PHẦN MỞ ĐẦU.1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ CÔNG TÁC
DÂN TỘC .9
1.1. Một số khái niệm.9
1.1.1. Dân tộc .9
1.1.2. Vấn đề dân tộc.11
1.1.3. Quản lý nhà nước .11
1.1.4. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc .12
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác dân tộc .13
1.3. Chủ thể và đặc điểm quản lý nhà nước về công tác dân tộc .16
1.3.1. Chủ thể quản lý nhà nước về công tác dân tộc .16
1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về công tác dân tộc .22
1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về công tác dân tộc.25
1.5. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở một số địa phương trong nước và trên
thế giới và bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Quảng Bình.29
1.5.1. Kinh nghiệm QLNN về công tác dân tộc của các tỉnh.29
1.5.2. Kinh nghiệm Quản lý nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới.30
1.5.3. Một số bài học kinh nghiệm cho việc thực hiện QLNN về công tác dân tộc ở
Quảng Bình .33
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NưỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN
TỘC TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH .38
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội .38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.38
2.1.2. Về kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.39
2.2. Hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân tộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình43
2.2.1. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống ch nh trị cơ sở v ng d n tộc thiểu
số .43
112 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về công tác dân tộc - Từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hóa” tạo được
những chuyển biến t ch cực trong đồng bào các DTTS. Đến nay, có hơn 2.200
hộ được công nhận gia đình văn hóa, 22 bản được công nhận bản văn hóa cấp
huyện [48, tr.4]. An ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chủ
quyền an ninh biên giới được bảo vệ vững chắc. Đồng bào các dân tộc luôn
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. hệ thống chính trị ở vùng dân tộc
thiểu số luôn được cũng cố.
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của tỉnh, vùng dân tộc thiểu số, miền
núi còn nhiều khó khăn, hiện còn 42 xã và 22 thôn bản thuộc diện đặc biệt khó
khăn; kinh tế chậm phát triển; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch
chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã được đầu tư nhưng còn thiếu và yếu;
tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vùng DTTS và miền núi còn cao (ở các xã đặc biệt
khó khăn trên 50%, v ng d n tộc thiểu số trên 69%); kết quả giảm nghèo thiếu
tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao và luôn tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo; chất
lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi thấp; hệ thống chính
trị cơ sở ở một số nơi còn yếu, đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ còn hạn
chế, nhất là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
43
2.2. Hoạt động quản lý nhà nƣớc về công tác dân tộc từ thực tiễn tỉnh
Quảng Bình
2.2.1. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống ch nh tr c sở vùng dân
tộc thiểu số
Công tác củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở vùng
DTTS đã được cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức đoàn thể,
địa phương quan tâm, nhất là đối với các thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn, v ng biên giới. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và phát triển
đảng viên được quan t m. Đến nay đã xóa được điểm trắng về tổ chức đảng
và đảng viên. Từ năm 2014 đến nay đã kết nạp thêm 382 đảng viên, đưa tổng
số đảng viên người dân tộc thiểu số lên 1.028 người (tăng gần 59%). Đến cuối
năm 2018, không còn bản trắng về chi bộ.
Sau đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, có 87 đảng viên là
người dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy cơ sở và 02 đảng viên tham gia cấp
ủy cấp trên cơ sở; có 551 đảng viên người dân tộc thiểu số là lãnh đạo, công
chức Đảng, Đoàn thể cấp xã trong đó: B thư Đảng ủy xã: 5 đồng chí, Phó Bí
thư Đảng ủy xã: 25 đồng chí; Ủy viên BCH đảng ủy xã 82 đồng ch ; Trưởng
các Đoàn thể cấp xã: 36 đồng ch ; Phó các đoàn thể cấp xã: 36 đồng chí; Ủy
viên BCH các đoàn thể: 367 đồng chí.
Hiện nay, có 01 đại biểu Quốc hội là nữ giáo viên THPT, Thạc sỹ,
người Dân tộc Chứt. 166 đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, 01 vị Ủy viên
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 06 vị Ủy viên Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và trên 1.000 ủy viên Ủy ban Mặt trận cấp
huyện, cấp xã và ban công tác Mặt trận ở khu d n cư; có 10 cán bộ công tác
tại cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội
và cơ quan nhà nước cấp huyện và 119 cán bộ, công chức cấp xã là người
dân tộc thiểu số.
44
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được
quan tâm. Phần lớn cán bộ giữ các chức danh chủ chốt ở cấp uỷ đảng, chính
quyền, các đoàn thể được cử đi đào tạo, bồi dưỡng thêm về chuyên môn
nghiệp vụ và lý luận chính trị. Qua đó, năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ là
người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị từng bước được n ng lên. Đến
nay, 100% cán bộ người DTTS công tác tại các cơ quan cấp huyện có trình độ
chuyên môn từ cao đẳng trở lên, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
50% cán bộ công chức cấp xã có trình độ THPT; về trình độ chuyên môn, trên
14% có trình độ đại học, 20% có trình độ trung cấp; về lý luận chính trị, 6,1%
có trình độ cử nhân, cao cấp, 10,2% trình độ trung cấp.
Hoạt động của hệ thống chính trị ở vùng dân tộc thiểu số ngày càng được
nâng lên, làm nòng cốt trong công tác dân tộc, góp phần quan trọng trong
công tác vận động nhân dân ở đồng bào ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi,
tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện các chủ trương, ch nh sách liên
quan đến công tác dân tộc.
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
ở, nhất là vai trò của chi đoàn, ban công tác Mặt trận, chi hội ở một số vùng
dân tộc thiểu số còn bất cập. Một bộ phận cán bộ v ng đồng bào dân tộc thiểu
số và người dân tộc thiểu số trình độ, năng lực và khả năng vận động nhân
dân vẫn còn yếu, hiệu quả còn hạn chế.
2.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy c quan làm công tác dân tộc thuộc UBND
các cấp trên đ a bàn tỉnh Quảng Bình
- Cơ quan công tác dân tộc thuộc UBND cấp tỉnh
Ngày 08/3/1993, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ban hành Quyết định
số 168/QĐ-UB về việc thành lập Ban Dân tộc và miền núi. Với chức năng
tham mưu cho UBND tỉnh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân
tộc và miền núi trên địa bàn tỉnh. Sự ra đời của Ban Dân tộc và Miền núi đánh
45
dấu một bước mới trên chặng đường phấn đấu và trưởng thành của tổ chức
làm công tác dân tộc ở Quảng Bình. Từ ngày đầu thành lập, Ban Dân tộc và
Miền núi chỉ có 7 cán bộ, công chức được điều chuyển từ các cơ quan đơn vị
khác đến; cuối năm 2001, Ban D n tộc và Miền núi được UBND tỉnh bổ sung
thêm nhiệm vụ QLNN về công tác tôn giáo. Tổ chức làm công tác dân tộc
Quảng Bình có tên mới là Ban Dân tộc - Miền núi và tôn giáo.
Tháng 10/2004, thực hiện Nghị định số 53/2004/NĐ-CP của Chính phủ
về việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc của UBND các cấp,
Ban Dân tộc - Miền núi và Tôn giáo được kiện toàn (Tại Quyết định số
75/2004/QĐ-UB ngày 27/10/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiện toàn
Ban Dân tộc - Miền núi và Tôn giáo thành Ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình).
Ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình là cơ quan chuyên môn ngang Sở thuộc
UBND tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng
QLNN về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh [39]; là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh được thành lập khi đảm bảo các quy định tại khoản 2, Điều
9 Nghị định số 24/2014/NĐ – CP ngày 14/4/2014 của Chính phủ quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương [11].
Theo quy của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, cơ quan
chuyên môn thuộc chính quyền địa phương: “được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp
huyện là cơ quan tham mưu, giúp UBND quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực
ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy
quyền của cơ quan nhà nước cấp trên” (khoản 1, điều 9, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015); “chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức, biên chế và
công tác của UBND đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ
quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực cấp trên” (khoản 2, Điều 9, Luật Tổ
chức Chính quyền địa phương).
46
Như vậy, xét trên phương diện quản lý, Ban Dân tộc được tổ chức và
chịu tác động theo nguyên tắc hai chiều (chiều dọc và chiều ngang). Tuy
nhiên, ở đ y, trực thuộc chiều ngang là cơ bản.
Xét theo chiều ngang, Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp UBND
tỉnh thực hiện chức năng QLNN về công tác dân tộc, đồng thời thực hiện một
số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND tỉnh và theo quy định
của pháp luật. Ban Dân tộc chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND tỉnh.
Xét theo chiều dọc, Ban Dân tộc chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp Trung ương là
Ủy ban Dân tộc.
Mối quan hệ hai chiều trực thuộc như đã nêu ở trên thể hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong bộ máy hành ch nh nhà nước của nước CHXHCN
Việt Nam, nhằm kết hợp tốt giữa quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ một
cách hài hòa và hiệu quả.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình hiện nay gồm
có Lãnh đạo Ban và ba (03) đơn vị thuộc Ban.
- Lãnh đạo Ban gồm Trưởng ban và các Phó Trưởng ban. Trưởng ban là
người đứng đầu cơ quan, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành mọi hoạt động
của cơ quan và chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, trước
Ủy ban Dân tộc và trước pháp luật về mọi hoạt động của Ban Dân tộc tỉnh.
- Các đơn vị thuộc Ban Dân tộc gồm có: Phòng Kế hoạch, tổng hợp,
chính sách và Thanh tra; Phòng Tuyên truyền và Địa bàn; Văn phòng Ban.
+ Phòng Kế hoạch, tổng hợp, chính sách và Thanh tra có chức năng tham
mưu giúp Lãnh đạo Ban thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực quy hoạch,
kế hoạch thực hiện các chương trình, dự án, đề án đầu tư cho v ng d n tộc
thiểu số; tổ chức thực hiện và tổng hợp đánh giá kết quả thực hiện các chương
47
trình, chính sách ở v ng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; thanh tra, giải
quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực công tác
dân tộc trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
+ Phòng Tuyên truyền và Địa bàn: Là đơn vị thuộc Ban Dân tộc tỉnh, có
chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện việc quản lý nhà nước về
tuyên truyền trong lĩnh vực công tác dân tộc; quản lý, theo dõi địa bàn vùng
dân tộc, miền núi theo quy định của pháp luật.
+ Văn phòng Ban: Là đơn vị thuộc Ban Dân tộc tỉnh có chức năng tham
mưu cho Trưởng ban Dân tộc theo dõi đôn đốc các phòng, bộ phận thuộc Ban
thực hiện chương trình, kế hoạch, công tác của Ban Dân tộc; tổ chức thực
hiện công tác tổ chức cán bộ; công nghệ thông tin; thi đua, khen thưởng, kỷ
luật; hành chính - kế toán; văn thư, lưu trữ; hệ thống quản lý chất lượng ISO
theo tiêu chuẩn TCVN 9001:2008.
Biên chế hành chính của Ban Dân tộc do UBND tỉnh biên chế trong tổng
biên chế hành chính của tỉnh được Trung ương giao. Hiện nay, tổng biên chế
của Ban Dân tộc được UBND tỉnh giao là 19 biên chế. Biên chế hiện có là 17
biên chế. Trong đó bao gồm:
Lãnh đạo ban: 04 biên chế (01 Trưởng ban, 03 Phó Trưởng ban); Phòng
Kế hoạch, tổng hợp, chính sách và Thanh tra: 03 biên chế (01 Trưởng phòng,
01 Phó Trưởng phòng, 01 chuyên viên, hiện đang thiếu 1 biên chế); Phòng
Tuyên truyền và Địa bàn: 03 biên chế (01 trưởng phòng, 01 phó trưởng phòng
và 01 chuyên viên); Văn phòng Ban: 07 biên chế (01 Chánh Văn phòng, 01
Phó chánh Văn phòng, 01 Kế toán, 01 Văn thư và 03 Hợp đồng 68).
Trong những năm qua, mặc dù mô hình tổ chức ngành công tác dân tộc còn
nhiều xáo trộn và biến động, chưa thống nhất từ Trung ương đến địa phương
nhưng được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh,
từ ngày thành lập đến nay cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc ở Quảng
48
Bình từng bước ổn định và phát triển, khẳng định được vai trò, vị trí của mình
trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh.
- Cơ quan công tác dân tộc thuộc UBND cấp huyện
Thực hiện Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18/2/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc Ủy ban
nhân dân các cấp, trong đó quy định rõ việc thành lập Phòng Dân tộc thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện khi có một trong hai tiêu chí (có ít nhất 5.000 người
dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển; có
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc
phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số
nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại). Theo đó, tỉnh Quảng Bình
có 5 huyện thành lập Phòng Dân tộc cấp huyện (các huyện thành lập Phòng
Dân tộc: Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Minh Hóa; huyện Tuyên Hóa thành
lập phòng Dân tộc - Tôn giáo). Biên chế của các Phòng Dân tộc từ 3 – 4 người.
Ngày 04/02/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; theo đó Phòng d n tộc các huyện được sát nhập vào Văn phòng
HĐND - UBND huyện hoặc đơn vị chức năng khác của huyện.
Sau hai năm thực hiện việc sáp nhập Phòng Dân tộc thuộc UBND cấp
huyện vào Văn phòng HĐND-UBND huyện, việc thưc hiện công tác dân tộc
trên địa bàn các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn, đòi
hỏi phải tái lập cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở cấp huyện
như trước đ y.
Xuất phát từ tình hình và yêu cầu thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 12/2010 ngày 26/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
14/2008/NĐ-CP. Theo đó, tại khoản 3 điều 1 quy định: “Bổ sung khoản 4 vào
điều 8 của Nghị định 14 như sau: Phòng Dân tộc: Tham mưu, giúp Ủy ban nhân
49
dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc”. Việc
thành lập Phòng Dân tộc do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định căn cứ tiêu ch quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Nghị
định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2004 của Chính phủ về kiện toàn
tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc Ủy ban nhân dân các cấp”.
Thực hiện Nghị định số 12/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị
quyết số 144/2010/NQ-HĐND ngày 09/7/2010 thành lập Phòng Dân tộc thuộc
Ủy ban nhân dân huyện. Theo đó, các huyện Minh Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh
và Lệ Thủy đủ tiêu chí thành lập Phòng Dân tộc, riêng huyện Tuyên Hóa công
tác dân tộc vẫn tiếp tục giao cho Văn phòng HĐND – UBND huyện thực hiện.
Có thể nói rằng, việc thiếu ổn định trong cơ cấu tổ chức làm công tác dân tộc ở
cấp huyện trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua có ảnh hưởng nhất định đến
việc thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh.
2.2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số và cán bộ làm công tác dân tộc ở cấp tỉnh, cấp huyện.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Thực hiện Quyết định số 402/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dân tộc thiểu số,
tỉnh Quảng Bình đã quan t m công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội
ngũ cán, công chức, viên chức người DTTS trên địa bàn. Đội ngũ cán bộ,
công chức người DTTS tăng lên về số lượng và chất lượng. Đến nay, đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số có 491 người, trong đó:
128 cán bộ, công chức (chiếm tỷ lệ 7,41% số cán bộ công chức toàn tỉnh), 363
viên chức (chiếm 1,67% số viên chức toàn tỉnh). Về trình độ chuyên môn:
Thạc sĩ: 03 người; Đại học: 157 người; Cao đẳng: 120 người; Trung cấp: 203
người và 08 người có trình độ sơ cấp. Về lý luận chính trị: có 02 người có
trình độ cao cấp lý luận chính trị, 158 người có trình độ trung cấp.
50
Có 119 cán bộ công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số, trong đó có
hơn 36% có trình độ học vấn trung học cơ sở, 55% có trình độ học vấn trung
học phổ thông; về chuyên môn có 23% có trình độ chuyên môn trung cấp;
hơn 18% có trình độ đại học; về lý luận chính trị hơn 7,3% có trình độ cử
nhân, cao cấp; 15% trung cấp. Tuy nhiên, số lượng công chức là người dân
tộc thiểu số công tác ở cấp tỉnh, cấp huyện còn thấp, đến nay, chỉ có 01 công
chức người DTTS công tác ở cấp huyện, đối với cơ quan, đơn vị cấp tỉnh hiện
nay chưa có cán bộ người DTTS làm việc.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức DTTS được
quan tâm. Phần lớn cán bộ giữ các chức danh chủ chốt ở cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể, ở các xã được cử đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị. Nhờ đó, năng lực quản lý, điều hành và thực thi
công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức DTTS được nâng lên, từng bước đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tỉnh hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, sử dụng
cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số còn những hạn chế nhất
định. Phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức DTTS công tác trong các
cơ quan hội, đoàn thể, Ủy ban mặt trận các xã, Hội đồng nhân dân và một số
ngành lĩnh vực như giáo dục mầm non, khuyến nông, khuyến lâm ở cấp cơ
sở, chủ yếu công tác ở cơ sở, đối với các cơ quan, đơn vị ở cấp huyện, cấp
tỉnh còn thấp, đặc biệt là ở cơ quan cấp tỉnh chưa có cán bộ người DTTS. Sự
thiếu hụt về số lượng cán bộ DTTS đã tác động không nhỏ hoạt động lãnh đạo
của hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
kinh tế - xã hội v ng DTTS, v ng ĐBKK.
Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS không đồng đều,
năng lực lãnh đạo, điều hành còn nhiều bất cập, nhất là việc cụ thể hóa các chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện ở địa
phương; năng lực vận động, tuyên truyền nhân dân còn nhiều bất cập, chưa đủ
51
sức vận động thuyết phục nhân dân chuyển đổi tư duy sản xuất canh tác cũ,
chưa mạnh dạn áp dụng khoa học - kỹ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt...; một
số cán bộ công chức người DTTS chưa mạnh dạn đổi mới cách nghĩ, cách
làm, còn trông chờ cấp trên; hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, khả
năng vận dụng kiến thức được đào tạo vào thực tế chưa cao. Để khắc phục
những hạn chế trong công tác cán bộ người DTTS, tỉnh Quảng Bình cần phải
ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh theo quy định tại Quyết định 402/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ; chú trọng công tác tuyển dụng, sử dụng và
quản lý đội ngũ cán, bộ công chức, viên chức người DTTS, phấn đấu để đạt
được mức tối thiểu theo quy định về tỉ lệ cán bộ, công chức, viên chức người
dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị của từng cấp, từng
cơ quan làm công tác dân tộc; đồng thời tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viện chức người dân tộc
thiểu số làm cơ sở để nâng cao tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân
tộc thiểu số giữ các chức danh lãnh đạo,quản lý ở các cơ quan, đơn vị, địa
phương đúng theo Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc
+ Đối với cơ quan làm công tác dân tộc cấp tỉnh- Ban Dân tộc tỉnh
Nội dung
Tổng số
CCVC Ban Dân tộc
Số CCVC
là ngƣời DTTS
Người Tỷ lệ % Người Tỷ lệ %
Ban Dân tộc 17 0 0
Thạc sỹ 4 23,52 0 0
Đại học 11 64,70 0 0
Cao đẳng, trung cấp 2 11,76 0 0
Biểu số 2.1. Tỷ lệ CBCCVC là người dân tộc thiểu số cơ quan Ban Dân tộc
tỉnh Quảng Bình
52
Ban Dân tộc được UBND tỉnh giao biên chế là 19 người. Số biên chế
hiện có là 17 người, biên chế còn thiếu là 02 người. Về trình độ chuyên môn:
Thạc sỹ: 04 người (chiếm 23,52%); đại học 11 người (chiếm 64,70%); cao
đẳng, trung cấp 02 người (chiếm 11,76%). Hiện nay Ban Dân tộc đang cử 02
công chức theo học trình độ thạc sỹ.
Về trình độ lý luận chính trị: Cử nhân, cao cấp: 06 người (chiếm
35,29%); trung cấp 3 người (chiếm 17,64%).
Về trình độ quản lý nhà nước: Chuyên viên cao cấp 02 người (chiếm
11,76%); chuyên viên chính 09 người (chiếm 52,94%); chuyên viên 05 người
(chiếm 29,44%).
Công tác quy hoạch cán bộ dự nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý
của Ban được quan tâm thực hiện. Hiện nay có 03 đồng ch được quy hoạch
chức danh Trưởng ban, 03 người được quy hoạch chức danh Phó trưởng Ban,
các chức danh Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng cũng được quy hoạch đảm
bảo về tiêu chuẩn và số lượng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành
được quan t m. Hàng năm mỗi công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn và kỹ năng thiết yếu ít nhất 1 người/1 lần/1 năm.
Tuy nhiên, hiện nay trong tổ chức cơ quan làm công tác d n tộc cấp tỉnh
(Ban D n tộc tỉnh) chưa có cán bộ người DTTS cũng đã anh hưởng nhiều đến
hiệu quả thực hiện công tác d n tộc và các ch nh sách d n tộc trên địa bàn
tỉnh. Bởi lẽ, từ thực tiễn công tác, cán bộ người DTTS có vai trò, uy tín và
ảnh hưởng t ch cực đối với đồng bào DTTS. Cán bộ người DTTS là người
lãnh đạo, quản lý, ý kiến của họ có sức thuyết phục, hành động của họ có thể
lôi cuốn, lan tỏa rộng đối với đồng bào; cán bộ người DTTS góp phần x y
dựng và trực tiếp tổ chức cho nh n d n, nhất là đồng bào DTTS thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, ch nh sách, pháp luật của Nhà nước ở v ng
53
DTTS; Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ có uy t n là người DTTS là khai
thác lợi thế vô c ng lớn từ kh a cạnh văn hóa, tập quán của v ng DTTS; cán
bộ người DTTS tạo nên sự c n bằng, hài hòa về chất lượng hoạt động của hệ
thống ch nh trị ở cơ sở, tăng cường mối quan hệ, tạo dựng niềm tin của nhân
d n v ng DTTS đối với Đảng và Nhà nước.
+ Cán bộ làm công tác dân tộc cấp huyện
Hiện nay, tỉnh Quảng Bình có 04 huyện thành lập Phòng Dân tộc thuộc
UBND cấp huyện (Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch và Minh Hóa), huyện
Tuyên Hóa không thành lập Phòng Dân tộc mà giao nhiệm vụ thực hiện công
tác dân tộc về Văn phòng HĐND và UBND huyện đảm nhiệm.
Biên chế giao cho các Phòng Dân tộc (bộ phận phụ trách công tác dân
tộc) cấp huyện là 03 người/1 phòng (riêng Phòng Dân tộc huyện Minh Hóa
được giao 04 biên chế; Văn Phòng HĐND và UBND huyện Tuyên Hóa bố trí
02 công chức chuyên trách công tác dân tộc). Như vậy, số cán bộ làm công
tác dân tộc chuyên trách cấp huyện hiện có là 16 người, trong đó có 01 công
chức người là người DTTS (chiếm 6,7%).
Về trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc chuyên
trách cấp huyện: Trình độ Thạc sỹ 02 người (chiếm 13,3%); Đại học 13 người
(chiếm 86,66%). Về trình độ lý luận chính trị: cao cấp, cử nh n 8 người
(chiếm 53,3%); trung cấp 3 người (chiếm 20%). Về quản lý nhà nước: chuyên
viên ch nh 02 người (chiếm 13,3%); chuyên viên 11 người (chiếm 73,3%).
Hằng năm, cơ quan Ban D n tộc phối hợp với các ngành tổ chức bồi dưỡng,
cập nhật kiến thức về nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức làm công tác
dân tộc cấp huyện ít nhất mỗi năm 1 lớp.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc cấp huyện
được nâng lên rõ rệt, phần lớn được đào tạo rất cơ bản về chuyên môn, nghiệp
vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước và các kỹ năng chuyên môn khác. Đó là
54
những thuận lợi cơ bản cho các địa phương trong triển khai thực hiện công tác
dân tộc, cũng như cụ thể hóa các chính sách dân tộc trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, do cơ cấu tổ chức cơ quan làm công tác d n tộc ở cấp huyện
thiếu ổn định, nên cán bộ làm công tác thường xuyên bị thay đổi do sáp nhập,
nên phần nào ảnh hưởng đến tâm lý cán bộ, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện
công tác dân tộc, chính sách dân tộc trên địa bàn. Việc thiếu cán bộ là người
dân tộc thiểu số trong các cơ quan làm công tác d n tộc cấp huyện cũng là một
khó khăn cho các địa phương trong thực hiện công tác dân tộc.
+ Đối với cán bộ làm công tác dân tộc cấp xã
Thực hiện Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18-2-2004 của Chính phủ
về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc Ủy ban nhân dân các
cấp, ở cấp xã, không thành lập tổ chức làm công tác dân tộc mà phân công một
Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp xã kiêm nhiệm theo dõi, tổ chức thực hiện công
tác dân tộc. Tuy nhiên, đến nay chỉ có 8/17 xã phân công Ủy viên Uỷ ban nhân
dân xã phụ trách theo quy định, còn 9/17 xã phân công cho công chức Văn
phòng thống kê, địa chính – Nông nghiệp... phụ trách.
2.2.4. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác dân tộc
Thực hiện các chủ trương, ch nh sách của Đảng và Nhà nước về công tác
dân tộc, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc,
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã kịp thời
ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác dân tộc trên địa
bàn tỉnh, cụ thể:
- Tỉnh ủy đã ban hành 11 văn bản quán triệt, chỉ đạo thực hiện công tác
dân tộc, trong đó: 02 Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
(Khóa IX) về công tác dân tộc (Chương trình số 24 –CTr/TU); Chương trình
hành động của Ban thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận của Bộ chính trị về
55
tiếp tục thực hiện nghị Quyết Trung ương bảy về công tác dân tộc; đặc biệt
Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/TU ngày 22/3/2016 về tăng cường và
đổi mới công tác dân vận ở v ng đồng bào dân tộc thiểu số; ban hành Nghị
quyết số 03-NQ/TU ngày 31/5/2007 về Phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo
quốc phòng an ninh huyện Minh Hóa [37].
- Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành 01 Nghị quyết về thành lập phòng
Dân tộc thuộc UBND cấp huyện (Nghị quyết số 144/2010/NQ-HĐND); 03
Nghị quyết về quy định các định mức phân bổ ng n sách trung ương và tỷ lệ
vốn đối ứng của ng n sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững (Nghị quyết số 17/2017/NQ-HĐND); Nghị quyết về
định mức hỗ trợ thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình (Nghị quyết số
36/2018/NQ-HĐND); Nghị quyết về định mức chi phí hỗ trợ chuẩn bị và
quản lý thực hiện dự án đối với một số dự án thuộc Chương trình
MTQGGNBV giai đoạn 2016-2020 (Nghị quyết số 20/2018/NQ-HĐND)
- Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành 22 văn bản chỉ đạo, điều hành,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_cong_tac_dan_toc_tu_thuc_tien_t.pdf