Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về quá trình cuốn của các protein mới sinh
1.1. Thành phần hóa học và cấu trúc của protein
1.2. Hiện tượng cuốn protein trong ống nghiệm
1.3. Quá trình tổng hợp protein trong tế bào
1.4. Quá trình cuốn đồng dịch mã của protein
1.5. Đường hầm thoát ribosome
1.6. Ảnh hưởng của đường hầm thoát ribosome lên quá trình cuốn của
các protein mới sinh
Chương 2: Các mô hình và phương pháp mô phỏng
2.1. Mô hình Go cho protein
2.2. Mô hình đường hầm thoát ribosome
2.3. Phương pháp động lực học phân tử dựa trên phương trình Langevin
2.4. Mô hình khuyếch tán cho quá trình thoát protein
Chương 3: Một số kết quả nghiên cứu
3.1. Sự phụ thuộc của thời gian thoát của protein vào nhiệt độ.
3.2. Sự phụ thuộc của thời gian thoát vào cấu trúc của protein.
Chương 4: Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
41 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình thoát của protein mới sinh tại đường hầm thoát ribosome, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những khác biệt trong chiều dài và trình tự
amino acid quyết định. Nhìn chung, mỗi protein với một trình tự amino acid
xác định tại các điều kiện sinh lý bình thường sẽ chỉ gấp nếp thành một hoặc
một số ít hình dạng lập thể giống nhau – gọi là cấu hình native. Những khác
biệt trong cấu hình native và tính chất hóa học của các chuỗi bên của các
amino acid quyết định chức năng của protein. Do đó protein có khả năng thực
hiện rất nhiều chức năng khác nhau bên trong và bên ngoài tế bào. Những
8
chức năng này rất quan trọng cho sự sống. Các protein phối hợp hoạt động để
duy trì sự sống và đảm bảo chức năng chính xác của tế bào.
1.1.2.1. Cấu trúc bậc một của protein
Cấu trúc bậc một của protein là trình tự amino acid trong protein. Có
nhiều thuật ngữ dùng để chỉ chuỗi polymer tạo bởi các amino acid. Chuỗi
amino acid ngắn liên kết với nhau bằng liên kết peptide và có trình tự xác
định gọi oligopeptide hay chỉ đơn giản là peptide; chuỗi dài gọi là
polypeptide. Peptide thường chứa ít hơn 30 amino acid, còn polypepide
thường dài từ vài chục tới vài trăm amino acid.
1.1.2.2. Cấu trúc bậc hai của protein
Cấu trúc bậc hai là thành tố đặc trưng của cấu trúc protein. Cấu trúc bậc
hai là sự sắp xếp không gian địa phương của các vùng trong chuỗi
polypeptide. Những phân đoạn này gắn với nhau thông qua liên kết hydro
giữa các nhóm –NH và –CO của mạch khung, thường tạo thành các mô hình
cấu trúc có tính lặp. Các cấu trúc bậc hai cơ sở là xoắn α, phiến β và đoạn
ngoặt β ngắn hình chữ U.
Hình 1.3: Biểu diễn mạch xương sống của các cấu trúc bậc hai phổ biến của
protein: (a) 2RJX xoắn 𝛼 và (b) 1SHG phiến β [7]
Cấu trúc xoắn α: Trong phân đoạn polypeptide có kiểu gấp nếp xoắn
α, mạch khung xoắn lại. Ở cấu trúc dạng này O thuộc nhóm –CO của mỗi liên
kết peptide tạo liên kết hydro với H thuộc nhóm –NH của amino acid thứ tư
9
trong chuỗi. Trong xoắn α, mọi nhóm –NH và –CO của mạch khung liên kết
hydro với nhau, trừ các nhóm tại hai đầu tận cùng của chuỗi polypeptide.
Kiểu sắp xếp liên kết theo chu kì này tạo thành cấu trúc xoắn từ đầu amin đến
đầu carboxyl với chiều cao mỗi xoắn là 5,4 Å. Mỗi vòng xoắn chứa 3,6 amino
acid, do đó khoảng cách giữa hai nguyên tử Cα liền nhau theo phương trục
xoắn là 1,5 Å.
Trong xoắn α, liên kết hydro ổn định của các amino acid làm mạch
khung có dạng trụ dài, thẳng, từ đó nhóm R của amino acid quay ra ngoài xác
định tính chất ưa nước hay kỵ nước của xoắn. Trong dung dịch xoắn kỵ nước
thường vùi trong lõi của protein đã cuốn, trong khi xoắn ưa nước thường nằm
tại bề mặt của protein, nơi chúng có thể tương tác với môi trường nước.
Hình 1.4: Cấu trúc xoắn alpha
Cấu trúc phiến β: Chứa các mạch β là một phân đoạn ngắn (5 đến 8
amino acid) và hầu như trải ra hết cỡ. Không như xoắn α, liên kết hydro trong
phiến β hình thành giữa các nguyên tử nằm trên khung của các mạch β riêng
biệt nhưng liền kề nhau trong không gian ( Hình 1.3 (b)). Liên kết hydro trong
mạch phẳng phiến giữ các mạch β với nhau và các nhóm R gắn phía trên hoặc
phía dưới mặt phẳng này. Phiến β có tính định hướng do chiều của liên kết
peptide. Do đó, trong phiến xếp nếp, các mạch β sát nhau có thể nằm cùng
10
chiều (song song) hoặc ngược chiều (đối song song). Kẹp tóc 𝛽 ( 𝛽 – harpin)
là một cấu trúc đơn giản của phiến 𝛽 chỉ gồm hai mạch 𝛽 phản song song
được nối với nhau bởi một đoạn uốn cong chứa từ 2 đến 5 amino acid.
Cấu trúc đoạn ngoặt β: Gồm 4 amino acid tạo thành một đường cong
hẹp, uốn mạch khung của chuỗi polypeptide quay ngược lại. Cấu trúc bậc hai
hình chữ U ngắn này được ổn định nhờ liên kết hydro giữa hai đầu. Đoạn
ngoặt β giúp các protein lớn gấp lại rất gọn. Có 6 loại đoạn ngoặt khác nhau
được xác định, cấu trúc chi tiết của chúng phụ thuộc vào sự sắp xếp không
gian và liên kết hydro.
1.1.2.3. Cấu trúc bậc ba của protein
Cấu trúc bậc ba của protein là cấu hình tổng thể của chuỗi polypeptide
hay sắp xếp ba chiều của toàn bộ các amino acid. Cấu trúc bậc ba chủ yếu ổn
định nhờ tương tác kỵ nước giữa các nhóm R không phân cực, liên kết hydro
giữa các nhóm R phân cực và tương tác van der Waals. Các tương tác này yếu
nên cấu trúc bậc ba của protein không cứng nhắc mà luôn dao động nhỏ và
liên tục. Thậm chí một số phân đoạn cấu trúc bậc ba của protein linh động đến
mức chúng được coi là bị mất trật tự (không có cấu trúc lập thể bền vững,
tường minh). Tuy vậy, sự biến thiên cấu trúc này lại quan trọng đối với chức
năng và sự điều hòa của protein.
Tính chất hóa học của nhóm R của amino acid quyết định cấu trúc bậc
ba của protein. Amino acid có chuỗi bên phân cực, ưa nước hay tích điện
thường nằm trên bề mặt của protein. Những amino acid này tương tác với
nước, giúp protein hòa tan trong dung dịch và tạo tương tác không cộng hóa
trị với các phân tử không hòa tan trong nước, bao gồm các protein khác.
Ngược lại, amino acid với chuỗi bên không phân cực, kỵ nước thường bị cô
lập cách xa bề mặt tiếp xúc nước của protein. Trong nhiều trường hợp chúng
tạo thành lõi trung tâm không hòa tan trong nước (gọi là mô hình giọt dầu của
protein cầu vì lõi tương đối kỵ nước hay “có tính dầu”). Nhóm R phân cực,
ưa nước, không tích điện có thể nằm trong bề mặt cũng như trong lõi của
protein.
11
Dựa trên cấu trúc bậc ba có thể chia protein thành ba loại: protein sợi,
protein cầu và protein xuyên màng. Protein sợi là phần tử lớn, dài, cứng và
thường cấu thành từ nhiều trình tự ngắn lặp liên tiếp, tạo thành cấu trúc bậc
hai lặp đơn. Protein sợi thường kết tụ thành sợi lớn gồm nhiều protein và
không hòa tan trong nước. Chúng thường có vai trò tạo nên cấu trúc hoặc
tham gia vào sự vận động của tế bào. Protein cầu thường chứa tập hợp các
cấu trúc bậc hai, hòa tan trong nước, gấp nếp chặt và không có hình cầu hoàn
hảo. Protein xuyên màng nhúng trong lớp phospholipid kép của màng. Màng
này đóng vai trò bức tường của tế bào và cơ quan tử. Ba loại protein này
không hoàn toàn độc lập, một số protein cấu thành từ tổ hợp của hai hoặc
thậm chí cả ba loại này.
1.1.2.4. Cấu trúc bậc bốn của protein
Một số protein gồm các chuỗi polypeptide tập hợp thành một đại phân
tử chức năng. Cấu trúc bậc bốn là cấu trúc của protein do sự tập hợp các tiểu
đơn vị polypeptide đó. Cấu trúc bậc bốn là sự sắp xếp không gian giữa các
cấu trúc bậc ba của các protein. Ví dụ về các tổ hợp đại phân tử với chức năng
cấu trúc bao gồm capsid bao bọc bộ gen của virus và các bó sợi khung tế bào
giúp chống đỡ và tạo hình tế bào chất. Các tổ hợp đại phân tử khác hoạt động
như các bộ máy phân tử, thực hiện hầu hết các quá trình phức tạp của tế bào
bằng cách tích hợp những chức năng riêng lẻ thành một chỉnh thể thống nhất.
1.2. HIỆN TƯỢNG CUỐN PROTEIN TRONG ỐNG NGHIỆM
Tế bào phải thực hiện các quá trình nghiêm ngặt để tạo ra những
protein với đầy đủ các chức năng. Sau khi các ribosome liên kết các amino
acid thành các chuỗi polypeptide không phân nhánh (là cấu trúc bậc một của
protein) thì mỗi chuỗi polypeptide này được cuốn nếp, biến đổi thành cấu
hình lập thể mang cấu trúc bậc hai, bậc ba và có thể bậc bốn. Cấu hình này
được gọi là trạng thái native (trạng thái tự nhiên của protein). Với hầu hết
protein, trạng thái tự nhiên là cấu hình bền vững nhất và theo quan điểm nhiệt
động học thì trạng thái này có năng lượng tự do thấp nhất. Quá trình cuốn
protein là quá trình biến đổi động lực học của chuỗi polypeptide từ trạng thái
duỗi với cấu trúc bậc một tới trạng thái tự nhiên của protein. Tùy thuộc vào
12
điều kiện bên ngoài mỗi chuỗi polypeptide có thể cuốn thành rất nhiều các
hình dạng khác nhau. Vì vậy quá trình cuốn có thể cho sản phẩm là một cấu
hình khác với cấu hình tự nhiên của protein, gọi là quá trình cuốn lỗi. Protein
sẽ mất đi các chức năng sinh học vốn có khi nằm ở trạng thái cuốn lỗi.
Như vậy, yếu tố nào quyết định cấu hình tự nhiên của protein? Cơ chế
nào giúp cho protein cuốn về trạng thái tự nhiên nhanh và chính xác? Trước
hết, dễ thấy mặt phẳng liên kết peptide hạn chế phương thức cuốn nếp của
chuỗi polypeptide. Liên kết peptide có tính chất tương đối giống liên kết đôi
nên nguyên tử C của nhóm –CO và N của nhóm –NH và các nguyên tử gắn
trực tiếp với chúng phải nằm trên cùng một mặt phẳng cố định. Liên kết
peptide không thể tự quay quanh nó. Do vậy biến thiên cấu hình của chuỗi
polypeptide chỉ do độ linh động của khung quyết định. Độ linh động này lại
do góc quay của các mặt phẳng cố định tạp thành từ liên kết giữa Cα với N
của nhóm –NH (góc quay gọi là ) và liên kết giữa Cα với C của nhóm –CO
(góc quay gọi là ) quyết định ( Hình 1.3). Các góc xoay và bị hạn chế
bởi các ràng buộc địa phương về không gian của các nguyên tử trong chuỗi
polypeptide.
Theo nghịch lý Levinthal [9], nếu thời gian protein nằm ở mỗi cấu hình
là 10–12 s thì để trải qua tất cả các cấu hình protein sẽ cần một khoảng thời
gian lớn hơn tuổi vũ trụ. Thực nghiệm quan sát được thời gian cuốn của
protein cỡ từ vài phần nghìn giây tới vài giây. Nghĩa là protein sẽ không trải
qua tất cả các cấu hình trước khi đạt tới trạng thái tự nhiên. Các ràng buộc về
không gian và các ràng buộc trong liên kết peptide đã hạn chế được đáng kể
các cấu hình trung gian. Tuy nhiên, số lượng các cấu hình khả dĩ vẫn tăng
theo hàm số mũ của N là số amino acid trong protein vì vậy không loại bỏ
được nghịch lý Levinthal.
Các thí nghiệm của Christian Anfinsen [10] về quá trình cuốn của
protein biến tính (denatured) trong ống nghiệm cho thấy trình tự bậc một là
thông tin cần cho cấu trúc lập thể chính xác. Một số yếu tố, ví dụ như năng
lượng nhiệt động từ nhiệt độ, pH khắc nghiệt với khả năng thay đổi điện tích
chuỗi bên của amino acid và các hóa chất làm biến tính (denaturants), có thể
13
phá hủy các tương tác không cộng hóa trị yếu, làm entropy tăng nhanh và làm
duỗi protein. Tập hợp protein biến tính này chứa rất nhiều loại cấu hình không
có hoạt tính sinh học và không trong trạng thái tự nhiên. Các thí nghiệm của
Anfinsen cho thấy khi đưa mẫu chứa một loại protein tinh sạch, ở trạng thái
biến tính về điều kiện thường (nhiệt độ sinh lý, pH bình thường, pha loãng
hoặc loại bỏ chất biến tính) thì hầu hết các chuỗi polypeptide đã biến tính có
thể tự phục hồi cấu hình tự nhiên mang hoạt tính sinh học. Điều này khiến
Anfinsen đi đến kết luận rằng trình tự chuỗi amino acid là đủ để xác định cấu
trúc ba chiều của protein. Quá trình cuốn lại của protein biến tính là tự phát và
không cần sự hỗ trợ của các yếu tố liên quan.
1.3. QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP PROTEIN TRONG TẾ BÀO
Quá trình sinh tổng hợp protein là một quá trình trung tâm của sinh học
phân tử, là sự truyền thông tin di truyền vào các protein mang chức năng. Quá
trình sinh tổng hợp protein là một quá trình phức tạp và bao gồm hai giai
đoạn: phiên mã và dịch mã.
1.3.1. Quá trình phiên mã
Phiên mã (sao mã) là quá trình tổng hợp mRNA (messenger RNA –
RNA thông tin). Trình tự nucleotide (trong ngôn ngữ bốn bazơ A, G, C và T)
trên phân tử DNA được sao chép thành trình tự nucleotide (trong ngôn ngữ
bốn bazơ A, G, C và U) trên phân tử mRNA. Quá trình này gồm 3 bước sau:
Khởi đầu phiên mã: Enzyme polymerase liên kết vào đoạn trình tự
DNA khởi đầu phiên mã hình thành phức hệ đóng với DNA. Trong giai đoạn
này, DNA vẫn duy trì ở dạng sợi kép, trong khi enzyme liên kết vào bề mặt
của chuỗi xoắn kép. Sau đó polymerase làm biến đổi vùng DNA xoắn kép gần
vị trí khởi đầu hình thành phức hệ mở, DNA tách thành hai mạch đơn.
Kéo dài chuỗi mRNA: Enzyme polymerase di chuyển dọc theo mạch
khuôn DNA theo chiều từ 3’ đến 5’ và thay đổi cấu hình để liên kết ổn định
vào mạch khuôn đồng thời thực hiện một loạt các chức năng khác: Giãn xoắn
mạch DNA ở phía trước, tổng hợp chuỗi RNA theo nguyên tắc bổ sung, tách
chuỗi RNA khỏi mạch khuôn DNA và đóng xoắn mạch DNA ở phía sau.
14
Kết thúc phiên mã: Khi RNA polymerase đã phiên mã hết chiều dài
gene nó dừng lại giải phóng RNA đã tổng hợp xong và tách khỏi DNA. Sau
khi được tổng hợp, mRNA di chuyển tới các ribosome để trực tiếp tổng hợp
protein cho tế bào.
1.3.2 Quá trình dịch mã
Là quá trình tổng hợp protein từ tế bào chất, ngôn ngữ bốn bazơ của
mRNA được dịch mã thành ngôn ngữ 20 amino acid của protein. Quá trình
giải mã trình tự nucleotide trên mRNA thành trình tự amino acid cần sự tham
gia của các phân tử tRNA (transfer RNA hay RNA vận chuyển). Ở tế bào vi
khuẩn, hiện đã xác định được 30 – 40 loại tRNA và ở tế bào động vật và thực
vật có khoảng 50 – 100 loại tRNA. Như vậy, mỗi amino acid (20 loại) có thể
gắn với nhiều tRNA. Ngoài ra một loại tRNA có thể bắt cặp với nhiều codon
trong mã di truyền (61 loại). Để tổng hợp protein, tRNA mang amino acid
được hoạt hóa tới khớp với bộ ba nucleotide (còn gọi là bộ ba hay codon) trên
mRNA để amino acid đã hoạt hóa gắn vào chuỗi polypeptide đang được tổng
hợp. Quá trình dịch mã bao gồm các bước cơ bản sau:
Hoạt hóa amino acid tự do trong tế bào chất: Amino acid được hoạt
hóa nhờ gắn với hợp chất giàu năng lượng adenosinetriphosphate (ATP). Sau
đó, các amino acid đã được hoạt hóa liên kết với tRNA tương ứng để tạo nên
phức hợp amino acid – tRNA.
Mở đầu chuỗi polypeptide: Các tiểu phần của ribosome lắp ráp gần vị
trí khởi đầu dịch mã trên mRNA cùng với tRNA mang methionine có gắn đầu
amin sẽ liên kết bazơ với codon mở đầu. Phức hợp amino acid mở đầu –
tRNA (aa0 – tRNA) tiến vào ribosome đối mã của nó khớp với mã mở đầu
trên mRNA theo nguyên tắc bổ sung.
Kéo dài chuỗi polypeptide: tRNA vận chuyển amino acid thứ nhất tiến
vào ribosome đối mã với nó (theo nguyên tắc bổ sung). Enzyme xúc tác tạo
thành liên kết peptide giữa amino acid mở đầu và amino acid thứ nhất.
Ribosome dịch chuyển đi một bộ ba trên mRNA làm cho tRNA mở đầu rời
khỏi ribosome. Tiếp đó aa2 – tRNA tiến vào ribosome, đối mã của nó khớp
15
với mã thứ hai trên mRNA. Liên kết peptide giữa aa1 và aa2 được tạo thành.
Sự dịch chuyển lại xảy ra, và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi ribosome tiếp
giáp với bộ ba kết thúc. Trong mỗi chu trình kéo dài chuỗi, ribosome trải qua
hai lần biến đổi hình dạng. Lần đầu tiên cho phép tRNA đang tới gắn chặt vào
mRNA và tRNA đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng khỏi mRNA. Lần biến
đổi hình dạng thứ hai dẫn tới sự dịch chuyển.
Kết thúc chuỗi polypeptide: Ribosome chuyển dịch sang bộ ba kết thúc
và ngừng quá trình dịch mã. Hai tiểu phần của ribosome tách nhau ra. Một
enzyme đặc hiệu loại bỏ amino acid mở đầu giải phóng chuỗi polypeptide.
1.4. QUÁ TRÌNH CUỐN ĐỒNG DỊCH MÃ CỦA PROTEIN
Quá trình cuốn của protein xảy ra đồng thời với quá trình tổng hợp
protein (hay dịch mã mRNA) được gọi là cuốn đồng dịch mã (cotranslational
folding). Protein chỉ có thể cuốn hoàn chỉnh khi được tổng hợp xong và chui
ra ngoài đường hầm thoát.
Để có thể tổng hợp một lượng protein đủ nhanh, mỗi phân tử mRNA
thường được dịch mã cùng một lúc bởi nhiều ribosome. Tương tác kỵ nước dễ
dẫn đến sự kết tụ của các chuỗi polypeptide mới sinh, đặc biệt đối với các
chuỗi mới sinh được tổng hợp gần nhau từ cùng một mRNA. Sau khi
ribosome đầu tiên kết hợp với mRNA thực hiện dịch mã được một đoạn ngắn,
thì ở phía sau, nhiều ribosome khác cũng bám vào mRNA để dịch mã. Cùng
một lúc, tại vị trí rất gần nhau trong tế bào sẽ xuất hiện rất nhiều các protein
mới sinh có cấu trúc bậc một giống hệt nhau, lại chưa đạt đến cấu trúc cuốn
bền vững và chỉ được cuốn một phần. Dịch mã tương đối chậm nên cấu trúc
một phần và nhạy cảm với kết tụ sẽ tồn tại trong một khoảng thời gian tương
đối dài. Các chuỗi mới sinh đã cuốn một phần rất dễ bám chặt vào nhau, kết
tụ thành một khối lớn, không thể tiếp tục cuốn bình thường và cũng không thể
thực hiện được các chức năng sinh học nữa. Do hiệu ứng kỵ nước những
nhánh kỵ nước lộ ra trên các phân tử khác nhau sẽ bám vào nhau khi chưa kịp
vùi vào lõi của protein, thúc đẩy sự kết tụ. Sự kết tụ là nguyên nhân chính gây
ra bệnh Alheimer do các protein kết tụ thành các sợi amyloid không hòa tan
và hủy các tế bào thần kinh.
16
1.5. ĐƯỜNG HẦM THOÁT RIBOSOME
Trong bán cầu lớn tại PTC (peptidyl transferase center) của ribosome
chuỗi polypeptide được sinh tổng hợp. Trong bán cầu lớn này có một đường
hầm thoát hẹp dẫn protein mới sinh từ nơi được tổng hợp tới môi trường tế
bào. Đường kính của đường của đường hầm thoát có thể thay đổi từ 10 Å – 20
Å và không hoàn toàn thẳng [2]. Đường hầm thoát chật hẹp nhất và hơi uốn
cong ở chỗ thắt cách PTC khoảng 20 Å. Đường hầm ribosome được xây dựng
bởi các đoạn của phân tử 23S rRNA và một số protein ribosome (L4, L22,
L39). Đường hầm có chiều dài trong khoảng 80 Å – 100 Å tùy thuộc vào cách
định nghĩa cổng ra. Đường hầm có thể chứa trọng vẹn một chuỗi peptide
thẳng gồm 30 amino acid hoặc một chuỗi có cấu trúc xoắn α gồm 60 amino
acid. Mặt trong của đường hầm thoát có bản chất ưa nước cho phép chuỗi mới
sinh chui ra dễ dàng không bị cản trở.
1.6. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐƯỜNG HẦM THOÁT RIBOSOME LÊN QUÁ
TRÌNH CUỐN CÁC PROTEIN MỚI SINH
Đường hầm thoát ribosome chật hẹp đã tạo ra một số rào cản không
gian cho sự hình thành các cấu trúc của protein mới sinh [2]. Các đơn vị cấu
trúc đơn giản như xoắn α và phiến có thể hình thành bên tại đường hầm
thoát [3]. Và một số vùng cấu trúc nhỏ bậc ba khác có thể hình thành ở cổng
ra của đường hầm thoát [4]. Vì vậy, quá trình protein cuốn hoàn thiện chỉ xảy
ra bên ngoài đường hầm thoát. Thực nghiệm cho thấy ngay cả khi protein nằm
bên ngoài đường hầm ribosome, sự có mặt của ribosome vẫn giúp cho protein
cuốn chính xác hơn [12].
Thí nghiệm của Ito và cộng sự [5, 6] cho thấy ribosome ngừng dịch mã
khi trong đường hầm xuất hiện trình tự SecM trong chuỗi polypeptide. Điều
này gợi ý rằng đường hầm thoát có vai trò nhận biết trình tự amino acid và
tham gia tích cực vào quá trình tổng hợp protein. Nghiên cứu mô phỏng trong
mô hình đầy đủ các nguyên tử của Pande và các cộng sự cho thấy đường hầm
ribosome tạo nên hàng rào năng lượng tự do đối với các amino acid và có cơ
chế then cửa (gate-latch mechanism) kiểm soát sự thoát ra của các amino acid
[13].
17
Nghiên cứu mô phỏng gần đây của Hoàng và cộng sự [7] cho thấy quá
trình cuốn protein tại đường hầm thoát ribosome xảy ra đồng thời với quá
trình thoát protein ra khỏi đường hầm, và điều này giúp cho protein cuốn
chính xác hơn. Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều dài đường hầm lên quá trình
thoát protein [8] cũng gợi ý rằng chiều dài của đường hầm ribosome đã được
tự nhiên lựa chọn sao cho quá trình khuyếch tán protein ra khỏi đường hầm
được hiệu quả đồng thời không làm cho protein thoát ra quá nhanh để tránh
các nguy cơ cuốn nhầm và kết tụ.
CHƯƠNG 2: CÁC MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP MÔ PHỎNG
2.1 MÔ HÌNH GO CHO PROTEIN
Mô hình Go [14] là một loại mô hình đơn giản hóa cho protein cho phép
nghiên cứu động lực học của quá trình cuốn protein. Các thế năng tương tác
trong mô hình Go được xây dựng trên cấu trúc trạng thái native của protein
sao cho trạng thái này có thế năng cực tiểu. Mô hình Go áp dụng thế năng hút
cho các tương tác giữa các amino acid có tiếp xúc trong trạng thái native và
thế năng đẩy cho các tương tác giữa các amino acid không tiếp xúc với nhau
trong trạng thái native. Ngoài ra, giữa các amino acid lân cận nhau dọc theo
chuỗi polypeptide người ta có thể áp dụng các thế năng cho các góc liên kết
và góc nhị diện. Các nghiên cứu mô phỏng cho thấy mô hình Go cho cơ chế
cuốn phù hợp với các kết quả thực nghiệm [15, 16].
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một phiên bản mô hình Go [15]
với thế năng Lennard-Jones 10-12 và các thế năng góc. Trong mô hình này,
mỗi amino acid được coi là một hạt có khối lượng m và có vị trí trùng với vị
trí của nguyên tử Cα. Gọi N là số amino acid trong chuỗi protein. Cấu hình
phân tử protein được xác định bởi hệ vectơ {𝑟𝑖 ⃗}i=1,2,,N là tọa độ của tất cả các
hạt. Năng lượng của protein tại một cấu hình cho trước được xác định bởi:
E = VNative + VRepulsive + VBond + VAngles (2.1)
Số hạng thứ nhất trong phương trình (2.1) là tổng các thế năng Lennard-Jones
cho tương tác giữa các amino acid có tiếp xúc trong trạng thái native:
18
𝑉Native = ∑ 𝜀 [5(
𝜎𝑖𝑗
𝑟𝑖𝑗
)
12
− 6(
𝜎𝑖𝑗
𝑟𝑖𝑗
)
10
]
native
𝑖,𝑗>𝑖+3
(2.2)
trong đó rij là khoảng cách giữa hai hạt thứ i và j, ε là tham số năng lượng ứng
với độ sâu của thế năng, 𝜎𝑖𝑗 = 𝑟𝑖𝑗
𝑛𝑎𝑡𝑖𝑣𝑒
là tham số được chọn bằng khoảng
cách giữa hạt i và j trong trạng thái native. Để xác định xem hai amino acid
trong trạng thái native có tiếp xúc nhau hay không, chúng tôi sử dụng tiêu chí
đề xuất bởi Best và Hummer [17] bằng cách xét tất cả các nguyên tử nặng
trong hai amino acid (trừ các nguyên tử hydro). Nếu giữa hai amino acid thứ i
và thứ j với i + 3 < j tồn tại một cặp nguyên tử nặng có khoảng cách nhỏ hơn
4,5 Å thì hai amino acid được cho là có tiếp xúc với nhau.
Số hạng thứ hai trong phương trình (2.1) là tổng thế năng đẩy được cho
bởi:
𝑉𝑅𝑒𝑝𝑢𝑙𝑠𝑖𝑣𝑒 = ∑ 4
non-native
𝑖,𝑗>𝑖+3
𝜖 [(
𝜎
𝑟𝑖𝑗
)
12
− (
𝜎
𝑟𝑖𝑗
)
6
] 𝛩(21 6⁄ 𝜎 − 𝑟𝑖𝑗) (2.3)
trong đó tổng theo i và j được lấy theo tất cả các cặp amino acid không có tiếp
xúc trong trạng thái native, (x) là hàm bước Heavyside, σ = 5 Å.
Các hạt liên tiếp nhau trong chuỗi protein tương tác thông qua thế năng
điều hòa. Số hạng thứ ba trong phương trình (2.1) là tổng thế năng điều hòa:
𝑉Bond = 100𝜀 ∑ (𝑟𝑖,𝑖+1 − 𝑑0)
2𝑁−1
𝑖=1 , (2.4)
trong đó d0 = 3.8 Å là khoảng cách giữa hai nguyên tử carbon alpha liên tiếp
trong chuỗi protein.
Những hạn chế về không gian liên quan tới mặt phẳng liên kết peptide
trong protein được đặc trưng bởi số hạng thứ tư trong phương trình (2.1)
𝑉𝐴𝑛𝑔𝑙𝑒𝑠 = 𝑉𝐵𝐴 + 𝑉𝐷𝐴, (2.5)
19
trong đó các số hạng vế phải của phương trình (2.5) lần lượt là thế năng liên
quan tới các góc liên kết (bond angle) và các góc nhị diện (dihedral angle)
trong chuỗi.
𝑉𝐵𝐴 = ∑
𝑘0
2
(𝜃𝑖 − 𝜃0,𝑖)
2
,
𝑁−1
𝑖=2
(2.6)
với góc liên kết 𝜃𝑖là góc tạo bởi ba nguyên tử carbon alpha liên tiếp, 𝜃0,𝑖 là
góc liên kết ở trạng thái native, k0= 20 /rad2 là tham số.
𝑉𝐷𝐴 = ∑{𝐴[1 + 𝑐𝑜𝑠(𝜙𝑖 − 𝜙0,𝑖)] + 𝐵[1 + 𝑐𝑜𝑠3(𝜙𝑖 − 𝜙0,𝑖)]}
𝑁−3
𝑖=2
(2.7)
với góc nhị diện 𝜙𝑖 là góc tạo bởi bốn nguyên tử carbon alpha liên tiếp nhau
trong chuỗi, 𝜙0,𝑖 là góc nhị diện ở trạng thái gốc, A = − và B = − 0.5 là các
tham số.
2.2. MÔ HÌNH ĐƯỜNG HẦM THOÁT RIBOSOME
Chúng tôi sử dụng mô hình đơn giản hóa cho đường hầm thoát của
ribosome [7, 8] để khảo sát ảnh hưởng của đường hầm thoát lên quá trình
thoát của các protein mới sinh. Đường hầm thoát được mô hình hóa như một
ống hình trụ rỗng có chiều dài L = 80 Å, đường kính d = 15 Å và tâm chạy
dọc theo trục x, với một đáy kín và một đáy mở gắn vào một bức tường phẳng
mô phỏng mặt ngoài của ribosome. Giả sử tâm của đáy ống trụ (x = 0) chính
là vị trí mọc của protein mới sinh hay PTC (nơi amino acid được gắn vào
chuỗi polypeptide đang được tổng hợp). Protein từ đường hầm thoát chui ra
ngoài qua đáy còn lại của đường hầm thoát. Tương tác giữa amino acid và
tường đường hầm thoát là thế năng đẩy cho bởi thế năng Lennard-Jones bị cắt
tại cực tiểu của thế năng:
𝑉𝑤𝑎𝑙𝑙(𝑟) = {
4𝜀 [(
𝜎
𝑟
)
12
− (
𝜎
𝑟
)
6
] + 𝜀, 𝑟 ≤ 21 6⁄ 𝜎
0, 𝑟 > 21 6⁄ 𝜎
(2.8)
20
trong đó σ = 5 Å và r là khoảng cách ngắn nhất từ tâm các amino acid đến
tường của đường hầm cộng thêm 2.5 Å (tương ứng với bán kính Van der
Waals của các hạt ảo được giả định là cấu trúc thành mặt trong của đường
hầm thoát). Thế năng đẩy cho bởi (2.8) cũng được sử dụng cho tương tác đẩy
của cổng ra đường hầm thoát và tường phẳng bao ngoài đáy đường hầm thoát
đối với các amino acid.
2.3. PHƯƠNG PHÁP ĐỘNG LỰC HỌC PHÂN TỬ DỰA TRÊN PHƯƠNG
TRÌNH LANGEVIN
Động lực học phân tử là kĩ thuật mô phỏng sử dụng để nghiên cứu sự
biến đổi theo thời gian trạng thái của một hệ các hạt cổ điển tương tác với
nhau qua việc tích phân phương trình chuyển động của chúng. Phương pháp
động lực học phân tử cho phép xác định trạng thái của hệ ở một thời điểm t
bất kì khi biết trạng thái ban đầu của hệ. Phương pháp động lực học phân tử
có thể dùng để nghiên cứu các quá trình động lực học của protein. Trong luận
văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp động lực học phân tử xét tới các tác
động ngẫu nhiên của dung môi lên hạt chuyển động dựa trên phương trình
Langevin.
2.3.1. Phương trình Langevin
Chuyển động của các hạt cổ điển tuân theo các phương trình Newton.
Trong trường hợp chuyển động của các hạt chịu tác động của các yếu tố ngẫu
nhiên do môi trường bên ngoài người ta sử dụng phương pháp động học phân
tử dựa trên phương trình Langevin.
Phương trình Langevin có thể được sử dụng để mô tả chuyển động của
các hạt lớn như các amino acid trong protein trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_qua_trinh_thoat_cua_protein_moi_sinh_tai_duong_ham.pdf