai hỏng Chi phí sản xuất sản phẩm hỏng
(theo giá trị) = x 100
Tổng giá thành công xưởng của SPSX
Trong quản lý chất lượng sản phẩm, còn dùng chỉ tiêu:
Tỷ lệ đạt chất Số sản phẩm đạt chất lượng
lượng =
Tổng số sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn tới tăng lợi nhuận (Sơ đồ biểu diễn chất lượng làm tăng lợi nhuận –Trang bên)
III. tình hình công tác quản lý chất lượng sản phẩm tại công ty.
* Tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm.
1. Phân công chức danh và nhiệm vụ:
Để đạt được chất lượng sản phẩm cao và quản lý chất lượng một cách toàn diện thì vấn đề chất lượng phải được cán bộ công nhân viên của Công ty hiểu một cách rõ ràng, ý thức trách nhiệm về chất lượng phải được mọi người thấm nhuần. Vì vậy trách nhiệm phải được xác định rõ ràng cho từng phòng ban cá nhân như: giám đốc, các phòng ban chức năng, nhiệm vụ của tổ trưởng sản xuất, công nhân, hay của từng đại lý như sau:
- Giám đốc Công ty: Có trách nhiệm xác định thị trường của Công ty sẽ tham gia và loại sản phẩm mà Công ty cần tham gia thị trường thông qua việc xác định mục tiêu kinh doanh và chiến lược phát triển. Giám đốc là người quyết định cuối cùng về mức chất lượng cần đạt trong thiết kế sản phẩm và mức độ cam kết về quản lý chất lượng cần thiết để đạt được chất lượng đó. Sau đó lãnh đạo các bộ phận chức năng trong toàn Công ty cùng nhau cam kết thực hiện quản lý chất lượng.
- Các phòng ban chức năng: Có nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch do giám đốc đặt ra. Cán bộ quản lý ở cấp này cần tập trung vào việc thiết kế và kiểm tra quá trình sản xuất sao cho phù hợp với các đặc tính kỹ thuật của việc thiết kế. Như vậy các phòng ban chức năng có trách nhiệm thiết kế và thực hiện hiệu quả chương trình quản lý chất lượng, nhằm đáp ứng các đặc tính sử dụng của sản phẩm.
- Nhiệm vụ của tổ trưởng sản xuất: Điều khiển và kiểm tra các công nhân trong quá trình sản xuất. Tổ trưởng sản xuất cũng là người có trách nhiệm nhận dạng và tìm giải pháp cho vấn đề chất lượng, phối hợp các phòng ban khác để sửa chữa và cải tiến quá trình sản xuất.
- Công nhân: Có vai trò trực tiếp trong việc tham gia thực hiện chất lượng sản phẩm. Công ty nên tạo điều kiện cho công nhân phát huy ý thức tự giác, tránh tình trạng căng thẳng về trách nhiệm, vì tiền lương của mình mà cứ phải cố gắng hoàn thiện tốt công việc và kết quả có thể dẫn đến tình trạng buông xuôi, chán nản mà ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Trách nhiệm của đại lý: Có nhiều trường hợp khách hàng khiếu nại về sự xuống cấp của chất lượng sản phẩm mà nguyên nhân là do các đại lý, người bán buôn không có chế độ bảo quản theo yêu cầu khi mua bánh kẹo của Công ty để bán buôn và bán lẻ. Vì vậy, Công ty cần có biện pháp bảo quản đối với sản phẩm của mình khi giao cho khách hàng là đại lý, cửa hàng… để đảm bảo chất lượng. Khi ký kết hợp đồng mua bán Công ty cần bổ sung các điều khoản về trách nhiệm đối với khiếu nại của khách hàng về chất lượng sản phẩm do các đơn vị đó bán ra.
2. Chính sách về chất lượng của Công ty:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ Công ty nào cũng đều có những ý đồ, xu hướng theo nguyên tắc nào đó để tiến hành công việc của mình. ý đồ và định hướng chung về chất lượng của một số tổ chức do lãnh đạo cao nhất đề ra chính là chính sách chất lượng. Có được chính sách chất lượng đúng đắn, lãnh đạo Công ty có thể xây dựng được chính sách chất lượng thích hợp, thực hiện các phương pháp quản lý tiên tiến, nhất quán trong Công ty, tạo lập phong trào quần chúng làm chất lượng, sáng tạo tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nên nội dung chính sách chất lượng của Công ty đã được đề ra như sau:
Mục tiêu chính sách:
+ Chính sách mô tả thực trạng của công ty về công nghệ, nhân lực, vốn, nguyên liệu, thực trạng chất lượng sản phẩm của Công ty. Từ đó phân tích, đánh giá và đưa ra chỉ tiêu phấn đấu 100% sản phẩm đạt tiêu chuẩn.
+ Chính sách chất lượng dự đoán tình hình thị trường và tính cấp bách của công tác chất lượng đối với sự sống còn của Công ty.
+ Đảm bảo chất lượng là nhiệm vụ của từng cá nhân đơn vị, phòng ban.
Nội dung của chính sách chất lượng mà Công ty có thể áp dụng:
+ Công ty cam kết thi hành một chính sách chất lượng đảm bảo cho sản xuất của mình luôn đáp ứng được với nhu cầu của khách hàng.
+ Công ty có ý định sẽ trở thành người dẫn đầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường trong nước và tiếp tục duy trì nó.
+ Công ty tán thành quan điểm hợp tác với khách hàng và bên cung ứng để thực hiện chính sách đó và không ngừng phấn đấu để cải tiến chất lượng.
+ Toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty có sự cam kết tích cực về mặt chất lượng đặc biệt là sự cam kết của ban lãnh đạo cao nhất, có sự đáp ứng nhanh chóng và hiệu quả để đạt được những tiêu chuẩn công tác mà Công ty mong chờ ở họ.
3. Các bước tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng sản phẩm của Công ty:
Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố giúp các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh. Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược sản phẩm Công ty luôn đề cao công tác quản lý chiến lược sản phẩm trong mọi hoạt động của mình.
Để đảm bảo chất lượng Công ty đã tổ chức một mạng lưới kiểm tra thống nhất từ Công ty cho đến xí nghiệp cơ sở theo chế độ 5 kiểm tra:
- Cá nhân tự kiểm tra
- Tổ sản xuất tự kiểm tra
- Ca sản xuất tự kiểm tra
- Phân xưởng tự kiểm tra
- Công ty kiểm tra và cho xuất xưởng.
Nguyên tắc kiểm tra của Công ty được thực hiện dựa trên việc lấy xác suất các mẫu trên dây chuyền của từng lô sản phẩm hay nguyên liệu trước khi mua về hoặc chuẩn bị nhập kho. Tuỳ thuộc vào độ lớn của từng lô sản phẩm hay khối lượng nguyên vật liệu để lấy mẫu. Sau đó các mẫu này được chuyển đến phòng kiểm tra chất lượng để phân tích đánh giá. Cán bộ kiểm tra chất lượng ghi rõ ngày sản xuất, ngày nhập, ca sản xuất trên mỗi mẫu để tiện theo dõi, đối chiếu và quy trách nhiệm cho bộ phận thực hiện.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, nhất là sản phẩm thực phẩm của Công ty. Nếu chỉ phát hiện ra sản phẩm cuối cùng bị hỏng thì thiệt hại rất lớn. Vì vậy Công ty đã xây dựng kế hoạch theo dõi, kiểm tra ngay từ khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, theo dõi từng công đoạn của quá trình sản xuất. Vì vậy, quá trình kiểm tra được thực hiện qua các khâu:
3.1. Kiểm tra chất lượng trong khâu thiết kế sản phẩm
Khâu thiết kế sản phẩm được điều hành theo các bước:
- Công ty có đội ngũ nhân viên làm công tác thị trường rất năng động, được đào tạo bài bản, yêu nghề: Nhóm nhân viên này có trách nhiệm thu thập thông tin trên thị trường nhằm nắm bắt điểm mạnh, điểm yếu của Công ty và đối thủ cạnh tranh đồng thời nghiên cứu thị hiếu, đặc điểm tiêu dùng của khách hàng.
- Nghiên cứu thiết kế sản phẩm: Chế thử từ quy mô nhỏ đến quy mô trung bình sau đó đến sản xuất ở quy mô lớn. Chế thử bằng nhiều phương pháp dựa trên các tiêu chuẩn mà Công ty đã áp dụng.
3.2. Kiểm tra chất lượng trong khâu cung ứng
Những thông tin về số lượng và chủng loại nguyên vật liệu sẽ được cung cấp cho phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh có trách nhiệm tìm đối tác, thoả thuận và ký hợp đồng mua nguyên liệu theo đúng thành phần số lượng và chỉ tiêu chất lượng.
Bộ phận kiểm tra chất lượng có trách nhiệm ghi sõ ngày sản xuất, ngày nhập ca sản xuất trên mỗi mẫu để tiện theo dõi, đối chiếu và quy trách nhiệm cho bộ phận thực hiện, kiểm tra khâu cung ứng.
Để đảm bảo cho nhập hàng đúng yêu cầu chất lượng, bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm và bộ phận nghiên cứu sản phẩm đều kiểm tra qua bước phân tích nguyên liệu và nấu thử sản phẩm trước khi nhập lô hàng. Công ty có biện pháp kết hợp với nhà cung ứng như sau:
- Công ty yêu cầu bên cung ứng gửi mẫu giới thiệu sản phẩm và các thông tin về đặc tính sản phẩm kèm theo.
- Bộ phận thí nghiệm thử mẫu trên sản phẩm của bánh kẹo.
- Bộ phận kiểm tra chất lượng nhận xét, đánh giá.
- Nếu NVL đạt yêu cầu cả hai về chỉ tiêu lý hoá và sản phẩm nấu thử, bộ phận kiểm tra sẽ chuyển yêu cầu sang bộ phận kinh doanh.
- Phòng kinh doanh xem xét giá cả, các phương thức mua nhập và lựa chọn nhà cung cấp.
Trong quá trình giao hàng bên cung ứng không giao đúng với chất lượng nguyên vật liệu đã gửi mẫu, cán bộ kiểm tra chất lượng có quyền không cho phép nhập kho lô hàng đó. Trong quá tình bảo quản lưu kho nguyên vật liệu cũng thường xuyên được kiểm tra để tránh có sự xuống cấp về chất lượng, đồng thời kiểm tra kho từng, thùng chứa… để đảm bảo chất lượng trước khi đưa vào sản xuất.
3.3. Kiểm tra chất lượng khâu sản xuất
Để có được sản phẩm chất lượng cao, đòi hỏi người trực tiếp kiểm tra, nhân viên kỹ thuật phải có kinh nghiệm vững chắc, thực hiện kiểm tra đúng yêu cầu, đúng công thức.
Bộ phận kiểm tra chất lượng cử nhân viên xuống các phân xưởng sản xuất và cùng cán bộ kỹ thuật theo dõi và kiểm tra chất lượng ở các công đoạn quá trình sản xuất, phát hiện những trục trặc kỹ thuật nhằm hạn chế phế phẩm ở mức tối đa.
Mục tiêu của khâu kiểm tra trong sản xuất là: Phát hiện sớm ngăn ngừa những sai sót và kịp thời xử lý ngay trên dây chuyền, sản phẩm sản xuất ra phải được tiến hành nhập kho, dán mác đảm bảo đúng quy định.
3.4. Kiểm tra chất lượng sản phẩm
Nhận viên kiểm tra chất lượng lấy mẫu xác suất từng loại bánh kẹo theo ca của từng ngày sản xuất để theo dõi chất lượng sản phẩm của Công ty. Các mẫu này được kiểm tra theo các chỉ tiêu cảm quan, lý, hoá và vệ sinh thực phẩm. Các chuyên gia đánh giá cảm quan dựa trên chỉ tiêu (kẹp có vuông không, bánh có rõ hình không, trọng lượng viên kẹo, bánh có đúng không? trạng thái, mùi vị, màu sắc…). Sau đó cho điểm và ghi vào sổ để theo dõi. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng và người thực hiện sản phẩm đó sẽ được thưởng hay ngược lại. Sau đó các mẫu sẽ được phân tích theo các chỉ tiêu lý hoá, vệ sinh thực phẩm như quy định trong tiêu chuẩn.
Sản phẩm sản xuất xong đủ tiêu chuẩn sẽ được bảo quản trong các thùng cacton. Trước khi xuất xưởng, sản phẩm được kiểm tra lần nữa để đảm bảo sản phẩm đến tay người tiêu dùng có chất lượng.
3.5. Kiểm tra chất lượng trong khâu bảo quản
Mặc dù trong những năm gần đây số lượng bánh kẹo tồn đọng ít, nhưng do tính chất thời vụ nên khoảng thời gian trước tết nguyên đán, tết trung thu…cần có nhiều bánh kẹo tiêu thụ phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Công ty phải tập trung sản xuất nên khâu bảo quản, quản lý sản phẩm không kém phần quan trọng. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu nhà kho thông thoáng, cách xa mặt đất, xa tường thì công tác quản lý sản phẩm cần tìm biện pháp sắp xếp hợp lý, các hộp bánh kẹo được xếp thành hàng nối không chồng chất lên nhau quá nhiều để đảm bảo bánh kẹo không dập nát.
Để đảm bảo khâu này bộ phận kiểm tra chất lượng có nhiệm vụ:
- Thường xuyên xuống các kho chứa thành phẩm để kiểm tra độ thông thoáng, cách sắp xếp thành phẩm trong kho đã đúng yêu cầu kỹ thuật hay chưa.
- Kịp thời xử lý ngay những vấn đề vi phạm kỹ thuật trong khâu bảo quản nguyên liệu và thành phẩm.
Như vậy, với mục tiêu đảm bảo đúng tiêu chuẩu chất lượng đề ra trong đó bao gồm:
- Đảm bảo sản phẩm đạt đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng như đã xây dựng và đăng ký với tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (chỉ tiêu lý hoá và cảm quan).
- Đảm bảo sản phẩm đạt an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Sản phẩm được bao gói trong các bao bì thực phẩm, đảm bảo đẹp, bền, tiện lợi và hấp dẫn người tiêu dùng.
- Sản phẩm đạt về thời gian bảo quản, bảo hành, theo quy định của từng loại sản phẩm đăng ký.
IV. Đánh giá tình hình chất lượng sản phẩm của Công ty.
1. Những thành tựu đạt được:
Trong những năm qua nhờ có sự nỗ lực của ban lãnh đạo và các phòng ban xí nghiệp đặc biệt là đội ngũ quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, những sản phẩm của Công ty được đánh giá là có chất lượng cao thể hiện ở các cuộc bình chọn hàng Việt Nam chất lượng cao (giải hỗ trợ được tổ chức hàng năm).
- Về chất lượng sản phẩm: Do có hệ thống kiểm tra chặt chẽ đầu vào và đầu ra của các quá trình sản xuất, đã hạn chế nhiều những trục trặc từ nguyên vật liệu, do quá trình sản xuất, giảm tỷ lệ sản phẩm sai hỏng, đồng thời có tác dụng lớn trong việc đảm bảo sản phẩm đến tay người tiêu dùng có chất lượng cao, biểu hiện:
+ Các chỉ tiêu lý hoá và vệ sinh của sản phẩm bánh kẹo: nói chung đều đạt các tiêu chuẩn đã đăng ký.
+ Giá trị dinh dưỡng: sản phẩm có độ dinh dưỡng cao, tiêu hoá tốt, đủ chất đạm, không chứa độc tố ảnh hưởng đến đường tiêu hoá và sức khoẻ người tiêu dùng.
- Sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu mã, bao bì… với trên 60 loại khác nhau, đáp ứng được nhu cầu khác nhau của thị trường. Hơn nữa giá bán của sản phẩm nhìn chung thấp, phù hợp với khả năng thanh toán của đại bộ phận thị trường.
- Trong công tác quản lý kiểm tra chất lượng sản phẩm: Việc kiểm tra chất lượng trong Công ty từ lâu đã thành nề nếp, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được thực hiện ở từng khâu trong quá trình sản xuất. Đây là một thuận lợi lớn trong công tác bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty.
- Với Công ty, bảo đảm và nâng cao chất lượng không nằm ngoài mục đích tiêu thụ tốt sản phẩm, làm tăng lợi nhuận, bảo đảm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của Công ty. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty không ngừng được nâng cao trên cơ sở thường xuyên quán triệt tư tưởng: không chạy theo lợi nhuận trước mắt mà phải bằng mọi biện pháp thích hợp đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như hiệu suất công tác.
2. Những hạn chế, tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác quản lý chất lượng, Công ty còn gặp nhiều khó khăn. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít tới chất lượng hoạt động của Công ty nói riêng và sự phát triển Công ty nói chung.
Thứ nhất: cũng như nhiều doanh nghiệp khác hiện nay, Công ty Cổ phần Tràng An vẫn thực hiện phương pháp quản lý cũ, đó là quản lý sản xuất. Công ty đã đồng nhất quản lý chất lượng với kiểm tra chất lượng sản phẩm. Việc nhấn mạnh kiểm tra chất lượng sản phẩm chỉ có ý nghĩa trong việc khắc phục chứ chưa đảm bảo cho việc phòng ngừa những sai hỏng. Từ thực tế của Công ty cho thấy, quản lý chất lượng đầu vào mới đơn thuần là kiểm tra nguyên vật liệu, trong đó đầu vào bao gồm những yếu tố cũng quan trọng không kém như lao động, vốn, công nghệ, thiết bị mặc dù cũng được quản lý nhưng chưa được coi là công việc quản lý chất lượng. Sản phẩm kém chất lượng tuy chưa đến tay người tiêu dùng nhưng hiệu quả sản xuất không cao, các loại bánh, kẹo hỏng lại mất thời gian công sức nấu lại, quật lại… hoặc bỏ đi nếu cháy gây lãng phí cho việc khắc phục những hư hỏng.
Thứ hai: Công tác quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An chỉ có trách nhiệm của bộ phận kiểm tra chất lượng. Tổng số cán bộ công nhân viên bộ phận kiểm tra chất lượng của Công ty chỉ có 7 người, phải gánh vác công việc quản lý chất lượng của Công ty thì vất vả và không quán xuyến được hết. Cũng chính vì lý do đó mà họ chỉ tập trung vào mỗi công việc kiểm tra. Việc tập trung quản lý chất lượng vào bộ phận kiểm tra chất lượng vô hình chung đã cô lập bộ phận này với các phân xưởng sản xuất. Cho nên công nhân chỉ thực hiện những thao tác đã quy định, trong khi công nhân chính là người chủ của quá trình, quyết định trực tiếp đến chất lượng của quá trình thì lại hiểu chất lượng một cách chung chung rằng chất lượng là quan trọng. Còn để đạt đến chất lượng thì phải làm gì lại do bộ phận khác quy định. Chính vì vậy ta có thể nói rằng công tác quản lý chất lượng của Công ty vẫn mang tính cục bộ, chưa thu hút được toàn bộ các thành viên tham gia để công tác đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ ba: để kích thích tinh thần làm việc của công nhân, Công ty còn áp dụng thưởng phạt thông qua việc chấm điểm chất lượng về các chỉ tiêu lý hoá, cảm quan. Tuy nhiên việc đánh giá chấm điểm này là hoàn toàn do phòng quản lý chất lượng. Đến cuối tháng thông qua thưởng phạt, công nhân mới biết chất lượng sản phẩm của mình làm có đạt hay không. Như vậy không có sự phản hồi liên tục giữa phòng quản lý xhất lượng và công nhân. Điều này không những không có tác dụng cải tiến chất lượng mà còn gây bất bình cho người lao động do không được phản ánh lại những sai sót của mình mà bị phạt.
Thứ tư: Bên cạnh đó, nhiệm vụ của các phòng ban còn rời rạc, chưa gắn kết chặt chẽ trong công tác quản trị chất lượng mà cũng chưa coi quản trị chất lượng là nhiệm vụ chung, thể hiện cách nhìn cục bộ về quản lý chất lượng. Thực ra mọi hoạt động quản lý như quản lý nhân lực (phòng lao động tiền lương), quản lý tài chính (phòng kế toán)… đều có chức năng quản lý chất lượng đầu vào cụ thể đó là lao động và vốn… Chúng là một phần của công tác quản lý chất lượng, nhưng Công ty lại chia chúng thành công việc của các phòng ban khác nhau. Điều đó chứng tỏ Công ty chưa coi nhiệm vụ quản lý chất lượng cũng như thực hiện chất lượng là công việc chung của mọi người, mọi phòng ban trong Công ty. Cũng chính vì không liên kết trong quản lý chất lượng giữa các phòng ban, bộ phận, Công ty đã vô tình cô lập ngay cả bộ phận quản lý chất lượng với các phân xưởng sản xuất. Tuy chưa có hiện tượng nào công nhân chống lại sự kiểm tra của phòng Quản lý chất lượng nhưng tâm lý chung họ không thích và sợ bị vạch lỗi. Vì vậy, họ không có tinh thần hợp tác.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên:
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những điều bất cập trong công tác quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần Tràng An là sự nhận thức chưa đúng về chất lượng. Có thể nói đây là nguyên nhân dẫn đến những tồn tại kể trên.
Công ty mới đề cập đến chất lượng một cách đơn thuần là chất lượng của các sản phẩm vật chất cụ thể như nguyên vật liệu hay sản phẩm bánh kẹo của Công ty. Khách hàng chỉ là người tiêu dùng sản phẩm của mình mà chưa nhận thức được rằng khái niệm khách hàng còn rộng hơn thì rất nhiều, bao gồm cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài….khách hàng bên ngoài cũng không chỉ bao gồm những người tiêu dùng mà còn là những đại lý, những người bán buôn, bán lẻ. Chính điều đó lý giải vì sao công tác quản lý chất lượng của Công ty chỉ là kiểm tra chất lượng nguyên liệu vào thành phẩm trong đó. Trong khi kiểm tra chỉ là một phần của công tác quản lý chất lượng theo các cách tiếp cận mới hiện nay. Vì vậy việc kiểm tra, thanh tra chất lượng chỉ tập trung vào bộ phận kiểm tra chất lượng gồm 7 người. Công ty bảo đảm việc cải tiến chất lượng bằng cách kiểm tra thật chặt chẽ. Nhưng việc kiểm tra này chỉ hạn chế được sản phẩm không đạt tiêu chuẩn đến tay người tiêu dùng chứ không có tác dụng phòng ngừa sai hỏng.
Thị trường Việt Nam cũng bị chiếm một phần bánh kẹo của Thái Lan, Malaysia, để giải thích cho việc này các Công ty sản xuất bánh kẹo ở Việt Nam trong đó có Tràng An cho rằng bánh kẹo ngoại được nhập lậu vào nước ta do đó giá rẻ, tiêu thụ được. Nhưng chỉ hai, ba năm nữa bánh kẹo của nhiều nước và các sản phẩm khác sẽ tràn ngập vào Việt Nam mà không chịu một đồng thuế nào theo chính sách tự do thương mại, sản phẩm bánh kẹo Tràng An sẽ gặp khó khăn nếu cứ giữ cách quản lý này. Hơn nữa, Công ty cần vươn ra thị trường nước ngoài nhiều hơn nữa để tìm kiếm thị trường mới, lúc đó Công ty mới thực sự mạnh, chủ động trong cạnh tranh hơn là chống đỡ để tồn tại trên thị trường trong nước.
Với những lý do trên đòi hỏi Tràng An cần phải cải tiến phương pháp quản lý chất lượng cũ và tiếp cận với phương pháp quản lý chất lượng mới phù hợp để đạt tới sự phát triển bền vững trong tương lai.
Bởi vậy, phát hiện ra những nguyên nhân trên sẽ làm cơ sở giúp em xây dựng biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời là kết quả của việc tìm hiểu về Công ty trong suốt thời gian thực tập.
I. Phương hướng phát triển của Công ty Cổ phần Tràng An đến năm 2010:
Hiện nay nghành sản xuất bánh kẹo của nước ta phát triển với tốc độ 10-15% mỗi năm. Có sản phẩm nội địa được người tiêu dùng trong nước đánh giá cao không khác gì hàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van Xuan Hung.Chinh.doc