MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TTCK VÀ QLNN ĐỐI VỚI TTCK 4
I.Cơ sở lý luận chung về TTCK: 4
1.Tính tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển của TTCK trong nền kinh tế thị trường. 4
2.Khái niệm về TTCK: 7
3.Đặc điểm của TTCK: 7
3.1. Hàng hoá trao đổi trên TTCK là những hàng hoá đặc biệt; 7
3.2.Phương thức giao dịch trên TTCK khá đặc thù: 8
3.3.TTCK mang tính cạnh tranh khá hoàn hảo: 8
4.Chức năng của TTCK: 8
4.1.TTCK tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế: 8
4.2. TTCK tham gia phân phối lại thu nhập quốc dân. 8
4.3.TTCK là kênh giao lưu vốn trong nước và nước ngoài: 9
4.4.TTCK điều hoà phân bổ vốn đầu tư xã hội giữa các lĩnh vực, ngành nghề, doanh nghiệp: 9
4.5. TTCK cung cấp một chỉ báo và một môi trường điều tiết vĩ mô: 9
4.6.TTCK cung cấp tính thanh khoản cho nhà đầu tư: 9
4.7.TTCK có chức năng định giá thị trường doanh nghiệp có cổ phiếu giao dịch: 10
5. Phân loại TTCK: 10
5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn: 10
5.1.1. Thị trường sơ cấp hay thị trường phát hành( Primary market): 10
5.1.2. Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành chứng khoán( Secondary market). 10
5.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động: 11
5.2.1.TTCK tập trung ( SGDCK, TTGDCK): 11
5.2.2. Thị trường phi tập trung: 11
5.3.Căn cứ vào hàng hoá trên TTCK: 12
5.3.1.Thị trường cổ phiếu( the stock market) 12
5.3.2.Thị trường trái phiếu ( Bond market) 12
5.3.3.TTCK phái sinh 12
II. Cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước đối (QLNN) đối với TTCK: 12
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK: 12
2. Vai trò của việc quản lý TTCK. 14
3.Chức năng của quản lý TTCK: 14
4.Các nguyên tắc cơ bản của quản lý trong quản lý TTCK. 15
4.1.Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế: 15
4.2.Nguyên tắc tập trung dân chủ: 16
4.3.Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế: 17
4.4.Nguyên tắc hiệu quả: 18
5. Các biện pháp quản lý TTCK: 18
5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng: 20
5.2. Biện pháp hành chính luật pháp: 20
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo: 21
5.4. Biện pháp kinh tế: 22
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN đối với TTCK: 22
CHƯƠNG II: 25
THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM 25
I.Quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam: 25
1. Quá trình hình thành TTCK Việt Nam: 25
2. Thực trạng TTCK Việt Nam: 26
2.1.Về quy mô hoạt động: 26
2.2.Về hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán: 29
2.3. Về nhà đầu tư chứng khoán: 30
II. Thực trạng QLNN đối với TTCK Việt Nam: 30
1.Khung pháp lý: 30
2. Mô hình tổ chức QLNN đối với TTCK ở Việt Nam: 32
2.1.Mô hình trong giai đoạn ban đầu: 33
2.2.Mô hình hiện tại: 36
3. Thực tiễn QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian vừa qua: 40
3.1.Hoạt động phát hành chứng khoán: 40
3.1.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP 40
3.1.2.QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp: 42
3.2.QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD. 48
3.3.QLNN đối với hoạt động GDCK: 52
3.4.QLNN với hoạtđộngCBTT . 55
3.4. QLNN đối với hoạt động đăng kí, lưu kí, thanh toán bù trừ GDCK: 58
3.5. Hoạt động tổ chức thị trường GDCK, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán: 60
3.5.1. Hoạt động tổ chức thị trường GDCK: 60
3.5.2.Quản lý các hoạt động kinh doanh chứng khoán: 61
3.5.3.Quản lý, giám sát đối với các hoạt động ĐTCK : 63
III.Đánh giá hoạt QLNN đối với TTCK Việt Nam: 66
1.Kết quả đạt được: 66
2.Những hạn chế: 67
CHƯƠNG III: 71
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM. 71
I.Bài học kinh nghiệm từ mô hình quản lý TTCK của một số nước và những bài học cho QLNN đối với TTCK Việt Nam. 71
1.Mô hình quản lý TTCK Thái Lan: 71
1.1. Mục tiêu quản lý của TTCK Thái Lan. 72
1.2. Cơ quan quản lý TTCK: 72
1.3.Phương thức quản lý của TTCK Thái Lan: 73
1.4.Nội dung quản lý TTCK Thái Lan: 73
1.5.Các tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý TTCK Thái Lan: 73
2.Mô hình quản lý TTCK của Ba Lan: 74
2.1Một số nét về thị trường vốn: 74
2.2.QLNN về TTCK: 74
3.Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: 76
II.Mục tiêu, định hướng, cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam: 78
1.Mục tiêu định hướng phát triển TTCK Việt Nam: 78
1.1.Mục tiêu cơ bản: 78
1.2.Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến 2010: 78
2. Cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam: 79
2.1.Cơ hội: 79
2.2. Thách thức: 79
III.Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với TTCK Việt Nam: 80
1.Hoàn thiện khung pháp lý CK & TTCK: 80
2.Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với TTCK. 82
3. Giải pháp đối với hoạt động phát hành ra công chúng. 86
4. Giải pháp đối với hoạt động niêm yết và GDCK: 87
5. Đối với hoạt động CBTT: 89
6. Giải pháp đối với hoạt động đăng kí, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. 90
7. Giải pháp đối với các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán: 90
8. Một số giải pháp khác: 84
KẾT LUẬN: 93
116 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t hành của các tổ chức nhận bảo lãnh và phát hành còn hạn chế, cho nên tồn tại khối lượng lớn TPCP do các tổ chức này giữ lại mà không phân phối ra công chúng. Việc quy định lãi suất trần trong đấu thầu TPCP quá thấp so với lãi suất huy động vốn bình quân trên thị trường đã làm cho nhiều phiên đấu thầu TPCP có kết quả thấp. Khối lượng đăng kí tương đối cao, bình quân gấp 3,65 lần khối lượng gọi thầu nhưng tỷ lệ thành công lại theo chiều hướng giảm dần (nếu như trong quý I/2007 tỷ lệ này là 99% thì đến quý II/2007 giảm xuống còn 82,46%, và đến cuối quý III/2007 con số này chỉ còn 58,39%). Ví dụ như TPCP kì hạn 5 năm thì mức lãi suất trần quy định là 7,05-7,9%, kì hạn 10 năm là 7,95-8,6%, 15 năm là 8-8,8% , trong khi đó trái phiếu các doanh nghiệp phát hành lại đưa ra mức lãi suất khá hấp dẫn, tính thanh khoản cao hơn hẳn TPCP khiến các nhà đầu tư đổ dồn vào trái phiếu doanh nghiệp và không mặn mà với TPCP ( ví dụ, NHTMCP A Châu vừa phát hành thành công 2.250 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất 8,6%/năm; Tổng công ty Xây dung dịch vụ Việt Nam VINECO cũng vừa chào bán thành công 5 triệu trái phiếu kì hạn 5 năm, lãi suất cố định là 10,15%/năm, số lượng đăng kí mua trong đợt phát hành này lên tới 11,1 triệu trái phiếu). Bên cạnh đó, tâm lý lo ngại lạm phát có xu hướng gia tăng khiến mức lãi suất TPCP ( chỉ khoảng trên dưới 7-8%) không đủ bù đắp lại mức tăng giá do lạm phát mà các nhà đầu tư trong nước phải gánh chịu. Riêng nhà đầu tư nước ngoài thì còn tồn tại lo ngại liên quan đến chính sách điều hành tỷ giá của NHNN nên vẫn chưa mặn mà với trái phiếu nói chung và TPCP nói riêng. Trước đây, nhà ĐTNN hy vọng rằng đồng Việt Nam sẽ mạnh lên do các luồng vốn từ nước ngoài đổ vào tạo sức ép tăng giá đồng nội tệ, nhưng NHNN vẫn duy trì chính sách đồng tiền Việt Nam giảm giá và thường mức trung bình từ 1%/1 năm. Tỷ giá bị chênh lệch mất 1% cộng với lạm phát gia tăng khiến sức hấp dẫn của TPCP cũng bị ảnh hưởng không nhỏ và cầu từ phía nhà ĐTNN cũng giảm đi trông thấy.[15]
Trong công tác QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp thì hạn chế đầu tiên phải kể đến là cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK ra công chúng chưa có tính thống nhất và chưa thực sự đầy đủ, từ đó làm nảy sinh bất hợp lý. Việc PHCK của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động phát hành cổ phiếu ra công chúng của các DNNN CPH lại được thực hiện theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ lại được quy định trong Nghị định 02/2006/NĐ-CP. Còn việc PHCK của các loại hình doanh nghiệp khác lại được thực hiện theo quy định trong Luật Chứng khoán. Sự thiếu thống nhất về cơ sở pháp lý đã nảy sinh một số bất hợp lý. UBCKNN được giao là cơ quan quản lý cao nhất nhưng thực tế việc quản lý doanh nghiệp phát hành lại do nhiều cơ quan tham gia. UBCKNN chỉ quản lý doanh nghiệp phát hành ra công chúng để niêm yết và giao dịch trên TTCK, các doanh nghiệp khác phát hành cổ phiếu ra bên ngoài thuộc diện quản lý của của các Bộ ngành chủ quản, thậm chí nhiều doanh nghiệp cổ phần cũng có thể dễ dàng phát hành cổ phiếu theo Luật Doanh nghiệp mà không bị quản lý. Do đó làm cho doanh nghiệp lúng túng không biết phải báo cáo cho những cơ quan nào và các thủ tục cần có khi muốn PHCK ra công chúng. Hai là, trong hoạt động bảo lãnh phát hành thì nhiều tổ chức kinh doanh hoạt động này gặp khó khăn về vốn, đặc biệt trong điều kiện khi các CtyCK chưa có thói quen liên kết thành tổ hợp bảo lãnh phát hành, chất lượng của các công ty kiểm toán còn chưa cao, hoạt động tư vấn còn thiếu chuyên môn trong khi đó công việc này lại khá phức tạp. Hoạt động hỗ trợ thị trường sau phát hành tại Việt Nam chưa được hình thành. CtyCK tham gia bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp đồng thời kết thúc vai trò của mình sau khi đợt phát hành kết thúc, chưa có CtyCK nào tiếp tục tham gia vào việc tác động giá cổ phiếu trên thị trường sau khi cổ phiếu đó được phép phát hành. Ba là,theo quy định của Việt Nam thì quá trình PHCK và niêm yết là tách biệt, cổ phiếu sau khi phát hành lại không được niêm yết và giao dịch ngay trên TTCK, thời gian CPH đến khi được niêm yết và giao dịch trên TTCK lại quá lâu nên lợi ích của việc phát hành mang lại nhiều khi bị giảm bớt. Nhiều công ty CPH, kể cả các công ty lớn không có chủ trương gắn kết hoạt động phát hành với niêm yết bởi nhiều lý do như sợ thủ tục phức tạp, e dè nghĩa vụ phải công bố thông tin ra công chúng sẽ làm mất khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không phải thực hiện nghĩa vụ này. Bốn là, cơ chế đảm bảo tính công khai minh bạch trong hoạt động PHCK ra công chúng chưa thật sự chặt chẽ,sự giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo, cho nên dẫn tới trường hợp một số doanh nghiệp chưa đảm bảo nghĩa vụ CBTT, chưa thực sự tuân thủ những quy định của pháp luật trong quá trình PHCK, nhiều doanh nghiệp che dấu thông tin để đánh lừa nhà đầu tư bên ngoài. Ví dụ như trường hợp của công ty XNK nông sản Saforimex. Trước đó công ty này đã bán ra hơn 8000 cổ phiếu để thực hiện CPH, nhưng ngay sau đó toàn bộ số tiền này đã bị toà án phong toả để trả nợ, thậm chí số nợ của công ty này còn vượt quá nhiều lần so với giá trị được CPH. Như vậy, nhà đầu tư đã nhận được thông tin không trung thực khi công ty tuyên bố lãi 3 năm liên tục.[45]
Tóm lại, công tác PHCK trên TTCK trong thời gian qua đã đạt được những kết quả ban đầu trên cả phương diện tạo dựng cơ sở pháp lý và thủ tục hành chính. Tuy vậy, những khiếm khuyết còn tồn tại đã làm giảm vai trò QLNN và tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư.
3.2.QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD.
Công tác QLNN đối với hoạt động niêm yết, ĐKGD được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền triển khai chủ yếu thông qua việc ban hành các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể này tham gia hoạt động trên TTCK, tổ chức việc thực hiện các thủ tục hành chính như cấp phép niêm yết, cấp chứng nhận ĐKGD và giám sát sự tuân thủ của các tổ chức này. Hiện nay, UBCKNN đảm nhận chức năng giám sát các CtyNY, tổ chức ĐKGD trong quá trình các tổ chức này thực hiện các thủ tục, đáp ứng các điều kiện cần thiết để tham gia TTCK, việc chấp hành chế độ báo cáo và công bố thông tin của các TCNY này. Theo quy định hiện nay, mọi tổ chức PHCK ra công chúng muốn niêm yết trên SGDCK và TTGDCK đều phải được cấp phép niêm yết và mỗi loại chứng khoán chỉ được niêm yết tại một SGDCK hay một TTGDCK. Quy trình cấp phép niêm yết cũng gồm 6 bước. Tổ chức PHCK ra công chúng muốn NYCK trên SGDCK, TTGDCK phảI đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện niêm yết, nộp lệ phí niêm yết. Nếu TCNY không còn duy trì được các điều kiện niêm yết trong thời gian quy định hay chấm dứt sự tồn tại do sáp nhập, chia tách, giải thể thì sẽ bị UBCKNN huỷ bỏ niêm yết. Tổ chức PHCK chưa có thể thực hiện việc niêm yết thì có thể thực hiện ĐKGD tại TTGDCK HN với các điều kiện giao dịch, hồ sơ, thủ tục ĐKGD và trách nhiệm công bố thông tin khi được ĐKGD thông thoáng hơn khá nhiều. Với nhiệm vụ của mình, UBCKNN đã chú trọng công tác cấp phép, quản lý niêm yết và cấp chứng nhận đăng kí giao dịch và đảm bảo sự tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, và đảm bảo được chất lượng và độ tin cậy của các hàng hoá giao dịch trên TTCK. Hiện nay UBCKNN đã giao cho TTGDCK HN thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ĐKGD và quản lý hoạt động giao dịch của các tổ chức này. Đầu năm 2007, UBCKNN cũng đã chuyển chức năng xét duyệt niêm yết cho TTGDCK Tp.HCM nay là SGDCK Tp.HCM.
Đối với điều kiện niêm yết, ĐKGD đã được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển chung của thị trường. Trước đây, theo Nghị định 48 và các văn bản hướng dẫn, các điều kiện niêm yết được đánh giá là khá cao so với khả năng đáp ứng của nhiều CtyCP. Theo đó, vốn điều lệ yêu cầu tối thiểu là 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh trong hai năm liên tiếp gần nhất phải có lãi, thành viên HĐQT và giám sát phải có kinh nghiệm trong quản lý, tối thiểu 20% vốn cổ phần phải được bán cho nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành. Theo Nghị định 144 và thông tư 59/2004/ TT- BTC thì các điều kiện niêm yết đã được nới lỏng đáng kể. Điều kiện niêm yết cổ phiếu là: có vốn điều lệ đã góp là 5 tỷ đồng trở nên, có tình hình tài chính lành mạnh… Điều kiện niêm yết trái phiếu là CtyCP, công ty TNHH, DNNN có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm xin phép niêm yết từ 10 tỷ đồng trở nên,có ít nhất 50 người sở hữu trái phiếu…Với CCQĐT: tổng mệnh giá CCQĐT tối thiểu 5 tỷ đồng, tối thiểu 50 người sở hữu CCQĐT…Điều kiện này được xem là nới lỏng với cần thiết trong điều kiện số doanh nghiệp đáp ứng đủ yêu cầu về vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng giai đoạn đó là rất ít và đây là nguyên nhân của sự khiêm tốn hàng hoá trong giai đoạn trước đó.
Theo Luật Chứng khoán và Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 11/1/2007 quy định chi tiết về một số điều của Luật Chứng khoán, thì các điều kiện niêm yết và ĐKGD đã được thắt chặt nên rất nhiều. Với việc chuyển TTGDCK Tp.HCM thành SGDCK Tp.HCM thì quy định về điều kiện niêm yết tại SGDCK và TTGDCK có sự phân biệt. Điều kiện niêm yết ở trên SGDCK: các CtyNY mới thì phải đáp ứng được điều kiện này, các CtyNY trước khi chuyển thành SGDCK Tp.HCM thì có hai năm để thoả mãn các điều kiện này. Theo đó, điều kiện niêm yết cổ phiếu là phải có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng trở lên; hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng kí niêm yết phải có lãi …Với trái phiếu điều kiện là CtyNY hoặc DNNN phải có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng kí niêm yết từ 80 tỷ đồng trở nên; hoạt động kinh doanh 2 năm liền trước năm đăng kí niêm yết phải có lãi. Với CCQĐT điều kiện là Quỹ đóng có tổng giá trị chứng chỉ quỹ phát hành ít nhất từ 50 tỷ đồng trở nên;…Điều kiện trên TTGDCK HN thì số vốn điều lệ tại thời điểm niêm yết đối với cổ phiếu và trái phiếu đều là 10 tỷ đồng….Các điều kiện kể trên được đánh giá là cú hích tích cực nhằm tăng cung về hàng hoá có chất lượng cao cho TTCK, bởi theo nhận định rằng hiện nay các doanh nghiệp có thể đáp ứng được các điều kiện trên khá nhiều. Tạo cung hàng hoá có chất lượng sẽ làm tăng sự thu hút đối với các nhà đầu tư, tạo sự an toàn và minh bạch trên thị trường và cũng là sự nâng cấp cần thiết khi chuyển đổi cơ cấu tổ chức của TTGDCK lên một hình thức phát triển hơn với tình hình hiên tại đó là SGDCK. Tuy nhiên, cũng theo ý kiến của nhiều chuyên gia thì mặt trái của các quy định về điều kiện niêm yết mới này là tung ra trên TTCK hai loại hàng hoá với chất lượng chênh lệch nhau khá lớn. Khó có thể đảm bảo không có những rủi ro bất thường đối với cổ phiếu của các công ty nhỏ đang niêm yết trên TTGDCK.
Các điều kiện ĐKGD vẫn theo Quyết định 244/2005/QĐ-BTC. Các điều kiện này tỏ ra khá nhẹ so với khả năng đáp ứng của nhiều TCPH chưa niêm yết( điều kiện niêm yết cổ phiếu: CtyCP có vốn điều lệ ít nhất là 5 tỷ đồng trở lên, có ít nhất 50 cổ đông, có tình hình tài chính minh bạch, hoạt động kinh doanh năm liền trước phảI có lãi. Điều kiện niêm yết trái phiếu: là các trái phiếu chưa niêm yết của cùng đợt phát hành và có cùng ngày đáo hạn). Tuy vậy lại có nhiều doanh nghiệp còn chưa muốn tham gia TTCK do họ sợ nghĩa vụ phải CBTT, do sức ép của TTGDCK và cũng một phần do nhận thức của họ về lợi ích tham gia trên TTCK chưa cao.
Đối với các thủ tục trong NYCK và ĐKGD: hồ sơ xin đăng kí niêm yết, ĐKGD thì đã được quy định khá cụ thể, tuy vậy thì các yêu cầu đối với bộ hồ sơ thì lại khá phức tạp theo chiều hướng tăng mức độ chi tiết và tăng số giấy tờ yêu cầu cần có tạo tâm lý e ngại cho nhiều TCPH muốn tham gia niêm yết hay ĐKGD.
Để khuyến khích các TCNY và tổ chức ĐKGD trên TTCK, Nhà nước đã có nhiều ưu đãi đặc biệt là các ưu đãi về thuế. Công văn số 19924/TC-CST ngày 20/10/1999 và công văn số 4248/TC-CST ban ngày 29/4/2005 quy định rằng: các tổ chức có chứng khoán được niêm yết lần đầu và các tổ chức ĐKGD lần đầu tại TTGDCK được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong hai năm kể từ khi thực hiện việc niêm yết và ĐKGD. Đây là ưu đãi về thuế tương đối thuận lợi cho các TCNY và ĐKGD bởi lẽ họ có được phần lợi nhuận sau thuế nhiều hơn trong thời gian hưởng ưu đãi để trả cổ tức cho cổ đông và tăng tính hấp dẫn của chứng khoán trên thị trường. Tuy vậy, Bộ Tài chính cũng đã ban hành công văn 1099/BTC-CTS ngày 8/9/2006 về việc bãI bỏ ưu đãI thuế thu nhập đối với các TCPH tham gia niêm yết hay ĐKGD trên các TTGDCK sau ngày 31/12/2006 đã tác động và tạo ra một trào lưu lên sàn dồn vào cuối năm 2006 để hưởng các ưu đãi thuế trước khi chính sách này hết hiệu lực. Trong 3 tháng cuối năm có tới trên 50 CtyCP chính thức niêm yết trên TTGDCK Tp.HCM và 60 CtyCP ĐKGD trên TTGDCK HN.
Khi các TCPH đã được cấp phép niêm yết tại SGDCK hay TTGDCK, nhằm đảm bảo duy trì một thị trường công bằng và trật tự thì các TCNY này sẽ chịu sự quản lý về việc thực hiện các nghĩa vụ của mình. Hoạt động này bao gồm việc quản lý chứng khoán niêm yết và quản lý việc cung cấp thông tin của các TCNY ( do TTGDCK đảm nhiệm và báo cáo với UBCKNN). Trong hoạt động quản lý chứng khoán niêm yết, thì hoạt động này sẽ được bắt đầu thực hiện từ khi chứng khoán niêm yết được niêm yết trên TTGDCK, SGDCK. Hoạt đông này bao gồm việc quản lý tình trạng tài chính và tình hình hoạt động của TCNY thông qua các báo cáo tài chính định kì. Đối với hoạt động quản lý cung cấp thông tin thì các TCNY phải báo cáo cho TTGDCK tất cả các sự kiện có liên quan tới việc quản lý chứng khoán được niêm yết. Việc báo cáo này diễn ra thường xuyên và trong suốt thời gian chứng khoán được niêm yết. Công tác theo dõi và phân tích tình hình hoạt động của các CtyNY được thực hiện thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính định kì. Bên cạnh đó, việc định giá của TCNY cũng được tính toán qua từng thời kì nhằm đối chiếu, kiểm kê với giá của cổ phiếu trên thị trường từ đó TTGDCK có thể theo dõi chặt chẽ và nhanh chóng đưa ra hoặc đề xuất với UBCKNN những biện pháp cảnh báo trong trường hợp giá thị trường vượt quá giá trị sổ sách của TCNY.
Với chính sách quản lý niêm yết và ĐKGD của Chính phủ trong thời gian qua, TTCK Việt Nam đã có những cảI thiện đáng kể, quy mô thị trường tính theo mức vốn hoá so với GDP hàng năm đã được cảI thiện rõ rệt.
3.3. QLNN đối với hoạt động GDCK:
Cơ sở pháp lý cho hoạt đông GDCK trên TTCK Việt Nam từng bước được bổ xung và hoàn thiện. Cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động này được thể hiện tập trung trong Nghị định 48 và các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện. Sau đó các quy định trên được thay thế bằng Nghị định 144 và Thông tư 58/2004/TT-BTC đã cung cấp các cơ sở pháp lý cho hoạt động này để nhằm phù hợp với thực tế hơn. Khi TTGDCK HN đi vào hoạt động Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 244/2005/QĐ-BTC để cung cấp các cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động giao dịch tại trung tâm này. Với việc ban hành Luật Chứng khoán, Nhà nước cũng đã quy định thống nhất về những vấn đề liên quan đến hình thức tồn tại, tổ chức bộ máy quản lý, nội dung hoạt động, quyền, nghĩa vụ và một số vấn đề khác với SGDCK và TTGDCK, những đơn vị có chức năng tổ chức thị trường GDCK .
Theo quy định hiện hành, các chứng khoán niêm yết phải được giao dịch qua TTGDCK Tp.HCM, nay là SGDCK Tp.HCM theo phương thức khớp lệnh hay thoả thuận. GDCK lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa nhà đầu tư với CtyCK thành viên của SGDCK Tp.HCM, các GDCK lô chẵn phải được thực hiện thông qua hệ thống giao dịch của SGDCK Tp.HCM. Giá hình thành trong phiên giao dịch được khống chế bởi giá trần và giá sàn và được xây dựng theo giá tham chiếu và biên độ giá. Đối với các giao dịch theo phương thức khớp lệnh, UBCKNN sẽ điều chỉnh biên độ biến động giá. Với các trường hợp khác thì không quy định biên độ biến động giá. Chứng khoán được ĐKGD tại TTGDCK HN sẽ được giao dịch theo phương thức báo giá hay theo phương thức thoả thuận. Giá cổ phiếu giao dịch tại đây cũng được UBCKNN quy định khống chế mức giá bằng giá trần hay giá sàn theo giá tham chiếu và biên độ biến động giá.
Công tác tổ chức, điều hành của cơ quan QLNN với hoạt động GDCK trên các TTGDCK, SGDCK đã góp phần cải thiện tình hình GDCK. Tại TTGDCK Tp.HCM ( SGDCK Tp.HCM), lúc đầu các giao dịch khớp lệnh và giao dịch thoả thuận được tiến hành cùng một thời gian từ 9h-11h, khớp lệnh vào lúc 11h các ngày 2,4,6 hàng tuần. Từ ngày 10/1/2001 đến trước ngày 1/3/2003, các giao dịch khớp lệnh được tổ chức thực hiện từ 9h-10h, khớp lệnh lúc 10h, sau đó tổ chức giao dịch thoả thuận từ 10h-11h. Qua những biến động của TTCK giai đoạn năm 2000-2002, UBCKNN đã triển khai các biện pháp tích cực kích thích các GDCK. Từ ngày 20/5/2003, số phiên giao dịch tăng từ 3 lên 5 phiên/tuần, từ thứ 2 đến thứ 6. Quy mô đơn vị giao dịch cổ phiếu và CCQĐT được giảm từ 100 cổ phiếu/ CCQĐT xuống còn 10 cổ phiếu/CCQĐT áp dụng từ phiên 541 ngày 2 0/5/2003. Tỷ lệ kí quỹ bắt buộc giảm từ 100% xuống còn 70%. Cho phép lệnh ATO (Automatic trading order) được thực hiện, đồng thời quy định cho phép thực hiện 2 đợt khớp lệnh trong một phiên giao dịch ( đợt 1 từ 9h-9h20, đợt 2 từ 10h-10h30). Biên độ biến động giá cũng được điều chỉnh linh hoạt hơn, từ 2% lên 5% như hiện nay. Tại TTGDCK HN, theo Quyết định 245/ QD-UBCK, TTGDCK HN được tổ chức các phiên giao dịch từ 9h-11h theo phương thức là giao dịch thoả thuận và giao dịch báo giá vào thứ 2 ,4,6 hàng tuần trừ ngày nghỉ và ngày lễ. Trung tâm chỉ áp dụng biên độ giá CPH đối với phương thức giao dịch báo giá. Trước những biến chuyển tích cực của TTCK Việt Nam trong khoảng 6 tháng đầu năm 2006, nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia của công chúng, theo Quyết định 323/ QĐ- UBCK thì từ 1/6/2006 trở đi, TTGDCK HN đã tăng phiên giao dịch từ 3 lên 5 phiên/tuần. Từ 4/6/2006 trở đi, TTGDCK HN cũng triển khai 3 đợt khớp lệnh trong mỗi phiên giao dịch. Từ ngày 30/7/2007, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức áp dụng phương thức khớp lệnh liên tục. Thời gian thực hiện theo phương thức mới đối với cổ phiếu, CCQĐT từ 8h30 đến 9h khớp lệnh định kì xác định giá mở cửa, từ 9h đến 10h khớp lệnh liên tục, từ 10h đến 10h30 khớp lệnh định kĩ xác định giá đóng cửa, từ 10h30 đến 11h giao dịch thoả thuận, 11h đóng cửa thị trường. Đối với trái phiếu, thời gian giao dịch từ 8h30 đến 11h với hình thức giao dịch thoả thuận. Đơn vị giao dịch khớp lệnh lô chẵn là 10 cổ phiếu, CCQĐT; khối lượng giao dịch thoả thuận là từ 20.000 cổ phiếu, CCQĐT trở lên. Các chính sách, biện pháp quản lý và điều hành đã có những tác động tích cực đến tình hình giao dịch trên TTCK trong thời gian qua.
Bảng 2: Quy mô giao dịch toàn thị trường qua các năm tại
TTGDCK TpHCM
Năm
2000
2001
2002
2004
2004
2005
2006
KLGD
3.662.790
19.721.930
37.008.649
53.155.990
248.072.240
353.070.622
1.120.781.696
Cổ phiếu
3.641.000
19.028.200
35.715.939
28.047.150
72.894.288
94.846.187
538.536.869
TPhiếu
29.720
693.730
1.292.710
25.081.840
171.679.232
232.110..285
477.500.447
CCQĐT
3.498.720
26.113.610
104.744.380
GTGD (triệu đồng)
92.357
1.034.721
1.080.891
2.988.321
19.887.150
26.877.959
86.289.274
Cổ phiếu
90.215
964.020
959.330
502.022
1.970.969
2.784.291
35.472.342
Tphiếu
2.143
70.702
121.561
2.496.299
17.883.282
23.837.589
48.654.249
CCQĐT
32.899
256.079
2.702.683
Nguồn: SGDCK Tp.HCM
Qua bảng trên có thể thấy, tình hình GDCK tại TTGDCK Tp.HCM phát triển khá nhanh, đặc biệt là trong hai năm 2005 và tăng mạnh vào năm 2006. TTGDCK HN tuy đi vào hoạt động sau TTGDCK Tp.HCM nhưng hoạt động cũng khá sôi động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác QLNN đối với hoạt động GDCK còn nhiều hạn chế. Công tác quản lý các GDCK của các SGDCK, TTGDCK còn khá thụ động. Các quyết định quản lý và điều hành GDCK cũng như các quyết định liên quan đến tăng giảm biên độ giá chứng khoán, thay đổi thời gian giao dịch,…đều phải trải qua các thủ tục tương đối phức tạp và tốn thời gian để được chính thức có hiệu lực. TTGDCK chưa có tính độc lập trong quản lý và chi phối thành viên giao dịch. Việc đưa ra các quyết định về thu phí giao dịch, lệ phí thành viên… do Bộ Tài chính quản lý. Với tư cách là các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBCKNN, SGDCK và TTGDCK chưa hoàn toàn chủ động và độc lập trong hoạt động điều hành và quản lý TTCK. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của các đơn vị này còn mang nặng tính thủ công, chưa có công nghệ tin học để giám sát các hoạt động trên một cách tự động, hiệu quả, do vậy khả năng giám sát và xử lý các vi phạm trong giao dịch chưa cao. Trình độ công nghệ và năng lực phục vụ hoạt động giao dịch của các SGDCK, TTGDCK còn khá hạn chế. Hiện nay, hình thức giao dịch có sàn với phương thức khớp lệnh định kỳ tại SGDCK Tp.HCM thì quá trình giao dịch phải trải qua nhiều công đoạn và mang nặng tính thủ công của các CtyCK và tại SGDCK như tiếp nhận lệnh, tập hợp, thực hiện lệnh, gửi lệnh vào sàn giao dịch, nhập lệnh tại sàn ở SGDCK, TTGDCK. Các công đoạn này vừa tốn thời gian, vừa làm giảm khả năng phục vụ khách hàng của các CtyCK. Các CtyCK phải mất một khâu trung gian là chuyển lệnh vào sàn cho các đại diện của họ tại sàn trước khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch của SGDCK, TTGDCK. Đây cũng là một công đoạn dễ xảy ra sai sót và tốn thời gian. Trong giai đoạn thị trường đang sôi động, tình trạng tắc nghẽn giao dịch đã xảy ra, trong nhiều phiên giao dịch, các đại diện giao dịch không thể nhập hết lệnh vào hệ thống giao dịch. Sự cố sập mạng đã sảy ra hai lần tại TTGDCK Tp.HCM đã gây không ít lo ngại cho nhà đầu tư.
3.4.QLNN đối với hoạt động CBTT: Ở nhiều nước trên thế giới, CBTT đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh. CBTT là một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo lòng tin và sự công bằng cho các nhà đầu tư, giúp họ ra quyết định đúng đắn trong việc mua bán chứng khoán. CBTT là nguyên tắc công khai, được coi là nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của TTCK.
Với sự ra đời của Nghị định 144, Thông tư 57/2004/TT-BTC và Quyết định 245/QĐ-UBCK ban hành năm 2005 thì các hồ sơ cho hoạt động CBTT trên TTCK Việt Nam đã được quy định đầy đủ, hoàn chỉnh. Đối tượng CBTT được mở rộng hơn bao gồm tất cả các TCPH, TCNY, ĐKGD, CtyCK, CtyQLQ, TTGDCK, SGDCK. Luật Chứng khoán được ban hành cùng với Thông tư 39/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 18/4/2007 về hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán và CBTT trên TTCK đã làm cho các quy định về hoạt động này được hoàn chỉnh thêm một bước theo hướng quy định cụ thể các trường hợp phải CBTT cho từng đối tượng CBTT.
Một trong những điểm mới của Luật Chứng khoán và Thông tư số 38 là việc đưa các công ty đại chúng vào đối tượng CBTT với cùng mặt bằng nghĩa vụ như đối với các TCNY. Với mục tiêu thu hẹp thị trường tự do, việc yêu cầu các công ty đại chúng CBTT sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp có cùng quy mô vốn và cơ cấu sở hữu cổ đông cho dù có niêm yết hay không niêm yết. Xét dưới góc độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, quy định này có tác dụng rất quan trọng trong việc minh bạch hoá thông tin của một bộ phận lớn thị trường tự do ( công ty đại chúng chưa niêm yết), giúp nhà đầu tư có thông tin trung thực về các doanh nghiệp hiện nay vẫn đang nằm ngoài phạm vi quản lý pháp luật về CK&TTCK. Nếu như trong Thông tư 57 trước đây chỉ quy định chung là việc CBTT được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm của các tổ chức, công ty và các phương tiện CBTT của TTGDCK hay SGDCK thì tại Thông tư 38 đã cụ thể hoá các phương tiện CBTT phù hợp với từng đối tượng, nhằm giúp cho việc CBTT được tiến hành một cách thuận lợi và kịp thời nhất. Ví dụ như, phương tiện CBTT của công ty đại chúng bao gồm các báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác của công ty đại chúng, các phương tiện CBTT của UBCKNN, phương tiện thông tin đại chúng; còn các phương tiện CBTT của SGDCK, TTGDCK gồm các bản tin TTCK, trang thông tin, điện tử của SGDCK, TTGDCK, bảng hiển thị điện tử của SGDCK, TTGDCK, các trạm đầu cuối tại SGDCK, TTGDCK, các phương tiện CBTT của UBCKNN và các phương tiện thông tin đại chúng. Lần đầu tiên, tại các quy định về chế độ CBTT có yêu cầu tất cả các đối tượng CBTT phải cập nhật thông tin trên các trang thông tin điện tử, các tài liệu báo cáo của các tổ chức này phải lưu giữ dưới dạng các văn bản và dữ liệu điện tử…Đây được coi là giải pháp hiệu quả để đưa thông tin đến được tới được tối đa nhà đầu tư một cách đồng bộ và kịp thời nhất, rút ngắn độ trễ trong quá trình công bố thông tin. Thời gian bảo quản và lưu trữ thông tin theo quy định mới này là 10 năm thay vì 2 năm như trong Thông tư 57…Những đổi mới này trong Thông tư 38 đã góp phần làm tăng hiệu quả QLNN, việc tuân thủ các quy định mới này sẽ góp phần tạo dựng một TTCK ngày càng minh bạch, công khai, công bằng.
Trong thực tế hoạt động quản lý, các cơ quan quản lý đã từng bước mở rộng việc CBTT liên quan đến những định hướng, chiến lược phát triển TTCK trong tương lai. Các quy trình, biểu mẫu CBTT đã được Bộ Tài chính, UBCKNN từng bước hoàn thiện theo hướng đảm bảo và cụ thể, tạo điều kiện cho các đối tượng CBTT triển khai thực hiện.
Công tác giám sát và xử lý các vi phạm về CBTT đã bước đầu được chú trọng. Trong giai đoạn đầu vận hành TTCK, các sai phạm CBTT của một số CtyNY xuất hiện tương đối phổ biến như CBTT sai lệch kết quả kinh doanh năm 2002 của công ty cổ phần bánh kẹo BIBICA, việc gian lận thuế giá trị gia tăng của Can
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT033.doc