PHẦN MỞ ĐẦU.1
1. Lý do chọn đề tài .1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .9
6. Đóng góp mới của luận văn.10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .11
8. Kết cấu luận văn .11
CHưƠNG 1
QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM Ở ĐỊA PHưƠNG – LÝ
LUẬN THỰC TIỄN.12
1.1. Một số khái niệm cơ bản.12
1.2. Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở địa phương.13
1.3. Bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở một
số quốc gia và địa phương .22
TIỂU KẾT CHưƠNG 1 .29
CHưƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT TỈNH ĐẮK LẮK.33
2.1. Khái quát về thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk .33
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố
Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk.35
2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố
Buôn Ma Thuột và những vấn đề đặt ra. .54
TIỂU KẾT CHưƠNG 2 .67
CHưƠNG 3
PHưƠNG HưỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT TỈNH
ĐẮK LẮK .69
3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk. .69
115 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố buôn ma thuột tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rõ nguồn gốc, đặc biệt là với hoa quả, nội tạng động vật. Nhiều
trường hợp không qua kiểm tra vẫn đóng dấu vệ sinh thú y, bán vé kiểm dịch
tại chợ...
Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 04 siêu thị, hệ thống siêu thị lớn
đã có sự đầu tư cho việc kiểm soát chất lượng ATTP đối với nguồn nguyên
liệu cung cấp cho siêu thị nên nhìn chung thực phẩm tại siêu thị đáp ứng yêu
cầu về ATTP.
- An toàn thực phẩm tại các bếp ăn tập thể của khu công nghiệp, cơ quan,
trường học, bệnh viện
Điều kiện ATTP tại các bếp ăn tập thể của cơ quan, trường học đã được
cải thiện đáng kể về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ, nguyên liệu chế
biến thực phẩm. Tuy nhiên, còn nhiều cơ sở chưa đạt và chưa được cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện ATTP nhưng vẫn hoạt động. Trách nhiệm của người
đứng đầu tại các khu công nghiệp đối với ATTP chưa cao. Từ năm 2010-2017
chưa xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào dẫn đến tử vong.
- An toàn thực phẩm tại các cơ sở dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố,
khu du lịch.
Tỷ lệ các cơ sở dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố được cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện ATTP vẫn còn thấp (chiếm 16,5%), điều kiện trang
thiết bị dụng cụ, cơ sở vật chất được đầu tư cơ bản. Có sự đầu tư về cơ sở vật
chất, trang thiết bị, dụng cụ chế biến nên cơ bản đáp ứng yêu cầu bảo đảm
ATTP. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc
hoặc không có trong danh mục được phép sử dụng để chế biến thức ăn, nguồn
38
gốc của thực phẩm không rõ ràng, 6 tháng đầu năm 2017 xảy ra 03 vụ ngộ
độc thực phẩm tại bữa ăn gia đình và thức ăn đường phố.
- An toàn thực phẩm tại các khách sạn, nhà hàng
Các khách sạn, nhà hàng đã có sự đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết
bị, dụng cụ chế biến nên cơ bản đáp ứng yêu cầu bảo đảm ATTP. Do vậy,
nhiều năm qua, ít có các vụ ngộ độc thực phẩm tại các cơ sở khách sạn, nhà
hàng. Tuy nhiên, việc chế biến, sử dụng thực phẩm tại một số khách sạn, nhà
hàng còn một số tồn tại như sử dụng nhiều loại phụ gia thực phẩm không rõ
nguồn gốc hoặc không có trong danh mục được phép sử dụng để chế biến
thức ăn
2.2.2. Thực trạng tổ chức quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk.
Bộ máy QLNN về ATTP đã được tổ chức, thực hiện theo quy định của
pháp luật. UBND tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo các Sở Y tế, Sở Công thương, Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện nhiệm vụ quản lý về ATTP.
Các chi cục dưới Sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý về ATTP bao gồm
Chi cục Quản lý thị trường, Chi cục ATTP, Chi cục Quản lý chất lượng nông
lâm thủy sản. Dưới chi cục là các đơn vị tham gia vào công tác chuyên môn.
Bộ máy QLNN về ATTP (trong ngành y tế) đã được củng cố kiện toàn
và đi vào hoạt động từ năm 2005, đến nay bộ máy đã dần hoàn thiện. Đã
thành lập được Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP, cấp huyện và cấp xã chỉ đạo
toàn bộ hoạt động đảm bảo ATTP trên địa bàn.
Mạng lưới quản lý về an toàn thực phẩm được thể hiện qua sơ đồ sau:
39
Sơ đồ 2.1. Mạng lƣới quản lý an toàn thực phẩm
Qua sơ đồ 2.1. cho thấy UBND các cấp chỉ đạo toàn bộ hoạt động
QLNN về ATTP trên địa bàn, tại tuyến tỉnh ngoài các sở ngành là đơn vị tham
mưu chính cho UBND cấp tỉnh thì các chi cục chịu trách nhiệm về chuyên
môn lĩnh vực ATTP. Đối với tuyến huyện, tham mưu chính cho UBND cấp
huyện về ATTP có phòng Y tế, phòng Kinh tế và trung tâm Y tế.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước về an toàn
thực phẩm
Đã có sự phối hợp giữa hoạt động chuyên môn và quản l ý trong công
tác ATTP tại thành phố. Ngoài ra có sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể,
tổ chức chính trị - xã hội như: Đài truyền thanh truyền hình, Công an, Đoàn
thanh niên, Hội nông dân, Uỷ ban mặt trận Tổ quốc, Giáo dục và đào tạo.
Khi xảy ra NĐTP, bệnh viện có trách nhiệm tổ chức cấp cứu, điều trị
kịp thời cho người bị NĐTP. Các ngành liên quan trong phạm vi chuyên môn
có trách nhiệm cung cấp hồ sơ thông tin, liên quan tới nguồn gốc thực phẩm
nghi ngờ gây NĐTP thuộc phạm vi quản lý; Phối hợp với ngành y tế điều tra
nguyên nhân và giám sát điều tra căn nguyên, tiến hành truy xuất nguồn gốc
UBND TỈNH
Sở Công thương Sở Y tế Sở Nông nghiệp
Chi cục QLTT Chi cục ATVSTP Chi cục QLCLNLSTS
Các đơn vị Các đơn vị Các đơn vị
UBND huyện
40
phối hợp cơ quan quản lý kiểm tra và xử lý cơ sở vi phạm ATTP gây ra NĐTP
và xử lý thực phẩm gây ngộ độc.
- Phối hợp trong thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm
UBND thành phố đã thành lập các đoàn liên ngành gồm y tế, kinh tế,
quản lý thị trường, công an, đài truyền thanh truyền hình, uỷ ban mặt trận tổ
quốc có trách nhiệm kiểm tra về ATTP trong suốt quá trình sản xuất, chế biến,
bảo quản, vận chuyển, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công
quản lý và theo phân cấp của các Bộ. Ngoài ra có sự phối hợp của Đoàn thanh
niên, Hội nông dân, ...
Phòng Y tế - cơ quan thường trực ban chỉ đạo liên ngành ATTP chủ trì,
phối hợp với các lực lượng liên quan khác tổ chức và phân công thực hiện
thanh tra, kiểm tra liên ngành.
UBND thành phố thành lập đoàn liên ngành kiểm tra đột xuất đối với
toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của
các ngành khác trong những trường hợp sau:
+ Theo chỉ đạo của UBND tỉnh hoặc trưởng ban chỉ đạo liên ngành về
ATTP tỉnh.
+ Phát hiện thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm có nguy cơ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng.
+ Theo đề nghị của cơ quan quản lý cấp trên.
41
Sơ đồ 2.2. Bộ máy quản lý về an toàn thực phẩm ngành Y tế Đắk Lắk
Qua sơ đồ 2.2. cho thấy bộ máy quản lý về an toàn thực phẩm của
ngành y tế, chi cục vệ sinh ATTP của tỉnh đã chỉ đạo xuyên suốt hoạt động
chuyên môn lĩnh vực ATTP thuộc ngành y tế quản lý thông qua đơn vị chuyên
môn là trung tâm y tế, phòng y tế.
- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm tại thành phố
Đội ngũ làm công tác QLNN và chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP bao
gồm tuyến thành phố và tuyến xã, phường.
Cấp huyện có phòng Y tế (số lượng cán bộ có 07 người trong đó 02
lãnh đạo, 02 chuyên viên phụ trách ATTP); khoa ATTP thuộc trung tâm Y tế
tuyến thành phố, số lượng cán bộ có từ 3 đến 4 người/khoa, tuy nhiên với số
lượng cán bộ như trên vẫn chưa đáp ứng được những chức năng, nhiệm vụ
được giao.
Tuyến xã ngoài trưởng trạm Y tế chịu trách nhiệm chính trong công tác
ATTP còn có 1 chuyên trách ATTP nhưng 100% cán bộ chuyên trách kiêm
nhiệm nhiều chương trình y tế khác. Tuy hàng năm được bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ về ATTP nhưng năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu trong
công tác đảm bảo ATTP tại địa phương.
Trong những năm qua, lực lượng cán bộ làm công tác quản lý ATTP (phạm
vi ngành y tế) của thành phố Buôn Ma Thuột không có sự thay đổi lớn. Riêng đối
BCĐ liên ngành về Phòng Y tế TTYT huyện
ATVSTP Tỉnh
Sở y tế Chi cục A VS P
BCĐ liên ngành về Phòng Y tế TTYT huyện
ATVSTP huyện
Phòng y tế Trung tâm y tế huyện
BCĐ liên ngành
về ATVSTP xã
UBND xã Trạm Y tế xã
42
với phòng Y tế thành phố Buôn Ma Thuột, đơn vị chuyên môn trực tiếp tham mưu
UBND thành phố quản lý về ATTP, số lượng cán bộ được quan tâm bổ sung.
Qua bảng 2.1. cho thấy số lượng cán bộ làm công tác quản lý về ATTP được
bố trí mỗi đơn vị từ 2-3 người, riêng phòng Y tế là cơ quan tham mưu trực tiếp cho
UBND thành phố về ATTP đã bố trí 02 chuyên viên và 02 lãnh đạo phòng trực tiếp
tham mưu công tác ATTP cho thành phố.
Trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác quản lý ATTP khá cao,
hiện tại đang đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên, một số
cán bộ còn thiếu kiến thức về quản lý ATTP và yếu về chuyên môn dẫn đến
gặp nhiều khó khăn trong triển khai nhiệm vụ. Trước những yêu cầu ngày
càng cao, việc nâng cao kiến thức quản lý và kiến thức chuyên môn ngày
càng trở nên quan trọng.
Qua bảng 2.2. cho thấy trình độ cán bộ làm công tác ATTP tuyến
huyện từ đại học trở lên và có chuyên ngành ATTP. Riêng đối với xã,
phường 50% cán bộ có trình độ trung cấp, ngoài được giao nhiệm vụ tham
mưu công tác ATTP thì số cán bộ này phải thực hiện kiêm nhiệm thêm nhiều
công việc khác, đây là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến chất
lượng QLNN về ATTP trên địa bàn.
2.2.3. Tình hình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện văn bản, chính
sách pháp luật về an toàn thực phẩm
- Tình hình xây dựng, ban hành các văn bản, chính sách về an toàn
thực phẩm
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan QLNN về
ATTP, nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ từ trung ương đến địa
phương để hoạt động về ATTP đạt kết quả đã đặt ra.
Đối với các văn bản quy phạm pháp luật về ATTP thành phố Buôn Ma Thuột
thực hiện thống nhất với các văn bản luật, dưới luật về ATTP chung cho cả nước.
43
Hiện tại thành phố Buôn Ma Thuột đang thực hiện theo văn bản có tính
pháp lý cao nhất trong lĩnh vực ATTP là Luật ATTP năm 2010, Chỉ thị số
13/CT-TTg, ngày 9/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách
nhiệm QLNN về ATTP. Trên cơ sở căn cứ các văn bản hướng dẫn thực hiện
trong lĩnh vực ATTP; các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh, sở Y tế, chi Cục
ATTP; UBND thành phố ban hành các Kế hoạch, Công văn, Quyết định, thành
lập Ban chỉ đạo ATTP thành phố và tổ chức triển khai thực hiện công tác
QLNN về ATTP.
UBND thành phố Buôn Ma Thuột đã cụ thể hóa mục tiêu và quy định
về quản lý ATTP trên địa bàn bằng văn bản các chính. Các chính sách này
được ban hành những năm gần đây nên đều có giá trị hiệu lực và đã góp
phần nâng cao kết quả, hiệu quả quản lý ATTP trên địa bàn thành phố.
Quyết định 101/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành
ngày 29 tháng 3 năm 2014 đã quy định, phân công trách nhiệm quản lý về
ATTP. Quy định rõ nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan như sở Y tế, sở
Công thương, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; UBND cấp huyện;
UBND cấp xã, phường trong thực hiện các nội dung quản lý về ATTP cũng
như sự phối hợp giữa các đơn vị trong quá trình thực hiện. Bên cạnh quyết
định này, ngày 11 tháng 12 năm 2014 sở Y tế Đắk Lắk đã ban hành Quyết
định số 618/QĐ-SYT về phân cấp quản lý ATTP thuộc lĩnh vực ngành y tế
quản lý trên địa bàn. Bao gồm các đối tượng như sở Y tế; chi Cục ATTP;
TTYT dự phòng tỉnh; Trung tâm kiểm nghiệm; phòng Y tế các huyện, thị xã,
thành phố; TTYT các huyện, thị xã, thành phố; trạm Y tế xã, phường, thị
trấn. Nội dung chính sách thể hiện chức năng, nhiệm cụ của từng đơn vị
đồng thời quy định việc phối hợp, hỗ trợ nhau trong công tác quản lý ATTP
tại địa phương.
Thông qua việc ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý ATTP trên
44
địa bàn cho thấy sự quan tâm về vấn đề quản lý ATTP và tính hiệu quả, khả
thi của chính sách. Bên cạnh việc đặt ra các mục tiêu cụ thể thực hiện chiến
lược quốc gia về ATTP đã đề xuất các giải pháp thực hiện rõ ràng, đặc biệt
các giải pháp căn cứ vào kết quả thực hiện giai đoạn trước đã giúp chính sách
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Ngoài ra, các quyết định, chỉ
thị được ban hành tiếp theo đều có xu hướng phân cấp rõ ràng hơn chức năng,
nhiệm vụ và sự phối hợp của các cơ quan trong quản lý về ATTP, tạo điều
kiện thực hiện dễ dàng hơn.
- Tình hình triển khai các chính sách về an toàn thực phẩm
Việc tổ chức thực hiện các chính sách quản lý về ATTP được thể hiện
thông qua kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra và sự phối hợp của
các cơ quan, ban ngành trong quá trình thực hiện.
Qua kết quả thực hiện mục tiêu quản lý về an toàn thực phẩm: nhìn
chung, các mục tiêu đề ra cơ bản đạt được. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu hiện
nay chưa đạt như phòng kiểm nghiệm của tuyến huyện, trạm Y tế xã thực hiện
test nhanh và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ATTP tại các cơ sở sản
xuất. Từ đó cho thấy hiệu quả công tác QLNN về ATTP còn hạn chế, chất
lượng thực phẩm chưa đảm bảo theo quy định đây là một trong những khó
khăn trong ngăn ngừa ngộ độc thực phẩm xảy ra trên địa bàn.
Bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu đề ra, UBND thành phố Buôn
Ma Thuột đã tích cực thực hiện các đề án, dự án của trung ương tại thành phố,
đồng thời xây dựng các đề án, dự án thuộc cấp thành phố nhằm nhanh chóng
đạt mục tiêu quản lý về ATTP.
Qua bảng 2.3. cho thấy dự án nâng cao năng thực thanh tra, kiểm tra
chuyên ngành về ATTP đã hoàn thành; dự án đào tạo nguồn nhân lực và xây
dựng mô hình điểm về quản lý ATTP đang triển khai thực hiện. Riêng dự án
nâng cao năng lực khoa ATTP và khoa xét nghiệm tại các trung tâm Y tế
45
huyện chưa thực hiện được, đây cũng là một trong những khó khăn trong
công tác QLNN về ATTP.
- Đánh giá các chính sách về an toàn thực phẩm
Vấn đề quản lý về ATTP còn mới, các chính sách được ban hành đã góp
phần định hướng cho công tác quản lý về ATTP, đồng thời góp phần phân
công rõ ràng nhiệm vụ, trách nhiệm, cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan,
ban, ngành trong thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, các chính sách về ATTP còn
tồn tại và những hạn chế.
Các chính sách quản lý về ATTP đã đề ra được mục tiêu, kế hoạch thực
hiện quản lý về ATTP và thể hiện sự phân công nhiệm vụ của từng ngành, cấp
thực hiện. Tuy trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chưa gắn liền với điều kiện cơ
sở vật chất và nguồn lực con người để thực thi, trong thực tế lực lượng cán bộ
mỏng và thiếu máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác kiểm tra, xét nghiệm là
những cản trở cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, sự chồng chéo trong
chính sách và công tác tổ chức thực hiện dẫn đến việc quản lý về ATTP còn
chưa hoàn thiện.
Từ bảng 2.4. cho thấy từ khi luật ATTP có hiệu lực từ ngày 01/7/2011,
nhưng đến năm 2014 mới có sự phân cấp quản lý về ATTP cho tuyến huyện,
như vậy trong một thời gian dài hoạt động QLNN về ATTP mang tính cầm
chừng, không phát huy hiệu quả quản lý.
2.2.4. Thực trạng cơ sở vật chất, nguồn vốn phục vụ quản lý an toàn
thực phẩm
- Thực trạng trang bị cơ sở vật chất và trang thiết bị
+ Về cơ sở vật chất trang thiết bị cho đội ngũ cán bộ làm công tác
ATTP cơ bản đáp ứng được yêu cầu của công việc.
+ Các trang thiết bị phục vụ công tác QLNN về ATTP hiện nay bao gồm máy
ảnh, máy quay phim, bộ kit/test. Chủng loại các trang thiết bị còn đơn điệu, chưa đa
46
dạng và chưa đáp ứng được nhu cầu công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ATTP.
Tại trung tâm Y tế tuyến huyện mới chỉ được trang bị bộ kit/test nhanh phục vụ
kiểm tra nhanh nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, do đó trong trường hợp cần lưu lại
hình ảnh, chứng cứ...đều chưa thực hiện được.
Qua bảng 2.5. cho thấy, trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm chưa đầy đủ, đồng thời chưa xây dựng được
mạng lưới thông tin quản lý là những yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ cũng như
chất lượng công tác quản lý ATTP.
- Thực trạng nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động nói
chung và đối với hoạt động QLNN về ATTP nói riêng, nhằm mục đích duy trì
bộ máy quản lý hành chính, đầu tư vào các cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ công tác quản lý, tổ chức triển khai các hoạt động...
Kinh phí đầu tư cho các hoạt động quản lý về ATTP có tăng qua mỗi
năm song không được nhiều. Trong đó, tăng chủ yếu là nguồn vốn đầu tư cho
bộ máy quản lý hành chính, nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia
về ATTP có xu hướng giảm xuống. Không có nguồn vốn hỗ trợ các hoạt động
quản lý đồng thời nguồn vốn đầu tư từ các chương trình mục tiêu quốc gia
giảm đã gây ảnh hưởng đến việc triển khai đề án, dự án ATTP và các hoạt
động quản lý về ATTP.
Qua bảng 2.6. nguồn lực tài chính cho quản lý ATTP chưa được đầu tư
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, chỉ hơn 33% kinh phí đầu tư cho hoạt động
chuyên môn về ATTP. Đây là một hạn chế ảnh hưởng lớn đến kế hoạch và
chất lượng công tác quản lý về ATTP trên địa bàn.
47
2.2.5. Thực trạng đào tạo, tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức
và cấp chứng nhận an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Buôn Ma
Thuột.
- Hoạt động đào tạo, tập huấn
Hoạt động đào tạo, tập huấn được tổ chức hàng năm chủ yếu hướng tới
hai đối tượng, cán bộ làm công tác QLNN về ATTP và người làm việc tại cơ
sở thực phẩm trên địa bàn.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác ATTP tại xã phường còn thiếu và
yếu nên việc nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao hiểu biết về kỹ năng
quản lý, giám sát ATTP rất cần thiết.
Kết quả nghiên cứu tại thành phố Buôn Ma Thuột từ năm 2015-2017cho
thấy hoạt động tập huấn được tổ chức thường xuyên, liên tục, chủ yếu là các
lớp tập huấn kiến thức cho các đối tượng làm việc tại các cơ sở thực phẩm
nhằm trang bị kiến thức cho người kinh doanh thực phẩm theo quy định của
Nhà nước.
Các lớp tập huấn nâng cao trình độ hiểu biết chuyên môn, và kỹ năng
quản lý, giám sát ATTP là rất cần thiết và quan trọng; hàng năm cơ quan quản
lý đều mở các lớp tập huấn cho nhóm đối tượng này tuy nhiên kết quả đầu ra
chưa như mong đợi, nghiệp vụ kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính chưa đạt
yêu cầu.
Qua bảng 2.7. cho thấy công tác tập huấn cho cán bộ làm công tác
ATTP tại xã, phường và người trực tiếp kinh doanh thực phẩm được chú
trọng và duy trì đều đặn qua các năm.
- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về an toàn thực phẩm
Bên cạnh việc tổ chức hoạt động giáo dục truyền thông vào các dịp cao
điểm như tết Nguyên đán, Tháng hành động vì chất lượng ATTP, tết Trung thu,
thì hình thức tổ chức phát thanh truyền hình theo chuyên đề và hệ thống phát
48
thanh xã được tổ chức thường kỳ, đều đặn. Hàng năm, tổ chức phát tờ rơi, tờ
gấp quy định về điều kiện ATTP cho các nhóm đối tượng là cơ sở sản xuất,
chế biến và người tiêu dùng. Hiện nay, hình thức tuyên truyền thông qua phát
thanh và sử dụng cac tờ rơi, tờ gấp đang được sử dụng thường xuyên do nhiều
người có khả năng tiếp cận đồng thời chi phí thấp hơn.
Hàng năm vào dịp Tháng hành động vì chất lượng ATTP, từ tuyến
huyện đến xã, phường đồng loạt diễn ra hoạt động truyền thông về ATTP.
Đây là đợt cao điểm, là điểm nhấn trong năm nhằm tuyên truyền sâu, rộng
các kiến thức, quy định về ATTP đến mọi đối tượng.
Qua bảng 2.8. cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về
ATTP qua các năm chỉ mới chú trọng đến tuyên truyền qua phát thanh, áp
phích, pa nô, tờ gấp; trong khi đó với hình thức nói chuyện chuyên đề về
ATTP và truyền hình thì sử dụng rất ít, mà đây là một trong những hình thức
tuyên tuyền hiệu quả nhất với số lượng người theo dõi đông nhất. Đây cũng
là một trong những hạn chế của công tác QLNN về ATTP trên địa bàn.
- Thực trạng cấp chứng nhận về an toàn thực phẩm
Trong những năm gần đây, công tác cấp chứng nhận về ATTP trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuột được triển khai thực hiện một cách thuận lợi
do văn bản bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ, cán bộ làm công tác quản lý có
chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ giao, có sự hỗ trợ của các phần mềm cập
nhật và quản lý các sản phẩm có tính chính xác cao góp phần giảm bớt nhân
lực, không tốn thời gian và giải quyết các hồ sơ đúng thời hạn.
Kết quả cấp giấy chứng nhận về ATTP cho thấy số lượng cơ sở được
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP tăng nhanh qua các năm.
Tuy nhiên, công tác cấp giấy chứng nhận còn gặp những khó khăn như:
các cơ sở thường xuyên thay đổi địa điểm sản xuất, chế biến, kinh doanh; thay
đổi người quản lý, nghỉ kinh doanh; các bếp ăn tập thể thay đổi nhà cung cấp
49
thường xuyên nên số liệu cập nhập thường chỉ mang tính tương đối và khó khăn
trong công tác quản lý các cơ sở; khó khăn trong phối hợp với các đơn vị chức
năng khác trong quản lý.
Qua bảng 2.9. cho thấy số cơ sở được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ
điều kiện ATTP đến nay đã đạt 65,71%, như vậy còn gần 35% cơ sở chưa
được cấp giấy, đây là một trong những khó khăn trong công tác quản lý về
ATTP.
2.2.6. Thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
trong phạm vi ngành y tế thành phố Buôn Ma Thuột.
- Thực trạng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra gắn liền với hoạt động QLNN, luôn thể
hiện quyền lực của nhà nước và là một chức năng của QLNN, thanh tra, kiểm
tra như một tác động tích cực nhằm điều chỉnh các hành vi vi phạm, để thực
hiện đúng các quy định của luật pháp.
+ Đối với lĩnh vực ATTP thanh tra, kiểm tra là để đánh giá thực trạng
việc bảo đảm ATTP của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn
uống và thức ăn đường phố; đánh giá thực trạng về chất lượng ATTP của một
số nhóm mặt hàng thực phẩm lưu thông trên thị trường nhằm phát hiện và
cảnh bảo các mối nguy ảnh hưởng đến ATTP. Thông qua việc thanh tra, kiểm
tra tại các cơ sở thực phẩm và xem xét các hồ sơ liên quan từ đó tiến hành
đánh giá công tác quản lý của các cơ quan QLNN về ATTP các cấp trong việc
quản lý và cấp các giấy tờ liên quan đến ATTP.
+ Từ năm 2015 đến 2017, ban chỉ đạo liên ngành các cấp đã được kiện
toàn chỉ đạo các hoạt động đảm bảo ATTP trên địa bàn và hoạt động thanh
tra, kiểm tra liên ngành về ATTP các cấp cũng được đẩy mạnh. Công tác kiểm
tra được duy trì qua các năm, số đợt kiểm tra liên ngành tương ứng với số
đoàn kiểm tra liên ngành mỗi năm đều duy trì từ 5-7 đoàn kiểm tra, cho thấy
50
sự phối hợp, hỗ trợ giữa các cơ quan, ban ngành có hiệu quả. Đối với cấp xã,
phường duy trì tổ chức các đoàn kiểm tra. Qua đó cho thấy sự quan tâm của
Chính quyền, các cơ quan chuyên môn tới vấn đề ATTP ngày càng cao.
+ Thông thường, mỗi năm tiến hành 3 đợt thanh tra, kiểm tra lớn vào
các thời điểm tết Nguyên đán, Tháng hành động vì chất lượng ATTP, dịp tết
Trung thu và các đợt kiểm tra đột xuất. Các hoạt động thanh, kiểm tra trong
Tháng hành động hàng năm được xây dựng dựa vào tính chất mang tính thời
sự, nổi cộm quan tâm của người dân về ATTP như năm 2015 tình trạng ngộ
độc tăng cao của bếp ăn tập thể ban chỉ đạo Trung ương đã ban hành chủ đề
bếp ăn tập thể hoặc năm 2016 với chủ đề rau sạch, năm 2017 chủ đề sử dụng
rau, thịt an toàn và an toàn trong sử dụng rượu.
Qua bảng 2.10. cho thấy, duy trì đều đặn mỗi năm UBND xã, phường tổ
chức 03 đợt kiểm tra liên ngành và mỗi đợt tổ chức 01 đoàn liên ngành để kiểm
tra tại cơ sở thực phẩm theo phân cấp quản lý. Tại thành phố, số đợt kiểm tra
trong một năm từ 5-6 đợt và mỗi đợt tổ chức từ 1- 2 đoàn liên ngành tổ chức
kiểm tra tại cơ sở thực phẩm theo phân cấp quản lý.
+ Kết quả hoạt động thanh, kiểm tra cho thấy số lượt cơ sở được thanh
tra, kiểm tra hàng năm tăng.
Qua bảng 2.11. cho thấy, việc kiểm tra mới tập trung nhiều ở loại hình
cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống và trên 50% cơ sở vi phạm các điều kiện về
ATTP. Điều đó cho thấy sự phân cấp rõ, sớm cho cơ quan quản lý đặc biệt lĩnh
vực ATTP do ngành Y tế quản lý đã tạo thuận lợi cho công tác QLNN về
ATTP lĩnh vực Y tế triển khai có hiệu quả.
+ Bên cạnh việc tăng cường các đợt thanh tra, kiểm tra thì chất lượng
các cuộc thanh, kiểm tra cũng được coi trọng, sự phối hợp tốt giữa các cơ quan
chức năng, cơ quan chuyên môn và năng lực chuyên môn tốt hơn đã phát hiện
nhiều sai phạm về ATTP trên địa bàn. Tỷ lệ cơ sở sai phạm tăng cao. Thực
51
trạng này cũng phản ánh hiệu quả công tác tuyên truyền về ATTP chưa cao, ý
thức của các cơ sở về tuân thủ các quy định ATTP còn thấp.
Qua bảng 2.12. cho thấy, tình hình xử lý vi phạm còn nhiều hạn chế. Trên
90% cơ sở vi phạm chỉ nhắc nhở không xử lý vi phạm. Việc xử lý vi phạm mới
tập trung ở tuyến thành phố. Đây là một trong những hạn chế của công tác
QLNN về ATTP. Việc phát hiện cơ sở vi phạm mà không xử lý nghiêm minh
dẫn đến hệ lụy kéo theo số cơ sở vi phạm năm sau nhiều hơn năm trước, tình
trạng vi phạm kéo dài, khó thay đổi, đồng thời cũng chỉ ra rằng thiếu phương
pháp và chế tài trong xử lý các cơ sở vi phạm.
+ Theo đánh giá tại phòng Y tế, trong những năm vừa qua các loại vi
phạm chủ yếu thường gặp phải như vi phạm về nhãn chiếm 28%; 30% số cơ
sở có điều kiện về người lao động không đảm bảo (khám sức khỏe định kỳ
1lần/năm, xác nhận kiến thức ATTP cho chủ cơ sở và người trực tiếp kinh
doanh, chế biến thực phẩm, ...); hơn 40% cơ sở không đảm bảo về điều kiện
trang thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm; các vi phạm khác ... những loại vi
phạm này thường xảy ra đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thủ công, nhỏ
lẻ, thức ăn đường phố...
Qua đánh giá kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên địa bàn
thành phố trong giai đoạn 2015-2017 cho thấy sự đầu tư nâng cao năng lực
trong công tác thanh tra, kiểm tra của các đơn vị, đi đôi với việc tăng
cường thanh tra, kiểm tra thì phát hiện vi phạm về ATTP cũng tăng lên.
Qua bảng 2.13 cho thấy, nội dung vi phạm điều kiện về con người là
cao nhất, để thực hiện tốt công tác QLNN về ATTP thời gian tới cần tăng
cường công tác đào tạo, tập huấn các kiến thức về ATTP giúp cho người kinh
doanh thực phẩm có đầy đủ kiến thức về ATTP để ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_an_toan_thuc_pham_tren_dia_ban.pdf