MỤC LỤC
Lời cảm ơn . i
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt.ii
Danh mục các bảng .vi
Danh mục các biểu đồ .vii
Danh mục các sơ đồ .viii
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ CỐ VẤN
HỌC TẬP TRưỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG . 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lý đội ngũ cố vấn học tập
trường đại học, cao đẳng . 6
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề cố vấn học tập. 6
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lí đội ngũ cố vấn học tập . 9
1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. 12
1.2.1. Quản lý. 12
1.2.2. Quản lý nhà trường . 14
1.2.3. Đội ngũ cố vấn học tập . 15
1.2.4. Quản lý đội ngũ cố vấn học tập . 16
1.3. Học chế tín chỉ . 16
1.3.1. Học chế tín chỉ . 16
1.3.2. Đặc trưng của dạy học trong học chế tín chỉ . 16
1.3.3. Xu thế của học chế tín chỉ trong đào tạo đại học trong bối
cảnh hội nhập quốc tế về giáo dục đại học . 18
1.4. Cố vấn học tập trong học chế tín chỉ . 19
1.4.1. Vai trò của đội ngũ cố vấn học tập trong học chế tín chỉ . 19
1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cố vấn học tập trong học
chế tín chỉ . 20
1.5. Nội dung quản lý đội ngũ cố vấn học tập. 21
1.5.1.Quy hoạch đội ngũ cố vấn học tập. 21
1.5.2. Tuyển chọn đội ngũ cố vấn học tập . 22iv
1.5.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cố vấn học tập . 22
1.5.4. Đánh giá hoạt động của cố vấn học tập . 24
1.5.5. Xây dựng các chính sách hỗ trợ cố vấn học tập . 24
1.6. Các yếu tố tác động tới hoạt động quản lý đội ngũ cố vấn học tập
trường đại học, cao đẳng . 25
1.6.1. Yếu tố chủ quan . 25
1.6.2. Yếu tố khách quan. 26
Tiểu kết chương 1. 28
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC
TẬP TẠI TRưỜNG CAO ĐẲNG DưỢC PHÚ THỌ . 29
2.1. Tổng quan về trường Cao đẳng Dược Phú Thọ. 29
2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển của trường Cao đẳng Dược Phú Thọ . 29
2.1.2. Cơ cấu tổ chức trường Cao đẳng Dược Phú Thọ. 29
2.1.3. Hoạt động đào tạo theo tín chỉ Trường Cao đẳng Dược Phú Thọ. 31
2.2. Thực trạng đội ngũ cố vấn học tập tại trường Cao đẳng Dược
Phú Thọ . 31
2.2.1. Số lượng đội ngũ cố vấn học tập. 32
2.2.2. Trình độ đội ngũ cố vấn học tập . 33
2.2.3. Cơ cấu giới, độ tuổi, thâm niên công tác đội ngũ cố vấn học tập. 34
2.2.4. Thực trạng về chất lượng đội ngũ cố vấn học tập tại trường
Cao đẳng Dược Phú Thọ. 35
2.3. Thực trạng quản lý đội ngũ cố vấn học tập tại Trường Cao
đẳng Dược Phú Thọ. 60
2.3.1. Quy hoạch đội ngũ cố vấn học tập. 60
2.3.2. Tuyển chọn và sử dụng đội ngũ cố vấn học tập. 62
2.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cố vấn học tập . 65
2.3.4. Kiểm tra, đánh giá đội ngũ cố vấn học tập . 67
2.3.5. Chế độ chính sách đối với đội ngũ cố vấn học tập . 69
2.4. Nhận xét, đánh giá chung về công tác quản lý đội ngũ cố vấn học
tập tại trường Cao đẳng Dược Phú Thọ . 70
2.4.1. Những mặt mạnh. 70v
2.4.2. Những mặt yếu. 70
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém . 71
Tiểu kết chương 2. 75
CHưƠNG 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC
TẬP TẠI TRưỜNG CAO ĐẲNG DưỢC PHÚ THỌ . 76
3.1.Các nguyên tắc đề xuất biện pháp. 76
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống . 76
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa . 76
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi . 76
3.2. Biện pháp quản lý đội ngũ cố vấn học tập tại Trường Cao đẳng
Dược Phú Thọ. 76
3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng
của cố vấn học tập đối với đào tạo theo học chế tín chỉ cho các lực
lượng giáo dục trong nhà trường. 76
3.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng và ban hành quy chế cố vấn học tập mới. 78
3.2.3. Biện pháp 3: Tập huấn, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực,
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cố vấn học tập. 79
3.2.4. Biện pháp 4: Đổi mới công tác quy hoạch, tuyển chọn, phân
công, bố trí đội ngũ cố vấn học tập có chất lượng về phẩm chất và
nghiệp vụ cố vấn học tập. 83
3.2.5. Biện pháp 5: Đổi mới hoạt động kiểm tra đánh giá công tác cố
vấn học tập . 86
3.2.6. Biện pháp 6: Tăng cường các chế độ, chính sách tạo môi
trường tốt cho hoạt động của cố vấn học tập . 88
3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp . 91
3.4. Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp . 91
Tiểu kết chương 3. 96
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 100
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý đội ngũ cố vấn học tập tại trường cao đẳng dược Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín chỉ được gọi
tên, và chức danh cố vấn học tập cũng chỉ bắt đầu xuất hiện khi có hình thức đào
tạo theo tín chỉ. Gordon (1992) cho rằng các trường đại học trong những năm 1960
đến 1970 đã trở thành nơi cung cấp dịch vụ đào tạo cho người học, vì thế, các em
tìm đến CVHT để tìm hiểu mọi thông tin về ngành nghề, tính trách nhiệm của
trường, sự công bằng giữa các SV (Komives, SR, Woodard Jr, D. B, Associates,
1996) để kiến nghị về các dịch vụ, chất lượng đào tạo và để khám phá về năng
khiếu của từng em (Zunker, 2002).
Hoạt động CVHT được thúc đẩy và hoàn thiện từ năm 1979, khi Hiệp hội
Cố vấn học tập Quốc gia (NACADA) ra đời. Đây là một hiệp hội các nhà tư vấn
chuyên nghiệp, giáo viên tư vấn, quản trị viên và có cả những sinh viên, họ cùng
nhau làm việc, nghiên cứu, thực hành để tìm cách tăng cường, phát triển chất lượng
của giáo dục và đào tạo theo tín chỉ (Beauty, 1991). Hầu hết các trường đại học và
cao đẳng trên thế giới hiện nay đều có Trung tâm/Văn phòng tư vấn của CVHT,
những người thực hiện công việc này đều được đào tạo từ các ngành trợ giúp hoặc tốt
nghiệp từ ngành Tâm lý, Tham vấn, Công tác xã hội hoặc Giáo dục; hàng năm họ đều
có những cuộc kiểm tra, đánh giá về chất lượng hoạt động.
Như vậy, ở Mỹ, để có được hoạt động CVHT như ngày nay, họ đã trải qua
8
những chặng đường dài trong xây dựng, phát triển. Bắt đầu từ việc lựa chọn các
quan điểm, nhìn lại quá trình đào tạo, hình thành người trợ giúp cho người học, rồi
đến việc xây dựng những quy định, yêu cầu cụ thể đối với người CVHT. Có thể
khẳng định rằng chức danh CVHT học tập chỉ tồn tại khi có hệ thống đào tạo theo
tín chỉ, ở nước ta, cũng chỉ khi áp dụng đào tạo tín chỉ thì mới có chức danh này,
khi còn đào tạo theo niên chế, chỉ có chức danh giáo viên chủ nhiệm.
Ở trong nước, từ năm 1988, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhiều trường Đại học Việt Nam đã áp dụng học chế mềm dẻo, kết hợp niên chế với
mođun hoá kiến thức theo học phần - đơn vị học trình. Về cơ bản học chế của giáo
dục đại học Việt Nam đang áp dụng nhiều yếu tố của hệ thống tín chỉ của giáo dục
đại học thế giới. Từ năm học 1993-1994 ĐH Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh,
và từ năm học 1994-1995 trường ĐH Đà Lạt và một số khá đông các trường ĐH
khác ở cả ba miền cũng bắt đầu áp dụng học chế học phần - đơn vị học trình một
cách triệt để hơn, gần với hệ thống tín chỉ hơn.
Gắn với học chế tín chỉ là sự xuất hiện của chức danh cố vấn học tập. CVHT
có vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Mỗi CVHT là một nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường - sinh viên; là
một chuyên gia tư vấn về học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện, định hướng nghề
nghiệp và cả tâm tư tình cảm cho sinh viên trong suốt quá trình học tập tại trường.
Từ tháng 3 đến tháng 5/2011, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn –
ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức cuộc thi: “Nghiệp vụ cố vấn học tập” [9] với chủ đề:
“Đồng hành – trách nhiệm – sáng tạo” với 14 đội tham gia cùng 61 CVHT. Cuộc thi
đã mang lại ý nghĩa thiết thực cho giảng viên và SV đang theo học HCTC ở các
trường ĐH. Bằng hình thức sân khấu hóa, các thầy cô là CVHT lên sân khấu thuyết
trình về vai trò của mình, trả lời các tình huống mà sinh viên đặt ra, đồng thời giới
thiệu về ngành học để SV hiểu rõ hơn ngành nghề đang theo đuổi. Sinh viên được
tham gia đánh giá giờ giảng của thầy cô một cách công khai và chấm điểm hoạt
động của các CVHT.
Tháng 6/2011, Đại học Cần Thơ tổ chức hội nghị: “Nâng cao vai trò cố vấn
học tập” [11] với mục đích tạo cơ hội để CVHT và sinh viên nêu được những ưu
điểm, những khó khăn, vướng mắc và đề xuất những mong đợi, hướng giải pháp
9
trong công tác CVHT. Qua đó, nhà trường tìm ra những giải pháp để phát huy ưu
điểm, khắc phục nhược điểm, đề ra quy định phù hợp sao cho công tác CVHT ngày
càng hoàn thiện.
Tháng 8/2011, Trường ĐH Khoa học Xã hội và nhân văn – ĐH Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức khóa tập huấn: “Công tác tư vấn học tập và quản
lý học vụ” [8] nhằm xem xét hoạt động của đội ngũ CVHT sau một khóa đào tạo,
nhận diện những thành tựu cũng như những hạn chế, nhược điểm, qua đó tìm biện
pháp tháo gỡ để nâng chất hoạt động của đội ngũ CVHT.
Ngày 28/11/2012, Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội đã tổ chức
hội thảo: “Nghiệp vụ cố vấn học tập” [10] nhằm giúp giảng viên và SV nhận thức
đúng đắn về vai trò của CVHT trong hoạt động đào tạo, các quy trình tư vấn cho SV
trong việc lựa chọn chuyên ngành, đăng ký môn học, xây dựng kế hoạch học tập
và đóng góp ý kiến xây dựng các giải pháp, mô hình cho công tác CVHT.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lí đội ngũ cố vấn học tập
Sự tạo điều kiện của nhà trường về mặt chính sách, điều kiện cơ sở vật chất
là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công việc tư vấn. Carter, J.
(2007) cho rằng kỹ năng của người cố vấn học tập có mối quan hệ mức độ họ được
quan tâm, có chế độ như tất cả những người có mã ngành nghề khác.
Arnsperger Selzer, R. và Ellis Rouse, J. (2013) nghiên cứu về tính công bằng
xã hội trong công việc của CVHT và đã đi đến đề xuất cần có các chế độ hợp lý cho
người CVHT để họ tập trung làm việc, nâng cao năng suất, những yếu tố liên quan
đến chế độ có thể kể đến như điều kiện làm việc (cơ sở vật chất, trang thiết bị, các
khoản thù lao...). Các tác giả này cho rằng khi không đảm bảo được công bằng, khó
ai có thể hoàn thành được nhiệm vụ của họ một cách tốt đẹp, càng khó để thể hiện
được các kỹ năng trong trợ giúp [36, tr.34].
Ở nước ngoài, CVHT có phòng làm việc để gặp gỡ SV, CVHT được sử dụng
điện thoại, máy tính, máy fax và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Trong điều kiện các trường đại học ở nước ta còn khó khăn thì ít nhất mỗi
Khoa/ngành học cũng cần bố trí được một CVHT tư vấn cho sinh viên. Hiện nay,
hầu hết các trường đại học và một số trường cao đẳng đã ban hành văn bản quy định
khá chi tiết về vai trò, nhiệm vụ, quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ CVHT. Mặc
10
dù, việc triển khai công tác CVHT cũng như phát huy vai trò, trách nhiệm của đội
ngũ CVHT tại mỗi trường vẫn còn tồn tại nhiều cách làm khác nhau nhưng chúng ta
có thể khẳng định rằng, CVHT đóng vai trò là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát
huy tối đa khả năng học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học, lựa chọn đăng ký
học phần phù hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm được việc làm
sau khi ra trường, theo dõi quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên nhằm giúp sinh
viên điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa chọn đúng trong quá trình học tập,
đồng thời quản lý, hướng dẫn và chỉ đạo lớp được phân công phụ trách.
Theo kết quả nghiên cứu do GS.TS Trần Thị Minh Đức chủ trì cùng với các
cộng sự của mình (Tạp chí Khoa học ĐH Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và
Nhân văn 28, 2012) [14, tr.23-32] đã được tiến hành khảo sát trên 1564 sinh viên của
17 trường đại học và 244 giảng viên đang là CVHT tại các trường đại học trên cả
nước, từ kết quả nghiên cứu này chúng ta có thể tìm hiểu khái quát tình hình hoạt
động của CVHT trong các trường đại học hiện nay qua một số thông tin sau:
Tên gọi/chức danh của CVHT: Mặc dù đang đào tạo theo phương thức tín
chỉ nhưng vẫn còn chức danh giáo viên chủ nhiệm, như các trường: Đại học Khoa
học tự nhiên, Đại học Công nghệ và Khoa Luật (Đại học Quốc Gia Hà Nội); Đại
học Kinh Tế - Luật thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa (Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh); Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Bách Khoa Đà Nẵng.
Ngoài ra, có trường còn sử dụng thuật ngữ: Giáo viên hướng dẫn (Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên - TP Hồ Chí Minh), CVHT kiêm Giáo viên chủ nhiệm hay
Chủ nhiệm chương trình (Trường Đại học Hoa Sen -TP Hồ Chí Minh) để chỉ
chức danh cố vấn học tập. Kết quả điều tra trên phiếu dành cho CVHT cũng cho
thấy 47.5% giáo viên cho biết họ làm công việc của cả CVHT và GVCN. Không ít
giảng viên vẫn cho rằng, mặc dù có sự khác biệt về tên gọi, song chức năng và
nhiệm vụ của GVCN và CVHT về cơ bản là không khác nhau. Có thể khẳng định
rằng, việc xác định tên gọi/chức danh và vai trò, trách nhiệm cho CVHT hiện nay
chưa rõ ràng, chưa thống nhất ở các trường đại học, điều này sẽ kéo theo nhiều vấn
đề phát sinh với trách nhiệm của người trợ giúp sinh viên trong môi trường đào tạo
theo học chế tín chỉ.
Các tiêu chí lựa chọn CVHT: Trong các văn bản quy định ở các trường đại
11
học hiện nay, tiêu chí lựa chọn cố vấn học tập phải là giảng viên có từ 2 đến 3 năm
kinh nghiệm giảng dạy trở lên và đạt tối thiểu trình độ thạc sĩ. Tuy vậy, thực tế điều
tra cho thấy có những tiêu chí không được ghi trong văn bản nhưng rất nhiều trường
thực hiện, đó là lựa chọn những CVHT là giảng viên trẻ, nhiệt tình, thành thạo
sử dụng tin học và có thời gian (CVHT có độ tuổi từ 25-35 chiếm 78.3%). Theo lý
giải của cán bộ đang làm CVHT thì: “Cán bộ trẻ thường có thời gian, mới ra
trường, vừa trải qua thời kỳ sinh viên nên có thể hiểu sinh viên rõ hơn, hiểu phong
cách dạy của các thầy cô mà mình đã được học”, “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ
cần phải am hiểu về mạng công nghệ thông tin” hay “giảng viên trẻ thường không
để ý nhiều đến vấn đề thù lao”. Như vậy, kết quả phỏng vấn cho thấy vẫn còn nhiều
ý kiến trái chiều xung quanh việc lựa chọn tiêu chí cho người làm CVHT. Trong
đó, các ý kiến lựa chọn tập trung vào kinh nghiệm về chuyên môn, khả năng định
hướng tốt cho sinh viên trong việc lựa chọn môn học, phát triển chuyên ngành,
những gợi ý về nơi làm việcTùy vào quan điểm của mỗi cơ sở đào tạo mà việc
lựa chọn vị trí CVHT có sự khác nhau.
Hệ thống văn bản hướng dẫn công tác CVHT: Kết quả điều tra cho thấy có
83.4% CVHT cho biết là khoa (Viện hay Trường) họ có văn bản quy định và
hướng dẫn vai trò, chức năng của CVHT; 16,6% CVHT không biết rõ cơ sở đào
tạo của mình có văn bản hướng dẫn công tác CVHT hay không (Thực tế trường đại
học nào cũng có các văn bản nói về công tác Cố vấn học tập/Giáo viên chủ nhiệm).
Các quy định về thời gian làm việc cùng sinh viên của CVHT ở các trường đại học
là rất khác nhau. Phần lớn các trường đều có quy định CVHT tư vấn cho sinh viên
từ 1-2 tiết/tuần, nhưng có trường chỉ quy định 1-2 tiết/tháng, hoặc tối thiểu là 1- 2
tiết/kỳ. Ở một số trường lại có quy định CVHT phải trực ở khoa 2 lần/tuần để tiếp
sinh viên. Riêng một số trường đại học có Chuyên viên Phòng Đào tạo làm CVHT
(như Đại học Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) thì trung bình
họ phải tư vấn cho sinh viên trong khoảng thời gian từ 2-3 giờ/ngày.
Hỗ trợ quyền lợi cho CVHT: Quy định về điều kiện hỗ trợ và quyền lợi cho
CVHT được ghi trong văn bản ở hầu hết các trường đã điều tra như sau: CVHT
được giảm số giờ dạy định mức, hưởng phụ cấp theo quy định; được bố trí thời gian
tham gia khóa tập huấn nghiệp vụ cố vấn học tập. Đối chiếu những quy định trên
12
văn bản với thực tế công việc mà các CVHT phải thực hiện cho thấy, hiện nay các
Khoa, Trường trả phụ cấp cho công việc bằng tiền tính theo tháng, hoặc giảm giờ
dạy hoặc tính theo năm (Dù là cách tính gì thì cuối cùng cũng có thể quy được ra
tiền). Kết quả điều tra cũng cho thấy có tới 34.6% CVHT nhận được thù lao dưới
mức 500 ngàn/ năm. Như vậy tính ra là mỗi tháng họ chỉ nhận được khoảng 50
ngàn đồng hỗ trợ công việc tư vấn học tập cho sinh viên. Có thể nói đây là mức
tương thù lao tương đối thấp, số tiền này có thể chưa đủ để CVHT trả tiền điện
thoại liên hệ với sinh viên. Đáng chú ý hơn, có 16.3% số CVHT không nhận được
phụ cấp trách nhiệm và cũng không biết về khoản tiền này. Chỉ có 6.4% CVHT nhận
được khoản phụ cấp trên 2 triệu/năm. Kết quả khảo sát trong 17 trường đại học cho
thấy: trường ĐH Bách Khoa Hà Nội và trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội là hai
trường có phụ cấp cho CVHT cao nhất (số CVHT nhận được hỗ trợ trên 2 triệu/ năm
chủ yếu rơi vào 2 trường này). Như vậy, việc phụ cấp cho CVHT ở các trường đại
học hiện nay rất khác nhau, điều này phụ thuộc vào điều kiện vật chất của trường,
khối lượng công việc mà CVHT được giao đảm nhiệm.
Từ các thông tin nghiên cứu trên, ta có thể đưa ra nhận định một cách khái
quát rằng, việc quản lý đội ngũ CVHT tại các trường đại học hiện nay vẫn còn tồn
tại nhiều cách thực hiện khác nhau, biểu hiện như: Việc xác định vai trò, trách
nhiệm của CVHT, tiêu chí lựa chọn CVHT, các văn bản quy định, hướng dẫn công
tác CVHT, chế độ hỗ trợ cho đội ngũ làm CVHT. Vì vậy cần phải có những giải
pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác CVHT trong đào tạo theo tín
chỉ hiện nay.
1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Trong lịch sử phát triển xã hội, từ khi con người biết kết hợp sức lại với nhau
để tự vệ hoặc mưu sinh, thì bên cạnh lao động chung của mỗi người đã xuất hiện
những hoạt động mang tính đặc thù có tổ chức, phối hợp, điều khiển như một tất
yếu khách quan nhằm thực hiện mục tiêu chung đã định. Dạng lao động đặc thù đó
được gọi là quản lý.
Ngày nay thuật ngữ quản lý trở lên phổ biến và có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về quản lý:
13
Có thể hiểu quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn
thành công việc qua những nỗ lực của người khác.
Quản lý là sự phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự
khác trong cùng một tổ chức
Theo Mary Parker Follett cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật đạt được mục
đích thông qua nỗ lực của người khác”[16, tr.15].
Koonts và O
‟Donnell cũng định nghĩa: “Có lẽ không có lĩnh vực hoạt động
nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản lý ở
mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy trì một
môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn
thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”[16, tr.15].
Định nghĩa quản lý còn được James Stoner và Stephen Robbins trình bày như
sau: “Quản lý là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt
động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau
của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”[16, tr.15].
Hiện nay, quản lý được định nghĩa là quá trình đạt tới mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các chức năng: Kế hoạch - Tổ chức - Chỉ đạo - Kiểm tra.
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lý nhưng mọi khái niệm
đều bao hàm các thành tố của quản lý đó là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục
tiêu quản lý, công cụ quản lý và phương pháp quản lý. Các thành tố này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời.
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố quản lý
Tóm lại, quản lý chính là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý thông qua công cụ quản lý và phương pháp quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Phương pháp QL
Chủ thể
Công cụ QL
Đối tượng Mục tiêu
14
1.2.1.2. Bản chất của quản lý
Theo quan điểm hệ thống và quản lý theo mục tiêu thì bản chất của quản lý
có thể đề cập ở nhiều khía cạch khác nhau:
- Quản lý là những tác động có phương hướng và mục đích rõ ràng của chủ
thể quản lý.
- Quản lý là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao.
- Quản lý là quá trình thực hiện đồng thời, hàng loạt các chức năng liên kết
hữu cơ với nhau [21, tr.35].
Như vậy, có thể nói bản chất của hoạt động quản lý chính là sự tác động có
mục đích đến tập thể người nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Trong giáo dục và
đào tạo đó là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác trong xã hội nhằm thực hiện các hệ thống mục tiêu
quản lý giáo dục.
1.2.1.3. Các chức năng của quản lý
Trong hoạt động quản lý luôn luôn tồn tại 4 chức năng cơ bản đó là: chức
năng kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra. Bốn
chức năng này có mối liên hệ với nhau, cùng với các yếu tố khác là thông tin và
quyết định quản lý đã tạo nên một chu trình quản lý hoàn chỉnh.
Sơ đồ 1.2: Chu trình quản lý
Kế hoạch hóa
Kiểm tra Thông tin Tổ chức
Chỉ đạo
Tóm lại, các chức năng quản lý này có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì
vậy đòi hỏi người quản lý luôn phải biết nắm bắt thông tin và tiến hành việc quản lý
theo bốn chức năng thì mới dẫn dắt tổ chức đến mục tiêu cần đạt được.
1.2.2. Quản lý nhà trường
Có thể hiểu: Quản lý nhà trường là việc thực hiện đường lối giáo dục của
15
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối
với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh [22, tr.23].
Nội dung quản lý nhà trường bao gồm:
- Quản lý cơ sở vật chất và thiết bị nhà trường nhằm vào mục đích phục vụ
tốt cho việc giảng dạy, học tập và giáo dục học viên, phát huy tốt năng lực của
chúng cho dạy học và giáo dục.
- Quản lý nguồn tài chính hiện có của nhà trường để xây dựng cơ sở vật chất
trang thiết bị để tiến hành các hoạt động dạy học và giáo dục
- Tổ chức đội ngũ giáo viên, cán bộ nhân viên và tập thể học viên thực hiện
tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà trường.
- Quản lý các hoạt động chuyên môn: quản lý chương trình, quản lý chất
lượng theo chương trình giáo dục của Bộ, của trường.
- Quản lý việc học tập của học viên theo quy chế của Bộ Giáo dục – Đào tạo.
1.2.3. Đội ngũ cố vấn học tập
Cố vấn học tâp - cụm từ này bắt đầu phổ biến khi chương trình đào tạo theo
tín chỉ được áp dụng ở các bậc đại học.
Cố vấn học tập là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng
học tập, lựa chọn học phần phù hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm
được việc làm thích hợp; theo dõi thành tích học tập của sinh viên nhằm giúp sinh
viên điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa chọn đúng trong quá trình học tập;
Quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo lớp được phân công phụ trách đảm bảo các quyền và
nghĩa vụ của sinh viên [15, tr.19].
Đội ngũ cố vấn học tập là tập hợp tất cả các giảng viên làm công tác tư
vấn, hướng dẫn, trợ giúp sinh viên trong học tập và rèn luyện theo yêu cầu của
hiệu trưởng nhà trường, được tổ chức và hoạt động theo nội quy và quy định cụ
thể nhằm làm cho công tác giáo dục, quản lý sinh viên của nhà trường có hiệu
quả nhất [34, tr.17].
Các cố vấn học tập khi tập hợp lại thành một đội ngũ hoạt động theo mục
đích chung với những quy định chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ sẽ phát huy
mạnh mẽ hiệu quả công tác tư vấn học tập và quản lý sinh viên. Bên cạnh đó, khi
đội ngũ được sắp xếp có trật tự, có quy định cụ thể tức là có nề nếp kỷ cương, có sự
16
phân công trách nhiệm thì sẽ có tác dụng tích cực đối với các thành viên trong việc
thực hiện nhiệm vụ của mình, nhờ đó mà nâng cao được chất lượng công tác của
người cố vấn học tập.
1.2.4. Quản lý đội ngũ cố vấn học tập
Quản lý đội ngũ là những tác động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến “đội ngũ” để vận hành, phát huy tối ưu nguồn lực của đội
ngũ nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Về bản chất quản lý đội ngũ chính là việc quản
lý nhân sự của một tổ chức [27, tr.16].
Quản lý đội ngũ CVHT là quá trình hiệu trưởng tác động đến đội ngũ CVHT để tổ
chức và phối hợp các hoạt động của họ trong quá trình giáo dục sinh viên (SV) [10, tr.9].
Quản lý đội ngũ CVHT là nhằm tạo ra đội ngũ cố vấn học tập đảm bảo về trình
độ, chuyên môn, khả năng tư vấn, vừa có tâm vừa có trách nhiệm đối với sinh viên.
1.3. Học chế tín chỉ
1.3.1. Học chế tín chỉ
Hệ thống tín chỉ lần đầu tiên được áp dụng tại ĐH Harvard vào năm 1872.
Thực chất hệ thống tín chỉ là bảng liệt kê:
Số lượng của tín chỉ được cung cấp cho mỗi môn học, con số đó được xác
định bởi các giờ lên lớp và thực hành, thực nghiệm dành cho một môn học trong
một tuần; Số lượng tín chỉ cần tích luỹ để đạt một văn bằng;
Số lượng các môn học và các phương thức tổ hợp các môn học để tích luỹ đủ
số tín chỉ cần cho một văn bằng.
Như vậy, hệ thống tín chỉ tạo điều kiện để sinh viên chủ động lựa chọn các
môn học (và các hoạt động khác) tích luỹ, bổ sung dần và để cuối cùng tiến tới một
văn bằng (không phụ thuộc vào thời gian và địa điểm).
Việc triển khai hệ thống tín chỉ liên quan tới cách tổ chức năm học theo học
kỳ. Thông thường, một năm học được chia thành 2 học kỳ, mỗi học kỳ có 15-16 tuần
giảng dạy. Đây là một yếu tố rất quan trọng cho việc tổ chức dạy học theo học chế tín
chỉ, trong đó phải đảm bảo 80 ngày làm việc trong một học kỳ, 160 ngày làm việc
trong hai học kỳ. Một số trường ĐH tổ chức thêm học kỳ hè (có 8-10 tuần).
1.3.2. Đặc trưng của dạy học trong học chế tín chỉ
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC) có những khác biệt căn bản với đào tạo
17
theo niên chế. Hệ thống TC cho phép SV đạt được văn bằng đại học qua việc tích
luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định,
gọi là TC (credit).
Theo Quy chế 43: “Một TC được quy định bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45
tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại cở sở; 45-60 giờ
làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp” [1, tr.01].
Đối với những học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một TC, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Trong hệ thống TC, chương trình đào tạo mềm dẻo và có tính liên thông cao.
Chương trình đào tạo bao gồm hai loại học phần: Học phần bắt buộc là học phần
chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình, bắt buộc SV
phải tích luỹ. Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức
cần thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá
hướng chuyên môn.
Trong hệ thống này, kiến thức được cấu trúc thành các mô - đun (học phần).
Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho SV tích luỹ
trong quá trình học tập. Thường thì một học phần có khối lượng từ 2 đến 4 TC.
Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu mỗi học kì, SV được lựa chọn và đăng kí
các học phần thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ nhằm đạt được kiến thức
theo một chương trình đào tạo nào đó. Nhà trường căn cứ vào nhu cầu của SV để bố
trí giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho các lớp học phần.
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết quả học tập của SV được đánh giá theo
quá trình, khác với đào tạo theo niên chế chỉ đánh giá qua kì thi hết môn. Thang
điểm để đánh giá kết quả học tập của SV sử dụng thang điểm chữ A, B, C, D (hay
thang điểm bốn).
Bản chất của phương thức đào tạo theo hệ thống TC là cá thể hoá việc học
tập của người học. Điều này được các nhà nghiên cứu gọi là nguyên lí “tiệc buffet”,
tức là SV được tự chọn các học phần để học trong mỗi học kì, mỗi năm học. Cách
tổ chức hoạt động theo nguyên lí này đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các
trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế
chương trình liên thông giữa các hệ thống đào tạo khác nhau.
18
1.3.3. Xu thế của học chế tín chỉ trong đào tạo đại học trong bối cảnh hội nhập
quốc tế về giáo dục đại học
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ với những ưu thế vượt trội của nó
đã và đang là yêu cầu tất yếu của giáo dục đại học trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Phương thức đào tạo này yêu cầu người học phải phát huy tối đa vai trò chủ
thể, độc lập, sáng tạo trong học tập. Để thực hiện tốt mô hình này, phải khẳng định
rằng cố vấn học tập có vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong đào tạo
theo học chế tín chỉ.
Viêc̣ chuyển từ đào tạo theo niên chế học phần sang đào tạo theo hệ thống tín
chỉ là môṭ trong những bước đi quan trọng trong đổi mới giáo dục nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo , từng bước hòa nhập với nền giáo dục trong khu
vưc̣ và trên thế giới . Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày
2/11/2005 đã xác định mục tiêu chung của giáo dục đại học Việt Nam đến năm
2020 là: “Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ
bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân
dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới; có năng lực cạnh tranh cao, thích ứng
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong phần nhiệm vụ và giải
pháp đổi mới, Nghị quyết còn xác định cụ thể hơn: “Xây dựng và thực hiện lộ trình
chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người
học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp
học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài”. Ngày 15/8/2007, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng đã ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT). Có thể
nói đây chính là những căn cứ, cơ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05050002873_4437_2002904.pdf