Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn phường cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội

MỞ ĐẦU .1

1. Tính cấp thiết của đề tài .1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .2

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .5

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn .5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.6

7. Kết cấu của luận văn .6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ

VĂN HÓA .7

1.1. Văn hóa và dịch vụ văn hóa.7

1.1.1. Văn hóa.7

1.1.2. Dịch vụ văn hóa.12

1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ văn hóa.13

1.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.19

1.2.1. Quản lý nhà nước.19

1.2.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .20

1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .21

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa .22

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.28

1.3.1. Yếu tố bên trong .28

1.3.2. Yếu tố bên ngoài.31

1.4. Vai trò của quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa.33

1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa ở một số địa phương và bài

học kinh nghiệm rút ra cho cho phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.36

1.5.1. Kinh nghiệm của các địa phương .36

1.5.2. Bài học kinh nghiệm đối với phường Cửa Nam, Quận Hoàn Kiếm, thành

phố Hà Nội.38

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .40

pdf124 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn phường cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống thông tin hiện đại. 2.2. Thực trạng hoạt động dịch vụ văn hóa của phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, các hoạt đông dịch vụ và kinh doanh văn hoá phẩm là hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Đó là các hoạt động kinh doanh xuất bản và văn hoá phẩm, kinh doanh băng đĩa hình, điện ảnh, kinh doanh trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (nhà hát, múa rối, nhà chiếu 48 phim, vũ trường...), kinh doanh mỹ thuật (Galaxy, mỹ nghệ phẩm...), kinh doanh di tích lịch sử, danh thắng, bảo tàng, kinh doanh lễ hội, hoạt động dịch vụ tại các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá, triển lãm, kinh doanh các trò chơi giải trí điện tử (karaoke, internet, trò chơi điện tử...), dịch vụ quảng cáo. Kinh doanh văn hoá phẩm là một dạng kinh doanh đặc thù, vì bản thân văn hoá phẩm là thuộc dạng hàng hoá đặc biệt như phần trên đã phân tích. Thị trường văn hoá phẩm cũng là dạng thị trường đặc thù, nó vừa tuân theo các quy luật cung cầu của kinh tế thị trường, vừa chịu sự can thiệp chi phối của nhà nước, đảm bảo lợi ích của nhân dân và giữ vững định hướng XHCN trong kinh tế. Thị trường văn hoá phẩm trước hết phải chấp nhận sự hiện diện đa dạng của các loại văn hoá phẩm và dịch vụ văn hoá, mà công ước về bảo vệ sự đa dạng của các nội dung văn hoá và các cách biểu đạt nghệ thuật đã nói rõ. Các chuyên viên của UNESCO đã tạm chia ra 7 dạng văn hoá phẩm và dịch vụ văn hoá, mỗi dạng có vô số thể loại dịch vụ và văn hoá phẩm cụ thể. Bảy dạng đó là : - Các sản phẩm của xuất bản, in ấn, văn chương; - Tác phẩm âm nhạc và của các thể loại nghệ thuật biểu diễn; - Nghệ thuật tạo hình (tượng hình); - Mỹ nghệ, thiết kế, kiến trúc ; - Phương tiện nghe nhìn và truyền thông mới; - Các dạng tài sản văn hoá; cổ vật; - Các dạng hoạt động văn hoá... Trong số hàng ngàn loại văn hoá phẩm kể trên, có nhiều thứ bán công khai trên thị trường nước ngoài nhưng khi nhập vào ta, kinh doanh tại địa bàn Hà Nội thì bị thu giữ. Nhìn chung, ở tầm vĩ mô, nhà nước quản lý bao quát toàn bộ nhu cầu, phương hướng phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 49 Đối với hoạt động kinh doanh văn hoá phẩm, nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình thông qua pháp luật, các chương trình có mục tiêu định hướng, các chính sách đòn bẩy, chính sách cán bộ...Thông qua hệ thống các chính sách này, nhà nước điều tiết, hướng sự hoạt động kinh doanh văn hoá phẩm trong cơ chế thị trường đạt tới sự kết hợp hài hoà các mục tiêu kinh tế và các mục tiêu văn hoá xã hội, mục tiêu trước mắt và lâu dài, các mục tiêu của cá nhân và của xã hội, mục tiêu dân tộc và mục tiêu quốc tế, trực tiếp góp phần phát huy cao nhất nguồn nội lực dân tộc, phát huy nhân tố con người, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 2.2.1. Hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử, karaoke, vũ trường, khách sạn nhà hàng sử dụng nhạc. Hiện nay, các hoạt động kinh doanh trò chơi điện tử, karaoke, vũ trường, nhà hàng có sử dụng nhạc đang chiếm một thị phần đáng kể trong thị trường văn hoá phẩm đã gây ra không ít những tiêu cực xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trên địa bàn. Qua số liệu thống kê tại Bảng 2.1 về các loại hình kinh doanh dịch vụ văn hóa tại Quận Hoàn Kiếm cho thấy: các loại hình kinh doanh vụ tại phường Cửa Nam đều có trên địa bàn, mặc dù số lượng tuy không lớn, chỉ có loại hình nhà hàng, quán bar có biểu diễn nghệ thuật là chiếm số lượng lớn. - Loại hình kraoke phường Cửa Nam có 4/31 cơ sở, chiếm tỷ lệ chiếm tỷ lệ 12,90%. - Loại hình kinh doanh nhà hàng ăn uống có tổ chức biểu diễn nghệ thuật phường Cửa Nam có 9/54 cơ sở, chiếm tỷ lệ 16,66%. - Kinh doanh dịch vụ Internet phường Cửa Nam có 3/23 cơ sở, chiếm tỷ lệ 13,04% - Kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử công cộng phường Cửa Nam có 3/38 cơ sở, chiếm tỷ lệ 34,21%.(do 12 phường không có loại hình này) 50 Biểu 2.1: Bảng tổng hợp dịch vụ văn hoá của Quận Hoàn Kiếm ( tính đến 31/12/2019) Số T T Đơn vị SỐ LƯỢNG CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN Kinh doanh dịch vụ Karaoke Kinh doanh nhà hàng ăn uống có tổ chức biểu diễn nghệ thuật Kinh doanh dịch vụ Internet Kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử công cộng 1 P. Phúc Tân 09 01 10 14 2 P. Đồng Xuân 3 P. Hàng Mã 02 01 4 P. Hàng Buồm 25 04 5 P. Hàng Đào 6 P. Hàng Bồ 7 P.Cửa Đông 03 01 02 01 8 P.Lý Thái Tổ 02 03 02 9 P.Hàng Bạc 10 P.Hàng Gai 11 P.Chương Dương 02 02 12 12 P.Hàng Trống 02 13 P.Cửa Nam 04 09 03 03 14 P.Hàng Bông 04 15 P.Tràng Tiền 01 03 01 16 P.Trần Hưng Đạo 02 05 04 17 P.Phan Chu Trinh 02 18 P.Hàng Bài 02 03 02 Cộng: 31 54 23 38 Nguồn: Phòng Văn hoá và Thông tin Quận Hoàn Kiếm 51 - Về kinh doanh karaoke và phòng trà: Karaoke là loại hình hoạt động văn hoá được phát minh từ Nhật Bản và lan truyền ra cộng đồng quốc tế. Loại hình phòng trà nổi lên từ thập niên 1990 dưới hình thưc hát nhạc có nhạc công đệm theo này được lan truyền mạnh mẽ và công chúng hưởng ứng đông đảo bởi nó vừa mang tính hướng dẫn, vừa mang tính “đồng sáng tạo”, “đồng biểu diễn”, tạo ra điều kiện để người tham gia bộc lộ năng lực biểu diễn giọng hát của mình trước cộng đồng. Khi thâm nhập vào thị trường Hà Nội, loại hình karaoke và phòng trà đã được tiếp nhận một cách nhanh chóng trên địa bàn phường Cửa Nam. Loại hình hoạt động văn hoá mới này đã có những đóng góp tích cực nhằm thoả mãn nhu cầu giải trí và biểu diễn ca nhạc của công chúng, nhất là thanh thiếu niên. Tuy nhiên, những hiện tượng tiêu cực lợi dụng karaoke, phòng trà tự hát cho nhau nghe cũng phát sinh tệ nạn mại dâm mại dâm, ma túy và các tệ nạn xã hội khác đang làm cho dư luận xã hội bất bình và các nhà quản lý lúng túng. Theo Giám đốc Sở VHTT Hà Nội Tô Văn Động trả lời trên báo Dân Việt thì Hà Nội hiện nay có hơn 1600 quán karaoke . Nếu kiểm tra chỉ có 500 cơ sở đủ điều kiện như vậy thì số còn lại là cơ sở vi phạm, trong đó nhiều cơ sở có biểu hiện chứa gái mãi dâm núp bóng dịch vụ. Mặc dù đã có lệnh cấm các điểm kinh doanh karaoke hoạt động sau 24 giờ đêm, nhưng đến nay vẫn còn nhiều tụ điểm hoạt động thâu đêm. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng” vẫn đang diễn ra khá phổ biến ở loại hình hoạt động này. - Về kinh doanh vũ trường, nhà hàng có sử dụng nhạc: Hiện nay trên địa bàn phường không có địa điểm nào đăng ký kinh doanh hoạt động vũ trường, 05 nhà hàng có sử dụng nhạc (con số này chỉ đứng thứ 2 sau phường Hàng Buồm là trên 25 cơ sở) mở của phục vụ khách hàng mỗi ngày ba ca sáng, chiều và tối. Việc kinh doanh này mang lại siêu lợi nhuận cho giới chủ. Vì vậy nhiều câu lạc bộ, nhiều quán Bar cũng đã tổ chức sàn nhảy để câu khách. 52 Hoạt động của vũ trường núp dưới bóng nhà hàng có sử dụng nhạc này đã làm xuất hiện những kiểu ăn chơi nhảy múa biến tướng, tạo ra mảnh đất mới cho các loại tệ nạn xã hội phát triển, xuất hiện những trai nhảy thuê, trang phục lịch sự và luôn nhiệt tình mời các nữ khách nhảy hết điệu này đến điệu khác. Những trai nhảy mặc đồng phục này không phải do ăn chơi đua đòi hoặc hoàn cảnh chi phối mà chủ yếu xuất phát từ lòng đam mê khiêu vũ thuộc mọi thành phần trong xã hội, và con đường từ một trai nhảy trở thành một trai làm tiền cũng rất ngắn và những gái nhẩy với trang phục thiếu vải trái thuần phong mỹ tục phục vụ trong các quán bar. Trong tất cả các ngành nghề có hợp đồng lao động theo đúng luật định thì vũ nữ là thành phần bị bóc lột nhiều nhất. Cho dù họ là nguồn động lực chính thu hút khách hàng, mang lại nguồn lợi cho vũ trường nhưng lại không được trả lương mà họ vẫn sống an nhàn nhờ vào cái “nghề không vốn” nhưng phải chịu nhục vì sự xúc phạm của các “thượng đế” rất ô hợp. Hợp đồng lao động của các vũ nữ chỉ có giá trị đối với công tác quản lý vũ trường để đối phó với các đoàn kiểm tra, ngoài ra không hề đảm bảo quyền lợi và đặc biệt là thời gian lao động của các vũ nữ. Bất cứ lúc nào vũ nữ cũng có thể bị cắt hợp đồng và bị cho thôi việc một cách tàn bạo. Để sống được, các vũ nữ phải trông đợi vào tiền “boa” của khách. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mại dâm. Bên cạnh đó, từ năm 2016 thực hiện Kế hoạch số 159/KH-UBND ngày 24/8/2016 về việc tổ chức thí điểm không gian đi bộ khu vực quanh hồ Hoàn Kiếm và phụ cận UBND quận Hoàn Kiếm đã xây dựng đề án thí điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ trong đó có dịch vụ văn hóa đến 2 giờ sáng từ 19h00 ngày thứ 6 đến 24h00 ngày chủ nhật. Việc “thí điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ đến 2h sáng tại khu vực phố cổ Hà Nội” là quyết định của lãnh đạo thành phố và quận dựa trên nhu cầu (khảo sát nguyện vọng của khách du lịch 53 cho thấy họ không chỉ có nhu cầu khám phá điểm đến mà do nhiều quốc gia lệch múi giờ với Việt Nam nên không thể ngủ sớm và cần thiết phải có điểm vui chơi, giải trí về đêm); thực tế kinh nghiệm tại nhiều nước trên thế giới tổ chức điểm vui chơi, giải trí về đêm cho khách du lịch để phát triển du lịch rất hiệu quả... - Kinh doanh dịch vụ internet và các trò chơi điện tử: Internet và trò chơi điện tử công cộng là nhóm sản phẩm dịch vụ được pháp luật quy định hạn chế kinh doanh bởi tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động tiêu cực khó lường đến đời sống xã hội, như: Người sử dụng truy cập những trang web không lành mạnh, phổ biến thông tin sai sự thật, game bạo lực, bỏ bê công việc học hành vì nghiện game... Để đảm bảo quyền hoạt động kinh doanh của người dân, đồng thời tăng cường quản lý, hạn chế các nguy cơ từ dịch vụ này, theo Nghị định 27/2018/NĐ-CP ngày 1/3/2018 của Chính phủ về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin mạng quy định thống nhất về thời gian hoạt động của các đại lý và điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng cũng như yêu cầu cung cấp danh sách các trò chơi điện tử công cộng, danh sách các trò chơi G1 (trò chơi điện tử có sự tương tác giữa nhiều người chơi với nhau, đồng thời thông qua hệ thống máy chủ trò chơi của doanh nghiệp). Tuy nhiên, hầu hết các điểm cung ứng dịch vụ internet và trò chơi điện tử công cộng chưa tuân thủ nghiêm những quy định của Nghị định 27/2018/NĐ-CP. Qua cuộc thanh tra chấp hành pháp luật hầu hết đại lý internet, điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, cho thấy bên cạnh việc các đại lý đầu tư, nâng cấp thiết bị máy tính cấu hình cao, tiện nghi đầy đủ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng; sử dụng máy chủ cài đặt phần mềm quản lý được cập nhật thường xuyên tính năng ngăn chặn các website có nội dung đồi trụy, lực lượng thanh tra chuyên ngành Sở Thông tin và Truyền thông đã phát hiện nhiều đại lý chưa tuân thủ đầy đủ 54 các quy định, vẫn còn các vi phạm như: Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động đã hết hạn; hợp đồng đại lý, biển hiệu không đúng theo quy định; niêm yết nội quy, giá cước chưa đầy đủ; hoạt động quá thời gian quy định; diện tích phòng máy của một số đại lý không đủ theo quy định. Mặc dù dịch vụ internet và trò chơi điện tử trên địa bàn phường Cửa Nam số lượng không nhiều, nhưng qua kiểm tra phát hiện các cơ sở kinh doanh chưa tuân thủ theo đúng quy định như: công tác phòng chống cháy nổ, giá cước chưa niêm yết, diện tích phòng máy chưa đảm bảo 2.2.2. Về hoạt động kinh doanh điện ảnh và băng đĩa hình: Hiện nay phường Cửa Nam có rạp Kinh đô thuộc quản lý của Công ty TNHH điện ảnh một thành viên, tuy nhiên do không bắt kịp thời xu hướng thị trường, nguồn vốn đầu tư không có nên hiện nay, rạp đã chuyển sang mô hình phối hợp đầu tư kinh doanh Về hoạt động kinh doanh băng đĩa xét theo loại sản phẩm, thị trường băng đĩa hiện nay bao gồm băng đĩa nghe nhìn (băng đĩa tiếng và băng đĩa hình) và băng đĩa hành động (băng đĩa trò chơi). Xét theo nội dung sản phẩm, thị trường hiện đang lưu hành các loại băng đĩa có nội dung phù hợp với môi trường văn hoá Việt Nam và băng đĩa có nội dung không phù hợp. Xét theo luật pháp thì có loại băng đĩa phát hành hợp pháp và có loại phát hành không hợp pháp. Xét theo chủ thể kinh doanh thì có cơ sở sản xuất kinh doanh nhà nước và cơ sở sản xuất tư nhân. Các đĩa trò chơi (games) “tươi mát” và trò chơi bạo lực được bán rất linh hoạt với giá 15 - 20.000 đồng/đĩa VCD và 25- 30.000 đồng/đĩa DVD. Chúng được bày bán khá công khai. Từ đầu năm 2017 đến nay các đoàn kiểm tra của quận đã thu 326 các đĩa lậu không tem, trong đó có hơn 10% là các đĩa trò chơi, phần lớn là các loại trò chơi mang tính bạo lực và kích dục. Qua các đợt kiểm tra này, cơ quan chức năng đã đình chỉ kinh doanh 2 tụ điểm trò chơi vì đã sử dụng trò chơi bạo lực. 55 Từ góc độ nghiên cứu thực trạng vấn đề kinh doanh văn hoá phẩm, những băng đĩa có nội dung phù hợp với văn hoá Việt Nam là một hệ thống đa dạng các thể loại (video, CD, VCD, DVD ) với nội dung phong phú, từ băng đĩa ca nhạc, băng đĩa phim ... đến các thể thể loại nghệ thuật truyền thống như hát chầu văn, chèo v.v... Chúng được kinh doanh tại hệ thống các cửa hàng với mạng lưới các chân rết toả khắp mọi địa bàn cư trú tại thành phố. Đã có thời kỳ thị phần băng đĩa có nội dung lành mạnh chiếm tỷ lệ lớn, đóng vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của nhân dân. Những sản phẩm băng đĩa hình lành mạnh này đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng nâng cao của các tầng lớp công chúng ở nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi, nhiều sở thích khác nhau trong xã hội. Không chỉ có những băng đĩa phục vụ cho nhu cầu của người Việt Nam, mà còn có thể tìm thấy ở thị phần này những băng đĩa phục vụ nhu cầu của người nước ngoài. Tiếc rằng, sự phát triển của thị phần bán đĩa lành mạnh không ổn định được lâu. Sang những năm đầu thế kỷ này, chúng vẫn chiếm tỷ lệ cao về số lượng, nhưng không còn nằm trong thị phần băng đĩa chính thống, mà bị sao chép bừa bãi và trở thành một thị trường băng đĩa lậu phát triển lộn xộn thiếu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng nhà nước. Hiện nay các loại băng đĩa không còn là mảnh đất mầu mỡ đối với các nhà đầu tư mà thay vào đó là các loại hình trực tuyến, online trên mạng internet càng khiến cho sự quản lý về lĩnh vực này trở nên khó khăn trong khâu kiểm soát nội dung sản phẩm, bản quyền. 2.2.3.Hoạt động kinh doanh mỹ thuật, gallery, mỹ nghệ phẩm. Từ năm 2015 trở lại đây, Gallery ở Hà Nội nói chung và ở địa bàn quận Hoàn Kiếm cũng như phường Cửa Nam xuất hiện một cách rầm rộ. Nơi nào có nhiều khách du lịch nước ngoài nhất thì nơi đó có nhiều Gallery 56 nhất. Chỉ một vài Gallery thường xuyên tổ chức trưng bày, triển lãm, giới thiệu tác phẩm của các hoạ sĩ có sự giao lưu giữa hoạ sĩ và công chúng, còn lại hầu hết các Gallery hoạt động như một điểm bán tranh. Trước hết, người ta tìm một địa điểm thích hợp, các phố trung tâm nơi có nhiều người qua lại, đặc biệt là khách du lịch trong và ngoài nước để mở cửa hàng rồi treo tranh, đặt giá và bán. Đối với các Gallery loại này, tranh là một loại hàng hóa như các vật dụng khác như quần áo, giày dép, bát đũa, Chủ cửa hàng bán tranh cũng như chủ các cửa hàng khác, họ vừa bán tranh vừa tích luỹ kinh nghiệm thương mại để sao cho tranh bán được nhiều nhất và lợi nhuận từ bán tranh cũng lớn nhất. Những cửa hàng tranh loại này rất nhiều. Tranh ở đây có cả của hoạ sĩ chuyên nghiệp, cả người vẽ tranh nghiệp dư, cả của học sinh các lớp họa, là những người mới chỉ biết chút ít về pha màu và cầm bút, ý tưởng lộn xộn, nông cạn như trẻ em tập vẽ. Giá tranh ở đây cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào chất lượng và chữ ký của tác giả ở góc tranh, có bức vẽ giá vài chục triệu song có bức cũng chỉ có vài chục ngàn đồng. Đó là những bức tranh chép lại hoặc chép na ná các tranh vẽ cảnh vật, phố phường, con người để bán cho khách du lịch nước ngoài như bán một món đồ lưu niệm Thậm chí có cả cửa hàng với biển hiệu là Art Gallery (Triển lãm tranh nghệ thuật) mà bên trong tranh chỉ được nằm gọn một góc, không gian còn lại để kinh doanh các mặt hàng khác có lời hơn cho người bán. Hiện nay trên địa bàn phường Cửa Nam tuyến phố Nguyễn Thái Học tập trung nhiều cửa hàng như vậy, ngoài ra tại trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam là nơi đào tạo, giảng dậy và thường xuyên có các hoạt động triển lãm trong nước và quốc tế các loại hình Vẽ, điêu khắc, phù điêu của các học viên, tác giả trong và ngoài nước mang tính nghệ thuật cao dành cho những người có trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực hội họa đến tham quan, nghiên cứu và mua sắm các tác phẩm. 57 2.2.4. Công tác tổ chức lễ hội tại các điểm di tích Các hoạt động văn hoá nghệ thuật dân gian, lễ hội truyền thống được quan tâm bảo tồn thực hiện nghiêm túc theo Đề án “Tổ chức lễ hội truyền thống trong khu phố cổ và xung quanh hồ Hoàn Kiếm”, gồm 14 lễ hội, 7 lễ hội cấp quận, 7 lễ hội cấp phường; tiêu biểu như: Lễ hội đền Bạch Mã, Lễ hội Vua Lê đăng quang, Lễ hội Trung thu phố Cổ, Lễ hội đình Yên Thái, Lễ hội Cách mạng kháng chiến Liên Khu I. Các lễ hội được tổ chức thường xuyên hàng năm, diễn ra trong thời gian 01 ngày, nội dung gồm phần tế lễ theo nghi thức truyền thống và phần hội phong phú, sinh động. - Công tác tổ chức và quản lý lễ hội trên địa phường Cửa Nam được duy trì tốt, ổn định, không có diễn biến phức tạp. Các lễ hội được tổ chức trang nghiêm; công tác an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ tại lễ hội được bảo đảm. Việc tổ chức các lễ hội trên địa bàn nhìn chung được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Một số lễ hội đã kế thừa có chọn lọc những nghi thức truyền thống, đồng thời đưa các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian truyền thống như : Lễ tế, hát ca trù, chầu văn, hát xẩm, quan họ, chèo, tuồng, múa rối, trống quân, các trò chơi dân gian vào trong chương trình lễ hội, đã góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống văn hoá, đáp ứng nhu cầu của đông đảo nhân dân. Đồng thời tăng cường tổ chức các hội chợ trưng bày, giới thiệu nghề thủ công truyền thống, các loại hình văn hoá vật thể và phi vật thể tại các tuyến phố nghề, các di tích lịch sử văn hóa, ngôi nhà di sản, trung tâm giao lưu văn hoá phố cổ Hà Nội, đã thu hút được hàng vạn lượt quần chúng nhân dân tham dự, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá, phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn quận. 58 - Các lễ hội ngày càng được quan tâm nâng cấp về quy mô tổ chức, đã phát huy vai trò tích cực đối với cuộc sống của người dân phố cổ và quận Hoàn Kiếm nói chung và phường Cửa Nam nói riêng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, hưởng thụ những giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ lòng yêu nước và tự hào dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể. Công tác quản lý và tổ chức các lễ hội, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức đoàn thể, các tầng lớp nhân dân quan tâm chăm lo, đạt được nhiều kết quả tốt. 2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hóa ở phường Cửa Nam 2.3.1. Triển khai các văn bản pháp quy, thẩm định cơ sở hoạt động Trong những năm qua, thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, UBND Quận Hoàn Kiếm, hướng dẫn của Sở Văn hoá Thông tin và Du lịch thành phố Hà Nội và sự chỉ đạo của Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân phường Cửa Nam đã xây dựng kế hoạch và bằng nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn trên cổng thông tin điện tử quận và 18 phường, trạm tin công cộng, các cơ sở di tích, kinh doanh dịch vụ về Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng; Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu; lưu hành kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca mua nhạc, sân khấu; Nghị định số 142/2018/NĐ-CP ngày 09/10/2018 của Chính phủ sửa đổi một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Nghị định số 54/2019/NĐ-CP ngày 19/6/2019 của Chính phủ quy định về kinh doanh karaoke, dịch vụ vũ trường; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về 59 quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; Nghị định 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP và Nghị định số 158/2013/NĐ-CP; Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Nghị định 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản; Thông tư số 04/2011/TT- BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 của UBND thành phố Hà Nội về ban hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội, Quyết định số 01/2016/QĐ-UBND ngày 20/01/2016 của UBND Thành phố về quy chế quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời; Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 03/8/2016 của UBND Thành phố về quản lý nhà nước trong hoạt động quảng cáo trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 1997/QĐ-UBND Hà Nội ngày 24 tháng 04 năm 2018 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt Quy hoạch quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2050, Thông tư số 04/2018/TT-BXD ngày 20/5/2018 của Bộ xây dựng về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng và lắp đặt phương tiện quảng cáo ngoài trời. Quá trình triển khai và thực hiện các chính sách của Nhà nước về hoạt động dịch vụ văn hóa, số đông các tổ chức và cá nhân có chấp hành theo quy định. Tuy nhiên, cũng còn nhiều trường hợp thực hiện thiếu nghiêm túc. Một khi thu nhập xã hội tăng lên, một số trường hợp chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ 60 văn hóa, vì chạy theo đồng tiền, đã có những biểu hiện tiêu cực trong kinh doanh, tổ chức hoạt động trá hình, biến tướng, gây tổn hại đến thuần phong mỹ tục, dư luận xã hội bất bình. Nguyên nhân của những hạn chế là do công tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện ở từng địa phương. Quản lý Nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng; các điều kiện hoạt động theo quy định chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp. Thực tế này, đòi hỏi cần thiết được hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy Nhà nước nhằm lập lại trật tự xã hội. Chẳng hạn chỉ riêng ở loại hình hoạt động vũ trường, Karaoke cũng đã nổi lên một số nội dung mới như: trong Nghị định 54/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức hoạt động phải có ý kiến đồng ý của 02 hộ liền kề; cơ sở Karaoke không chỉ cách trường học mà còn phải cách bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn hóa và cơ quan hành chính Nhà nước từ 200m trở lên; mỗi phòng Karaoke chỉ sử dụng 01 nhân viên phục vụ Do quy định còn quá chung chung, nên quá trình triển khai tại địa phương rất khó thực hiện hoặc không thể áp dụng cho phù hợp. Đã có không ít những ý kiến phản hồi của người dân về quy định này nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa trả lời. Qua thống kê trên địa bàn phường Cửa Nam đa số các nhà hàng Karaoke, vũ trường không đảm bảo khoảng cách 200m theo quy định. Công an quận và Phường cũng đã thu hồi giấy an ninh trật tự vì các cơ sở này nằm trong "vùng cấm" theo phân cấp. Trên thực tế, có một số trường hợp cơ sở kinh doanh Karaoke , vũ trường đã có thời gian hoạt động trước khi các cơ quan có thẩm quyền xây dựng trường học, xây dựng trụ sở cơ quan, bệnh viện Nhiều ý kiến của chủ cơ sở bức xúc, vì trên thực tế họ đã vay vốn đầu tư hàng tỷ đồng, nay nếu không được kinh doanh thì sẽ bị phá sản. Đây là vấn đề đòi hỏi các cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu, xem xét để có những điều chỉnh, đáp ứng 61 nguyện vọng chính đáng của người dân. Trước mắt, Nghị định của Chính phủ đã ban hành thì phải chấp hành, ngành văn hóa thông tin và các cơ quan chức năng khác của tỉnh cũng khó có thể làm gì khác được, chỉ có thể kiến nghị với cấp trên mà thôi (Bộ Văn hóa thông tin, Chính phủ). Việc thẩm định để xác định khoảng cách 200m cũng là vấn đề cần phải bàn. Nhiều trường hợp chủ cơ sở kinh doanh làm đơn xin cứu xét để thẩm định lại khoảng cách 200m. Bởi vì, khoảng cách 200m là tí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dich_vu_van_hoa_tren_dia_ban_ph.pdf
Tài liệu liên quan