MỞ ĐẦU .1
1. Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .5
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn .5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.6
7. Kết cấu của luận văn .6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ
VĂN HÓA .7
1.1. Văn hóa và dịch vụ văn hóa.7
1.1.1. Văn hóa.7
1.1.2. Dịch vụ văn hóa.12
1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ văn hóa.13
1.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.19
1.2.1. Quản lý nhà nước.19
1.2.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .20
1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .21
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.28
1.3.1. Yếu tố bên trong .28
1.3.2. Yếu tố bên ngoài.31
1.4. Vai trò của quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.33
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa ở một số địa phương và bài
học kinh nghiệm rút ra cho cho phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.36
1.5.1. Kinh nghiệm của các địa phương .36
1.5.2. Bài học kinh nghiệm đối với phường Cửa Nam, Quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội.38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .40
124 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn phường cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống thông tin hiện đại.
2.2. Thực trạng hoạt động dịch vụ văn hóa của phường Cửa Nam, quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay, các hoạt đông dịch vụ và kinh doanh văn hoá phẩm
là hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Đó là các
hoạt động kinh doanh xuất bản và văn hoá phẩm, kinh doanh băng đĩa hình, điện
ảnh, kinh doanh trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (nhà hát, múa rối, nhà chiếu
48
phim, vũ trường...), kinh doanh mỹ thuật (Galaxy, mỹ nghệ phẩm...), kinh doanh
di tích lịch sử, danh thắng, bảo tàng, kinh doanh lễ hội, hoạt động dịch vụ tại các
trung tâm văn hoá, nhà văn hoá, triển lãm, kinh doanh các trò chơi giải trí điện tử
(karaoke, internet, trò chơi điện tử...), dịch vụ quảng cáo.
Kinh doanh văn hoá phẩm là một dạng kinh doanh đặc thù, vì bản thân
văn hoá phẩm là thuộc dạng hàng hoá đặc biệt như phần trên đã phân tích.
Thị trường văn hoá phẩm cũng là dạng thị trường đặc thù, nó vừa tuân theo
các quy luật cung cầu của kinh tế thị trường, vừa chịu sự can thiệp chi phối của
nhà nước, đảm bảo lợi ích của nhân dân và giữ vững định hướng XHCN trong
kinh tế.
Thị trường văn hoá phẩm trước hết phải chấp nhận sự hiện diện đa dạng
của các loại văn hoá phẩm và dịch vụ văn hoá, mà công ước về bảo vệ sự đa
dạng của các nội dung văn hoá và các cách biểu đạt nghệ thuật đã nói rõ. Các
chuyên viên của UNESCO đã tạm chia ra 7 dạng văn hoá phẩm và dịch vụ
văn hoá, mỗi dạng có vô số thể loại dịch vụ và văn hoá phẩm cụ thể.
Bảy dạng đó là :
- Các sản phẩm của xuất bản, in ấn, văn chương;
- Tác phẩm âm nhạc và của các thể loại nghệ thuật biểu diễn;
- Nghệ thuật tạo hình (tượng hình);
- Mỹ nghệ, thiết kế, kiến trúc ;
- Phương tiện nghe nhìn và truyền thông mới;
- Các dạng tài sản văn hoá; cổ vật;
- Các dạng hoạt động văn hoá...
Trong số hàng ngàn loại văn hoá phẩm kể trên, có nhiều thứ bán công
khai trên thị trường nước ngoài nhưng khi nhập vào ta, kinh doanh tại địa bàn
Hà Nội thì bị thu giữ.
Nhìn chung, ở tầm vĩ mô, nhà nước quản lý bao quát toàn bộ nhu
cầu, phương hướng phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
49
Đối với hoạt động kinh doanh văn hoá phẩm, nhà nước thể hiện vai trò
quản lý của mình thông qua pháp luật, các chương trình có mục tiêu định
hướng, các chính sách đòn bẩy, chính sách cán bộ...Thông qua hệ thống
các chính sách này, nhà nước điều tiết, hướng sự hoạt động kinh doanh
văn hoá phẩm trong cơ chế thị trường đạt tới sự kết hợp hài hoà các mục
tiêu kinh tế và các mục tiêu văn hoá xã hội, mục tiêu trước mắt và lâu dài,
các mục tiêu của cá nhân và của xã hội, mục tiêu dân tộc và mục tiêu quốc
tế, trực tiếp góp phần phát huy cao nhất nguồn nội lực dân tộc, phát huy
nhân tố con người, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
2.2.1. Hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử, karaoke, vũ trường, khách
sạn nhà hàng sử dụng nhạc.
Hiện nay, các hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử, karaoke, vũ trường,
nhà hàng có sử dụng nhạc đang chiếm một thị phần đáng kể trong thị trường
văn hoá phẩm đã gây ra không ít những tiêu cực xã hội, ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trên địa bàn.
Qua số liệu thống kê tại Bảng 2.1 về các loại hình kinh doanh dịch vụ
văn hóa tại Quận Hoàn Kiếm cho thấy: các loại hình kinh doanh vụ tại
phường Cửa Nam đều có trên địa bàn, mặc dù số lượng tuy không lớn, chỉ có
loại hình nhà hàng, quán bar có biểu diễn nghệ thuật là chiếm số lượng lớn.
- Loại hình kraoke phường Cửa Nam có 4/31 cơ sở, chiếm tỷ lệ chiếm tỷ
lệ 12,90%.
- Loại hình kinh doanh nhà hàng ăn uống có tổ chức biểu diễn nghệ thuật
phường Cửa Nam có 9/54 cơ sở, chiếm tỷ lệ 16,66%.
- Kinh doanh dịch vụ Internet phường Cửa Nam có 3/23 cơ sở, chiếm tỷ
lệ 13,04%
- Kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử công cộng phường Cửa Nam có
3/38 cơ sở, chiếm tỷ lệ 34,21%.(do 12 phường không có loại hình này)
50
Biểu 2.1: Bảng tổng hợp dịch vụ văn hoá của Quận Hoàn Kiếm
( tính đến 31/12/2019)
Số
T T
Đơn vị
SỐ LƯỢNG CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
Kinh doanh
dịch vụ
Karaoke
Kinh doanh
nhà hàng ăn
uống có tổ
chức biểu diễn
nghệ thuật
Kinh doanh
dịch vụ
Internet
Kinh doanh
dịch vụ trò
chơi điện tử
công cộng
1 P. Phúc Tân 09 01 10 14
2 P. Đồng Xuân
3 P. Hàng Mã 02 01
4 P. Hàng Buồm 25 04
5 P. Hàng Đào
6 P. Hàng Bồ
7 P.Cửa Đông 03 01 02 01
8 P.Lý Thái Tổ 02 03 02
9 P.Hàng Bạc
10 P.Hàng Gai
11 P.Chương Dương 02 02 12
12 P.Hàng Trống 02
13 P.Cửa Nam 04 09 03 03
14 P.Hàng Bông 04
15 P.Tràng Tiền 01 03 01
16 P.Trần Hưng Đạo 02 05 04
17 P.Phan Chu Trinh 02
18 P.Hàng Bài 02 03 02
Cộng: 31 54 23 38
Nguồn: Phòng Văn hoá và Thông tin Quận Hoàn Kiếm
51
- Về kinh doanh karaoke và phòng trà: Karaoke là loại hình hoạt động
văn hoá được phát minh từ Nhật Bản và lan truyền ra cộng đồng quốc tế. Loại
hình phòng trà nổi lên từ thập niên 1990 dưới hình thưc hát nhạc có nhạc công
đệm theo này được lan truyền mạnh mẽ và công chúng hưởng ứng đông đảo bởi
nó vừa mang tính hướng dẫn, vừa mang tính “đồng sáng tạo”, “đồng biểu
diễn”, tạo ra điều kiện để người tham gia bộc lộ năng lực biểu diễn giọng hát của
mình trước cộng đồng.
Khi thâm nhập vào thị trường Hà Nội, loại hình karaoke và phòng trà đã
được tiếp nhận một cách nhanh chóng trên địa bàn phường Cửa Nam. Loại
hình hoạt động văn hoá mới này đã có những đóng góp tích cực nhằm thoả
mãn nhu cầu giải trí và biểu diễn ca nhạc của công chúng, nhất là thanh thiếu
niên. Tuy nhiên, những hiện tượng tiêu cực lợi dụng karaoke, phòng trà tự hát
cho nhau nghe cũng phát sinh tệ nạn mại dâm mại dâm, ma túy và các tệ nạn
xã hội khác đang làm cho dư luận xã hội bất bình và các nhà quản lý lúng
túng. Theo Giám đốc Sở VHTT Hà Nội Tô Văn Động trả lời trên báo Dân
Việt thì Hà Nội hiện nay có hơn 1600 quán karaoke . Nếu kiểm tra chỉ có 500
cơ sở đủ điều kiện như vậy thì số còn lại là cơ sở vi phạm, trong đó nhiều cơ
sở có biểu hiện chứa gái mãi dâm núp bóng dịch vụ. Mặc dù đã có lệnh cấm
các điểm kinh doanh karaoke hoạt động sau 24 giờ đêm, nhưng đến nay vẫn
còn nhiều tụ điểm hoạt động thâu đêm. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng”
vẫn đang diễn ra khá phổ biến ở loại hình hoạt động này.
- Về kinh doanh vũ trường, nhà hàng có sử dụng nhạc: Hiện nay trên địa
bàn phường không có địa điểm nào đăng ký kinh doanh hoạt động vũ trường, 05
nhà hàng có sử dụng nhạc (con số này chỉ đứng thứ 2 sau phường Hàng Buồm là
trên 25 cơ sở) mở của phục vụ khách hàng mỗi ngày ba ca sáng, chiều và tối.
Việc kinh doanh này mang lại siêu lợi nhuận cho giới chủ. Vì vậy nhiều câu lạc
bộ, nhiều quán Bar cũng đã tổ chức sàn nhảy để câu khách.
52
Hoạt động của vũ trường núp dưới bóng nhà hàng có sử dụng nhạc này
đã làm xuất hiện những kiểu ăn chơi nhảy múa biến tướng, tạo ra mảnh đất
mới cho các loại tệ nạn xã hội phát triển, xuất hiện những trai nhảy thuê, trang
phục lịch sự và luôn nhiệt tình mời các nữ khách nhảy hết điệu này đến điệu
khác. Những trai nhảy mặc đồng phục này không phải do ăn chơi đua đòi
hoặc hoàn cảnh chi phối mà chủ yếu xuất phát từ lòng đam mê khiêu vũ thuộc
mọi thành phần trong xã hội, và con đường từ một trai nhảy trở thành một trai
làm tiền cũng rất ngắn và những gái nhẩy với trang phục thiếu vải trái thuần
phong mỹ tục phục vụ trong các quán bar.
Trong tất cả các ngành nghề có hợp đồng lao động theo đúng luật định
thì vũ nữ là thành phần bị bóc lột nhiều nhất. Cho dù họ là nguồn động lực
chính thu hút khách hàng, mang lại nguồn lợi cho vũ trường nhưng lại không
được trả lương mà họ vẫn sống an nhàn nhờ vào cái “nghề không vốn” nhưng
phải chịu nhục vì sự xúc phạm của các “thượng đế” rất ô hợp. Hợp đồng lao
động của các vũ nữ chỉ có giá trị đối với công tác quản lý vũ trường để đối
phó với các đoàn kiểm tra, ngoài ra không hề đảm bảo quyền lợi và đặc biệt là
thời gian lao động của các vũ nữ. Bất cứ lúc nào vũ nữ cũng có thể bị cắt hợp
đồng và bị cho thôi việc một cách tàn bạo. Để sống được, các vũ nữ phải
trông đợi vào tiền “boa” của khách. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng mại dâm.
Bên cạnh đó, từ năm 2016 thực hiện Kế hoạch số 159/KH-UBND ngày
24/8/2016 về việc tổ chức thí điểm không gian đi bộ khu vực quanh hồ Hoàn
Kiếm và phụ cận UBND quận Hoàn Kiếm đã xây dựng đề án thí điểm hoạt
động kinh doanh dịch vụ trong đó có dịch vụ văn hóa đến 2 giờ sáng từ 19h00
ngày thứ 6 đến 24h00 ngày chủ nhật. Việc “thí điểm hoạt động kinh doanh
dịch vụ đến 2h sáng tại khu vực phố cổ Hà Nội” là quyết định của lãnh đạo
thành phố và quận dựa trên nhu cầu (khảo sát nguyện vọng của khách du lịch
53
cho thấy họ không chỉ có nhu cầu khám phá điểm đến mà do nhiều quốc gia
lệch múi giờ với Việt Nam nên không thể ngủ sớm và cần thiết phải có điểm
vui chơi, giải trí về đêm); thực tế kinh nghiệm tại nhiều nước trên thế giới tổ
chức điểm vui chơi, giải trí về đêm cho khách du lịch để phát triển du lịch rất
hiệu quả...
- Kinh doanh dịch vụ internet và các trò chơi điện tử: Internet và trò
chơi điện tử công cộng là nhóm sản phẩm dịch vụ được pháp luật quy định
hạn chế kinh doanh bởi tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động tiêu cực khó lường
đến đời sống xã hội, như: Người sử dụng truy cập những trang web không
lành mạnh, phổ biến thông tin sai sự thật, game bạo lực, bỏ bê công việc học
hành vì nghiện game... Để đảm bảo quyền hoạt động kinh doanh của người
dân, đồng thời tăng cường quản lý, hạn chế các nguy cơ từ dịch vụ này, theo
Nghị định 27/2018/NĐ-CP ngày 1/3/2018 của Chính phủ về việc quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin mạng quy định thống nhất về
thời gian hoạt động của các đại lý và điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử
công cộng cũng như yêu cầu cung cấp danh sách các trò chơi điện tử công
cộng, danh sách các trò chơi G1 (trò chơi điện tử có sự tương tác giữa nhiều
người chơi với nhau, đồng thời thông qua hệ thống máy chủ trò chơi của
doanh nghiệp). Tuy nhiên, hầu hết các điểm cung ứng dịch vụ internet và trò
chơi điện tử công cộng chưa tuân thủ nghiêm những quy định của Nghị định
27/2018/NĐ-CP. Qua cuộc thanh tra chấp hành pháp luật hầu hết đại lý
internet, điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm, cho thấy bên cạnh việc các đại lý đầu tư, nâng cấp thiết bị máy
tính cấu hình cao, tiện nghi đầy đủ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng; sử dụng
máy chủ cài đặt phần mềm quản lý được cập nhật thường xuyên tính năng
ngăn chặn các website có nội dung đồi trụy, lực lượng thanh tra chuyên ngành
Sở Thông tin và Truyền thông đã phát hiện nhiều đại lý chưa tuân thủ đầy đủ
54
các quy định, vẫn còn các vi phạm như: Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt
động đã hết hạn; hợp đồng đại lý, biển hiệu không đúng theo quy định; niêm
yết nội quy, giá cước chưa đầy đủ; hoạt động quá thời gian quy định; diện tích
phòng máy của một số đại lý không đủ theo quy định. Mặc dù dịch vụ internet
và trò chơi điện tử trên địa bàn phường Cửa Nam số lượng không nhiều,
nhưng qua kiểm tra phát hiện các cơ sở kinh doanh chưa tuân thủ theo đúng
quy định như: công tác phòng chống cháy nổ, giá cước chưa niêm yết, diện
tích phòng máy chưa đảm bảo
2.2.2. Về hoạt động kinh doanh điện ảnh và băng đĩa hình:
Hiện nay phường Cửa Nam có rạp Kinh đô thuộc quản lý của Công ty
TNHH điện ảnh một thành viên, tuy nhiên do không bắt kịp thời xu hướng thị
trường, nguồn vốn đầu tư không có nên hiện nay, rạp đã chuyển sang mô hình
phối hợp đầu tư kinh doanh
Về hoạt động kinh doanh băng đĩa xét theo loại sản phẩm, thị trường
băng đĩa hiện nay bao gồm băng đĩa nghe nhìn (băng đĩa tiếng và băng đĩa
hình) và băng đĩa hành động (băng đĩa trò chơi). Xét theo nội dung sản phẩm,
thị trường hiện đang lưu hành các loại băng đĩa có nội dung phù hợp với môi
trường văn hoá Việt Nam và băng đĩa có nội dung không phù hợp. Xét theo
luật pháp thì có loại băng đĩa phát hành hợp pháp và có loại phát hành không
hợp pháp. Xét theo chủ thể kinh doanh thì có cơ sở sản xuất kinh doanh nhà
nước và cơ sở sản xuất tư nhân. Các đĩa trò chơi (games) “tươi mát” và trò
chơi bạo lực được bán rất linh hoạt với giá 15 - 20.000 đồng/đĩa VCD và 25-
30.000 đồng/đĩa DVD. Chúng được bày bán khá công khai. Từ đầu năm 2017
đến nay các đoàn kiểm tra của quận đã thu 326 các đĩa lậu không tem, trong
đó có hơn 10% là các đĩa trò chơi, phần lớn là các loại trò chơi mang tính bạo
lực và kích dục. Qua các đợt kiểm tra này, cơ quan chức năng đã đình chỉ
kinh doanh 2 tụ điểm trò chơi vì đã sử dụng trò chơi bạo lực.
55
Từ góc độ nghiên cứu thực trạng vấn đề kinh doanh văn hoá phẩm, những
băng đĩa có nội dung phù hợp với văn hoá Việt Nam là một hệ thống đa dạng
các thể loại (video, CD, VCD, DVD ) với nội dung phong phú, từ băng đĩa ca
nhạc, băng đĩa phim ... đến các thể thể loại nghệ thuật truyền thống như hát chầu
văn, chèo v.v... Chúng được kinh doanh tại hệ thống các cửa hàng với mạng lưới
các chân rết toả khắp mọi địa bàn cư trú tại thành phố.
Đã có thời kỳ thị phần băng đĩa có nội dung lành mạnh chiếm tỷ lệ lớn,
đóng vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của nhân dân.
Những sản phẩm băng đĩa hình lành mạnh này đã góp phần làm phong
phú đời sống tinh thần của nhân dân, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng
nâng cao của các tầng lớp công chúng ở nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi,
nhiều sở thích khác nhau trong xã hội. Không chỉ có những băng đĩa phục vụ
cho nhu cầu của người Việt Nam, mà còn có thể tìm thấy ở thị phần này
những băng đĩa phục vụ nhu cầu của người nước ngoài.
Tiếc rằng, sự phát triển của thị phần bán đĩa lành mạnh không ổn định
được lâu. Sang những năm đầu thế kỷ này, chúng vẫn chiếm tỷ lệ cao về số
lượng, nhưng không còn nằm trong thị phần băng đĩa chính thống, mà bị sao
chép bừa bãi và trở thành một thị trường băng đĩa lậu phát triển lộn xộn thiếu
sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng nhà nước. Hiện nay các loại
băng đĩa không còn là mảnh đất mầu mỡ đối với các nhà đầu tư mà thay vào
đó là các loại hình trực tuyến, online trên mạng internet càng khiến cho sự
quản lý về lĩnh vực này trở nên khó khăn trong khâu kiểm soát nội dung sản
phẩm, bản quyền.
2.2.3.Hoạt động kinh doanh mỹ thuật, gallery, mỹ nghệ phẩm.
Từ năm 2015 trở lại đây, Gallery ở Hà Nội nói chung và ở địa bàn
quận Hoàn Kiếm cũng như phường Cửa Nam xuất hiện một cách rầm rộ.
Nơi nào có nhiều khách du lịch nước ngoài nhất thì nơi đó có nhiều Gallery
56
nhất. Chỉ một vài Gallery thường xuyên tổ chức trưng bày, triển lãm, giới
thiệu tác phẩm của các hoạ sĩ có sự giao lưu giữa hoạ sĩ và công chúng, còn
lại hầu hết các Gallery hoạt động như một điểm bán tranh. Trước hết,
người ta tìm một địa điểm thích hợp, các phố trung tâm nơi có nhiều người
qua lại, đặc biệt là khách du lịch trong và ngoài nước để mở cửa hàng rồi
treo tranh, đặt giá và bán. Đối với các Gallery loại này, tranh là một loại
hàng hóa như các vật dụng khác như quần áo, giày dép, bát đũa, Chủ
cửa hàng bán tranh cũng như chủ các cửa hàng khác, họ vừa bán tranh vừa
tích luỹ kinh nghiệm thương mại để sao cho tranh bán được nhiều nhất và
lợi nhuận từ bán tranh cũng lớn nhất. Những cửa hàng tranh loại này rất
nhiều. Tranh ở đây có cả của hoạ sĩ chuyên nghiệp, cả người vẽ tranh
nghiệp dư, cả của học sinh các lớp họa, là những người mới chỉ biết chút ít
về pha màu và cầm bút, ý tưởng lộn xộn, nông cạn như trẻ em tập vẽ. Giá
tranh ở đây cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào chất lượng và chữ ký của tác
giả ở góc tranh, có bức vẽ giá vài chục triệu song có bức cũng chỉ có vài
chục ngàn đồng. Đó là những bức tranh chép lại hoặc chép na ná các tranh
vẽ cảnh vật, phố phường, con người để bán cho khách du lịch nước ngoài
như bán một món đồ lưu niệm Thậm chí có cả cửa hàng với biển hiệu là
Art Gallery (Triển lãm tranh nghệ thuật) mà bên trong tranh chỉ được nằm
gọn một góc, không gian còn lại để kinh doanh các mặt hàng khác có lời
hơn cho người bán. Hiện nay trên địa bàn phường Cửa Nam tuyến phố
Nguyễn Thái Học tập trung nhiều cửa hàng như vậy, ngoài ra tại trường
Đại học Mỹ Thuật Việt Nam là nơi đào tạo, giảng dậy và thường xuyên có
các hoạt động triển lãm trong nước và quốc tế các loại hình Vẽ, điêu khắc,
phù điêu của các học viên, tác giả trong và ngoài nước mang tính nghệ
thuật cao dành cho những người có trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực hội
họa đến tham quan, nghiên cứu và mua sắm các tác phẩm.
57
2.2.4. Công tác tổ chức lễ hội tại các điểm di tích
Các hoạt động văn hoá nghệ thuật dân gian, lễ hội truyền thống được quan
tâm bảo tồn thực hiện nghiêm túc theo Đề án “Tổ chức lễ hội truyền thống
trong khu phố cổ và xung quanh hồ Hoàn Kiếm”, gồm 14 lễ hội, 7 lễ hội cấp
quận, 7 lễ hội cấp phường; tiêu biểu như: Lễ hội đền Bạch Mã, Lễ hội Vua Lê
đăng quang, Lễ hội Trung thu phố Cổ, Lễ hội đình Yên Thái, Lễ hội Cách
mạng kháng chiến Liên Khu I. Các lễ hội được tổ chức thường xuyên hàng
năm, diễn ra trong thời gian 01 ngày, nội dung gồm phần tế lễ theo nghi thức
truyền thống và phần hội phong phú, sinh động.
- Công tác tổ chức và quản lý lễ hội trên địa phường Cửa Nam được
duy trì tốt, ổn định, không có diễn biến phức tạp. Các lễ hội được tổ chức
trang nghiêm; công tác an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ tại lễ
hội được bảo đảm. Việc tổ chức các lễ hội trên địa bàn nhìn chung được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Một số lễ hội đã kế thừa có
chọn lọc những nghi thức truyền thống, đồng thời đưa các loại hình văn
hóa nghệ thuật dân gian truyền thống như : Lễ tế, hát ca trù, chầu văn, hát
xẩm, quan họ, chèo, tuồng, múa rối, trống quân, các trò chơi dân gian vào
trong chương trình lễ hội, đã góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, nâng cao đời sống văn hoá, đáp ứng nhu cầu của đông đảo nhân
dân. Đồng thời tăng cường tổ chức các hội chợ trưng bày, giới thiệu nghề
thủ công truyền thống, các loại hình văn hoá vật thể và phi vật thể tại các
tuyến phố nghề, các di tích lịch sử văn hóa, ngôi nhà di sản, trung tâm giao
lưu văn hoá phố cổ Hà Nội, đã thu hút được hàng vạn lượt quần chúng
nhân dân tham dự, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, quảng bá,
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá, phát triển thương mại, dịch
vụ, du lịch trên địa bàn quận.
58
- Các lễ hội ngày càng được quan tâm nâng cấp về quy mô tổ chức, đã
phát huy vai trò tích cực đối với cuộc sống của người dân phố cổ và quận
Hoàn Kiếm nói chung và phường Cửa Nam nói riêng, góp phần nâng cao đời
sống tinh thần, hưởng thụ những giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ lòng
yêu nước và tự hào dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thể. Công tác quản lý và tổ chức các lễ hội, phát huy giá trị di sản văn hóa
trên địa bàn đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức
đoàn thể, các tầng lớp nhân dân quan tâm chăm lo, đạt được nhiều kết quả tốt.
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn
hóa ở phường Cửa Nam
2.3.1. Triển khai các văn bản pháp quy, thẩm định cơ sở hoạt động
Trong những năm qua, thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành
phố Hà Nội, UBND Quận Hoàn Kiếm, hướng dẫn của Sở Văn hoá Thông tin
và Du lịch thành phố Hà Nội và sự chỉ đạo của Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân
phường Cửa Nam đã xây dựng kế hoạch và bằng nhiều hình thức thông tin,
tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn trên cổng thông tin điện tử quận và 18
phường, trạm tin công cộng, các cơ sở di tích, kinh doanh dịch vụ về Nghị định
số 103/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt
động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng; Nghị định số
79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu; lưu hành kinh doanh
bản ghi âm, ghi hình ca mua nhạc, sân khấu; Nghị định số 142/2018/NĐ-CP
ngày 09/10/2018 của Chính phủ sửa đổi một số quy định về điều kiện đầu tư
kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch; Nghị định số 54/2019/NĐ-CP ngày 19/6/2019 của Chính phủ quy định về
kinh doanh karaoke, dịch vụ vũ trường; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày
16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về
59
quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa,
thể thao, du lịch và quảng cáo; Nghị định 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP và
Nghị định số 158/2013/NĐ-CP; Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính,
viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Nghị định
159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản; Thông tư số 04/2011/TT-
BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Quyết
định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 của UBND thành phố Hà Nội về
ban hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hoá và
danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội, Quyết định số
01/2016/QĐ-UBND ngày 20/01/2016 của UBND Thành phố về quy chế quản
lý hoạt động quảng cáo ngoài trời; Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 03/8/2016
của UBND Thành phố về quản lý nhà nước trong hoạt động quảng cáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 1997/QĐ-UBND Hà Nội ngày 24 tháng
04 năm 2018 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt Quy hoạch
quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng
đến năm 2050, Thông tư số 04/2018/TT-BXD ngày 20/5/2018 của Bộ xây
dựng về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng và lắp đặt
phương tiện quảng cáo ngoài trời.
Quá trình triển khai và thực hiện các chính sách của Nhà nước về hoạt
động dịch vụ văn hóa, số đông các tổ chức và cá nhân có chấp hành theo quy
định. Tuy nhiên, cũng còn nhiều trường hợp thực hiện thiếu nghiêm túc. Một
khi thu nhập xã hội tăng lên, một số trường hợp chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ
60
văn hóa, vì chạy theo đồng tiền, đã có những biểu hiện tiêu cực trong kinh
doanh, tổ chức hoạt động trá hình, biến tướng, gây tổn hại đến thuần phong
mỹ tục, dư luận xã hội bất bình. Nguyên nhân của những hạn chế là do công
tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo
thực hiện ở từng địa phương. Quản lý Nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng;
các điều kiện hoạt động theo quy định chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ,
chưa phù hợp. Thực tế này, đòi hỏi cần thiết được hoàn thiện hệ thống các
văn bản pháp quy Nhà nước nhằm lập lại trật tự xã hội.
Chẳng hạn chỉ riêng ở loại hình hoạt động vũ trường, Karaoke cũng đã
nổi lên một số nội dung mới như: trong Nghị định 54/2019/NĐ-CP của Chính
phủ quy định tổ chức hoạt động phải có ý kiến đồng ý của 02 hộ liền kề; cơ sở
Karaoke không chỉ cách trường học mà còn phải cách bệnh viện, cơ sở tôn giáo,
tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn hóa và cơ quan hành chính Nhà nước từ 200m
trở lên; mỗi phòng Karaoke chỉ sử dụng 01 nhân viên phục vụ Do quy định
còn quá chung chung, nên quá trình triển khai tại địa phương rất khó thực hiện
hoặc không thể áp dụng cho phù hợp. Đã có không ít những ý kiến phản hồi của
người dân về quy định này nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa trả lời.
Qua thống kê trên địa bàn phường Cửa Nam đa số các nhà hàng Karaoke,
vũ trường không đảm bảo khoảng cách 200m theo quy định. Công an quận và
Phường cũng đã thu hồi giấy an ninh trật tự vì các cơ sở này nằm trong "vùng
cấm" theo phân cấp.
Trên thực tế, có một số trường hợp cơ sở kinh doanh Karaoke , vũ
trường đã có thời gian hoạt động trước khi các cơ quan có thẩm quyền xây
dựng trường học, xây dựng trụ sở cơ quan, bệnh viện Nhiều ý kiến của chủ
cơ sở bức xúc, vì trên thực tế họ đã vay vốn đầu tư hàng tỷ đồng, nay nếu
không được kinh doanh thì sẽ bị phá sản. Đây là vấn đề đòi hỏi các cơ quan
chức năng cần phải nghiên cứu, xem xét để có những điều chỉnh, đáp ứng
61
nguyện vọng chính đáng của người dân. Trước mắt, Nghị định của Chính phủ
đã ban hành thì phải chấp hành, ngành văn hóa thông tin và các cơ quan chức
năng khác của tỉnh cũng khó có thể làm gì khác được, chỉ có thể kiến nghị với
cấp trên mà thôi (Bộ Văn hóa thông tin, Chính phủ).
Việc thẩm định để xác định khoảng cách 200m cũng là vấn đề cần phải
bàn. Nhiều trường hợp chủ cơ sở kinh doanh làm đơn xin cứu xét để thẩm định
lại khoảng cách 200m. Bởi vì, khoảng cách 200m là tí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dich_vu_van_hoa_tren_dia_ban_ph.pdf