Luận văn Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài . 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài . 3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài . 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài . 5

5. Phương pháp luận và nghiên cứu đề tài . 5

6. Ý nghĩa khoa học của luận văn. 6

7. Kết cấu của luận văn. 6

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NưỚC

VỀ DU LỊCH . 7

1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. 7

1.1.1. Du lịch. 7

1.1.2. Hoạt động du lịch. 9

1.1.3. Quản lý nhà nước về du lịch . 10

1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về

du lịch . 11

1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về du lịch. 11

1.2.2. Những yếu tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về du lịch . 15

1.3. Nội dung, chủ thể quản lý nhà nước về du lịch. 17

1.3.1. Chủ thể QLNN về du lịch . 17

1.3.2. Khách thể QLNN về du lịch . 18

1.3.3. Nội dung QLNN về du lịch. 18

pdf113 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phù, Cố Viên Lầu, v.v... Di tích lịch sử cách mạng: Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lƣu, núi Non Nƣớc, di tích chiến dịch Hà Nam Ninh v.v... Di tích tâm linh nho giáo: chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa Đồng Đắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, chùa Ngần Xuyên, chùa Non Nƣớc v.v... Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 74 lễ hội truyền thống và 145 hội làng mang đậm yếu tố dân gian, đậm đà văn hóa vùng đất châu thổ sông Hồng, tiêu biểu nhƣ Lễ hội chùa Bái Đính (Gia Viễn); Lễ hội làng Yên Vệ (Yên Khánh); Lễ hội đền Năn - chùa Quảng Thƣợng (Yên Mô); Lễ hội báo bản làng Nộn Khê (Yên Mô); Lễ hội đền Áp Lãng - cửa Thần Phù (Yên 41 Mô); Lễ hội đền La (Yên Mô); Lễ hội chùa Địch Lộng (Gia Viễn); Lễ hội cố đô Hoa Lƣ (Hoa Lƣ); Lễ hội đền Quảng Phúc (Yên Mô); Lễ hội đền Thái Vi (Hoa Lƣ); Lễ hội đền Trần - Tràng An (Hoa Lƣ); Lễ hội đền Quý Minh Đại Vƣơng (thành phố Ninh Bình); Hội đền Dâu (Tam Điệp); Hội Yên Cƣ (Yên Khánh); Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ (Kim Sơn); Lễ hội Noel tại giáo xứ Phát Diệm (Kim Sơn). Các lễ hội văn hóa ở Ninh Bình chủ yếu diễn ra ở mùa xuân, trừ số ít các lễ hội tƣởng niệm ngày mất của các vị danh nhân. Tính đến hết năm 2016, toàn tỉnh có 31 làng nghề đƣợc công nhận làng nghề cấp tỉnh. Trong đó có nhiều làng nghề truyền thống đặc trƣng của địa phƣơng nhƣ: Nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân, Hoa Lƣ; làng nghề gỗ Ninh Phong, thành phố Ninh Bình; làng nghề thêu ren Văn Lâm, Hoa Lƣ; làng nghề Chiếu cói, Kim Sơn. Về tín ngưỡng: Tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo với tổng số 198.390 tín đồ, chiếm 21,39% dân số trong đó tín đồ đạo Thiên chúa, chiếm 16,33% dân số, tín đồ Phật giáo chiếm 5,06% dân số. Chùa Bái Đính mới đƣợc mở rộng với quy mô hoành tráng trên diện tích 700 ha, đây sẽ là trung tâm văn hoá tâm linh Phật giáo lớn nhất Việt Nam mà còn có tầm cỡ trong khu vực. Về tín ngƣỡng dân gian, trên địa bàn toàn tỉnh có 1023 cơ sở, có 242 đình, 380 đền, 209 miếu, 148 phủ... Hệ thống các di tích văn hoá - lịch sử, các công trình thờ tự... làm cho Ninh Bình tiềm ẩn những giá trị văn hoá tâm linh phong phú, đa dạng. Về ẩm thực: Thịt dê núi Ninh Bình là đặc sản độc đáo và nổi tiếng nhất của Ninh Bình với đặc trƣng địa hình núi đá. Rƣợu Kim Sơn là đặc sản làng nghề vùng biển huyện Kim Sơn. Cá rô Tổng Trƣờng và cá tràu tiến vua là đặc sản của vùng núi đá hang động Tràng An của cố đô Hoa Lƣ. Cơm cháy Ninh Bình là đặc sản ẩm thực cùng thịt dê núi, còn có tên gọi là "nhất hƣởng thiên kim". Các đặc sản khác: Bún mọc Kim Sơn, nem Yên Mạc, mắm tép Gia 42 Viễn, cá chuối nƣớng Vân Long, rƣợu cần Nho Quan, khoai Hoàng Long, miến lƣơn Phát Diệm, quả dứa Đồng Giao 2.1.3.2. Về hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch * Hệ thống giao thông - Đường sắt: Ninh Bình là địa phƣơng nằm trên tuyến đƣờng sắt quốc gia Bắc - Nam. Toàn tỉnh Ninh Bình có 4 ga là: ga Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao. - Đường thủy: Ninh Bình có 22 sông, kênh có thể khai thác vận tải thủy với tổng chiều dài 387,3 km. Hiện Ninh Bình có 2 cảng chính do Trung ƣơng quản lý là cảng Ninh Bình và cảng Ninh Phúc. - Đường bộ: Toàn tỉnh hiện có 2.494 km đƣờng bộ. Trong những năm gần đây, hệ thống đƣờng bộ đƣợc đầu tƣ xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng, đặc biệt là các tuyến đƣờng bộ nối liền các khu, điểm du lịch trọng điểm của tỉnh nên rất thuận lợi cho việc giao thƣơng, đi lại. * Hệ thống thông tin liên lạc: Hoàn thành mạng VIBA với tổng đài TDX 1B và các tổng đài vệ tinh ở 8 huyện, thành phố, thị xã, trực tiếp liên lạc với các tỉnh trong nƣớc và quốc tế. 100% xã có điểm bƣu điện văn hóa và đƣờng truyền internet băng thông rộng (ADSL); trang thiết bị ngày càng hiện đại; các hình thức dịch vụ đa dạng, đảm bảo mạng lƣới thông tin phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của nhân dân. Hệ thống wifi cơ bản đƣợc sử dụng ở nhiều khách sạn, nhà hàng trên địa bàn thành phố Ninh Bình. * Hệ thống cung cấp điện, nước: Mạng lƣới điện trong tỉnh đƣợc xây dựng đến hầu hết các xã, với tổng chiều dài các loại đƣờng dây trung áp, hạ áp là 770 km; nguồn điện cơ bản đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Trên địa bàn tỉnh có 1 nhà máy nhiệt điện và 4 trạm phân phối điện; có trạm biến áp trung gian 500kv và 220 kv. Hiện nay, thành phố Ninh Bình có 03 nhà máy nƣớc đã đƣợc đầu tƣ với tổng công suất khoảng 6 vạn m3/ngày đêm; Thị 43 xã Tam Điệp có nhà máy nƣớc công suất 12.000 m3/ngày đêm. Các thị trấn của 6 huyện đều có trạm nƣớc máy công suất 2.000 - 2.200 m3/ngày đêm. Riêng một số xã có điểm du lịch đã có trạm xử lý và cung cấp nƣớc sạch phục vụ kinh doanh du lịch và cộng đồng dân cƣ địa phƣơng. * Hệ thống dịch vụ tài chính, ngân hàng: Đƣợc hình thành từ tỉnh đến huyện; thƣờng xuyên cải tiến nghiệp vụ và phong cách phục vụ; tăng cƣờng trang bị kĩ thuật hiện đại; thực hiện vi tính hoá trong quản lý và thanh toán, đáp ứng tốt hơn các công tác thanh toán, trao đổi hàng hoá dịch vụ. * Đào tạo - Dạy nghề: Ninh Bình có một trƣờng Đại học đào tạo đa ngành, một trƣờng Trung học Kinh tế - Kỹ thuật và tại chức; 4 trƣờng Cao đẳng dạy nghề; 04 trƣờng trung cấp nghề; 05 trung tâm đào tạo nghề của địa phƣơng và nhiều cơ sở đào tạo nghề của các tổ chức, cá nhân khác. * Đầu tư du lịch: Tính đến hết năm 2014,Ninh Bình đã thu hút 55 dự án đầu tƣ du lịch với số vốn 15.064 tỷ đồng. Các dự án chủ yếu là đầu tƣ hạ tầng du lịch, xây dựng cơ sở lƣu trú, khách sạn cao cấp; đầu tƣ phát triển khu du lịch, trung tâm dịch vụ du lịch và khu giải trí hiện đại nhằm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Nhìn chung các dự án phát triển theo đúng định hƣớng đƣợc quy hoạch; nhiều hạng mục công trình đã đƣa vào khai thác sử dụng phục vụ khách du lịch và bƣớc đầu làm thay đổi diện mạo du lịch Ninh Bình nhƣ khu Tràng An - Bái Đính, Cuc Phuong Resort & Spa, Emeralda... * Y tế: Ninh Bình đã xây dựng mạng lƣới y tế hoàn chỉnh từ tỉnh đến cơ sở. Tuyến tỉnh có Bệnh viện đa khoa 700 giƣờng với trang thiết bị hiện đại trong đó đang xây dựng khoa quốc tế - điều trị theo yêu cầu phục vụ khám chữa bệnh cho bệnh nhân ngƣời nƣớc ngoài; 08 bệnh viện đa khoa quy mô từ 120 - 200 giƣờng, cùng các bệnh viện chuyên khoa, phòng khám khu vực quy mô 20 giƣờng và các trung tâm y tế dự phòng. 44 2.1.4. Vị trí của du lịch Ninh Bình trong tổng thể du lịch vùng và cả nước Chiến lƣợc và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định tổ chức không gian du lịch Việt Nam gồm 7 vùng du lịch, trong đó Ninh Bình thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc, và thành phố Ninh Bình là trung tâm của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng [2]. Vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc, với Thủ đô Hà Nội là trung tâm vùng, bao gồm 11 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh), nơi có tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc mà tiêu biểu là Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Di sản văn hóa thế giới Hoàng Thành Thăng Long, Di sản hỗn hợp thế giới – Quần thể danh thắng Tràng An và các di sản văn hóa phi vật thể thế giới khác. Đây là những tài nguyên du lịch có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam. Với các trung tâm du lịch quan trọng là Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long; với nhiều điểm du lịch nổi tiếng nhƣ Vịnh Hạ Long, Yên Tử (Quảng Ninh); Hoàng thành Thăng Long, Hƣơng Sơn, Ba Vì, Cổ Loa (Hà Nội); Tràng An, Bái Đính, Cố đô Hoa Lƣ, Tam Cốc - Bích Động, Vân Long, Cúc Phƣơng (Ninh Bình); Cát Bà, Đồ Sơn (Hải Phòng); Tam Đảo, Tây Thiên (Vĩnh Phúc); Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dƣơng), trong thời gian qua, vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc luôn thu hút một số lƣợng lớn khách du lịch trong nƣớc và quốc tế, trong đó tỷ lệ khách du lịch quốc tế đến vùng luôn đạt khoảng 35 - 40% số lƣợt khách đi lại giữa các địa phƣơng trong cả nƣớc. So với các tỉnh, thành phố khác trong vùng, Ninh Bình là một tỉnh có 45 diện tích không lớn, nhƣng lại là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú và đặc sắc bậc nhất, với nhiều địa danh nổi tiếng trong cả nƣớc nhƣ Quần thể danh thắng Tràng An, vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng, khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Vân Long, suối nƣớc khoáng nóng Kênh Gà, nhà thờ đá Phát Diệm Đây là những điểm tài nguyên du lịch rất có giá trị mà không phải địa phƣơng nào cũng có đƣợc. Vì vậy, phát triển du lịch Ninh Bình sẽ là động lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc và du lịch cả nƣớc. Đặt Ninh Bình trong bối cảnh phát triển của không gian thủ đô Hà Nội mở rộng và trong mối liên kết với các tỉnh, thành phố trong vùng, đặc biệt là với Hạ Long (Quảng Ninh) cho thấy, Ninh Bình có một vị trí quan trọng trong tam giác tăng trƣởng du lịch Hà Nội - Hạ Long - Ninh Bình, khi đó Ninh Bình và Hạ Long sẽ trở thành các “đô thị du lịch vệ tinh” của Hà Nội với các sản phẩm du lịch hấp dẫn: “Hạ Long nƣớc” và “Hạ Long cạn”; là một điểm đến quan trọng và hấp dẫn trong hành trình “kết nối các kinh đô cổ”, với các chƣơng trình tham quan “du lịch về cội nguồn dựng nƣớc và giữ nƣớc, tìm hiểu văn hóa và lịch sử” của dân tộc Việt Nam. Trong hệ thống tổng thể du lịch quốc gia và Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, Ninh Bình luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống không gian, tuyến, điểm du lịch quốc gia và vùng. Về các chỉ tiêu du lịch chủ yếu, Ninh Bình luôn nằm trong số các địa phƣơng đón nhiều khách du lịch của cả nƣớc. Trong phạm vi vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, Ninh Bình là một trong bốn địa phƣơng đón nhiều khách du lịch nhất; có tổng thu từ du lịch và hệ thống cơ sở lƣu trú cao nhất 46 Bảng 2.1. So sánh các chỉ tiêu du lịch của Ninh Bình với một số tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc năm 2016 TT Các chỉ tiêu du lịch Đơn vị tính Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh Ninh Bình 1 Khách du lịch quốc tế Lƣợt khách 4.000.000 759.000 3.500.000 715.000 2 Khách du lịch nội địa Lƣợt khách 17.800.000 5.241.000 4.850.000 5.725.868 3 Tổng thu từ du lịch Tỷ đồng 62.329 2.149,4 13.200 1.765,0 4 Cơ sở lƣu trú du lịch Buồng 45.778 9.423 20.479 5.748 5 Lao động du lịch Ngƣời 88.000 13.180 120.000 18.000 6 Năng suất lao động Triệu đồng/ ngƣời 708,3 163,1 110,0 98,0 Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình 2.2. Thực trạng hoạt động du lịch tỉnh Ninh Bình Đánh giá chung, giai đoạn 2010 - 2017, du lịch tỉnh Ninh Bình đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ: Quần thể danh thắng Tràng An đƣợc vinh danh là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, trở thành Di sản hỗn hợp đầu tiên của Đông Nam Á, du lịch đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ninh Bình từng bƣớc trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn, trở thành một trong những trung tâm du lịch trọng điểm của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nƣớc; công tác quy hoạch phát triển du lịch đƣợc tích cực triển khai; hạ tầng du lịch đƣợc đầu tƣ, nâng cấp; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đƣợc tăng cƣờng; một số khu, điểm du lịch mới đƣợc đƣa vào khai thác; các chỉ tiêu về lƣợt khách, doanh thu du lịch, số lƣợng cơ sở lƣu trú, số lao động trong ngành du lịch ngày càng tăng, góp phần chuyển dịch cơ 47 cấu kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Theo báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 13/9/2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (khóa XIX) về phát triển du lịch đến năm 2020, định hƣớng đến năm 2030 [16], hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình đạt một số kết quả nhƣ sau: Về số khách du lịch: Trong những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nƣớc, hoạt động kinh doanh du lịch ở Ninh Bình bƣớc đầu đạt kết quả đáng khích lệ. Địa bàn du lịch đƣợc mở rộng; các điểm danh thắng đƣợc tôn tạo, nâng cấp; hệ thống các cơ sở lƣu trú du lịch đƣợc quan tâm đầu tƣ phát triển... đã tạo nên những chuyển biến rõ rệt trƣớc hết về số lƣợng khách du lịch đến Ninh Bình. Đặc biệt trong khoảng 7 năm trở lại đây (2010 - 2017), tốc độ tăng trƣởng trung bình khách du lịch đạt 12,45%/ năm. Bảng 2.2. Số lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2017 Đơn vị: Ngàn lượt khách Năm 2010 2012 2014 2015 2016 2017 Tăng trƣởng trung bình/năm Tổng số khách 3.096,6 3.712,0 4.301,5 5.993,2 6.441,5 7.056,2 12,45% Khách quốc tế 663,3 675,6 502,4 600,6 715,6 859,0 3,75% Khách nội địa 2.433,3 3.036,4 3.799,1 5.392,6 5.725,9 6.197,2 14,30% Nguồn: Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình 48 Về số khách du lịch lưu trú: Mặc dù số lƣợng khách du lịch đến Ninh Bình là rất lớn, có mức tăng trƣởng tƣơng đối cao, nhƣng số khách có lƣu trú còn hạn chế. Năm 2010, trong tổng số khách du lịch quốc tế đến Ninh Bình thì chỉ có 36.127 khách có lƣu trú, chiếm xấp xỉ 5,5%); còn đối với khách du lịch nội địa là 183.339 khách, chiếm trên 7,5%. Năm 2017, khách quốc tế lƣu trú là 150.574 khách, chiếm 17,5%; và khách nội địa là 623.819 khách, chiếm 10,1%. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khách du lịch ít lƣu trú ở Ninh Bình là: Ninh Bình ở gần Hà Nội, giao thông đi lại thuận tiện nên khách thƣờng lựa chọn lƣu trú ở Hà Nội (có điều kiện về dịch vụ tốt hơn), trong khí đó sản phẩm du lịch của Ninh Bình còn đơn điệu, chƣa có sức hấp dẫn khách du lịch ở lại Bảng 2.3. Khách du lịch có lưu trú ở Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2017 Đơn vị: Lượt khách Hạng mục 2010 2012 2013 2015 2016 2017 Khách quốc tế Số khách đến 663.284 675.570 521.548 600.563 715.603 859.030 Khách lưu trú 36.127 67.404 73.038 86.202 112.895 150.574 Tỷ lệ so với tổng số (%) 5,5 10,0 14,0 14,4 15,8 17,5 Ngày lƣu trú trung bình (ngày) 1,99 1,53 1,82 1,52 1,48 1,67 Khách nội địa Số khách đến 2.433.305 3.036.424 3.877.219 5.392.645 5.725.868 6.197.205 Khách lưu trú 183.339 200.332 179.771 334.107 441.714 623.819 Tỷ lệ so với tổng số (%) 7,5 6,6 4,6 6,2 7,7 10,1 Ngày lƣu trú trung bình (ngày) 1,55 1,53 1,45 1,28 1,26 1,66 Nguồn: Sở Du lịch Ninh Bình 49 Về doanh thu hoạt động du lịch: Cùng với sự gia tăng về số lƣợng khách du lịch, tổng thu từ du lịch của Ninh Bình có mức tăng trƣởng rất cao trong giai đoạn 2010 - 2017, với nhịp độ tăng trƣởng trung bình hàng năm đạt 24,3%/năm. Năm 2010, tổng thu từ du lịch của Ninh Bình đạt đƣợc 551.427 triệu đồng thì đến năm 2017 đã lên tới 2.528.284 triệu đồng; tăng gấp 4,58 lần. Bảng 2.4. Tổng thu từ du lịch của tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2017 Đơn vị: Tỷ đồng Hạng mục 2010 2011 2012 2103 2014 2015 2016 2017 Tăng TB (%/ năm) Tổng số 551 654 779 897 943 1.421 1.765 2.528 24,30 Từ khách quốc tế 212 263 216 216 220 267 365 550 14,60 Tỷ lệ % 38,49 40,21 27,70 24,06 23,38 18,77 20,66 21,74 - Từ khách nội địa 339 391 563 682 722 1.154 1.400 1.979 28,65 Tỷ lệ % 61,51 59,79 72,30 75,94 76,62 81,23 79,34 78,26 - Nguồn: Sở Du lịch Ninh Bình Về cơ cấu chi tiêu của khách du lịch: Trong những năm qua, du lịch Ninh Bình chủ yếu đáp ứng một phần nhu cầu đó là lƣu trú, ăn uống và vận chuyển khách. Dịch vụ lữ hành, hƣớng dẫn đƣa các đoàn đi tham quan danh lam thắng cảnh, hang động; lễ chùa... còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thu từ du lịch. Do vậy, lƣợng khách này thƣờng đi trong ngày, thời gian lƣu lại không lâu, ảnh hƣởng không nhỏ tới tổng thu của ngành du lịch. Hiện nay, ở Ninh Bình, trung bình mỗi ngày khách chi tiêu còn thấp. 50 Năm 2016, trung bình một khách du lịch quốc tế đến tỉnh Ninh Bình chi tiêu mỗi ngày khoảng 770.000 đồng (tƣơng đƣơng 35 USD) đối với khách lƣu trú và 400.000 đồng (tƣơng đƣơng 18 USD) đối với khách không lƣu trú; còn đối với khách nội địa, các chỉ tiêu tƣơng ứng là 550.000 đồng (tƣơng đƣơng 25 USD) và 210.000 đồng (tƣơng đƣơng 9,5 USD). Phần lớn khách du lịch chi tiêu vào dịch vụ lƣu trú và ăn uống; mua sắm hàng hóa, một số đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lƣu niệm... Về cơ sở lưu trú du lịch: Trong giai đoạn 2010 - 2017, hệ thống cơ sở lƣu trú tỉnh Ninh Bình đã phát triển với tốc độ nhanh. Năm 2010, cả tỉnh chỉ có 187 cơ sở lƣu trú đi vào hoạt động với 3.041 buồng; đến năm 2017 đã tăng lên 463 cơ sở với tổng số 5.999 buồng. Tốc độ tăng trƣởng trung bình cho giai đoạn 2010 - 2017 về số cơ sở là 13,8%/năm; về số buồng là 10,2%/năm. Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, hệ thống cơ sở lƣu trú của Ninh Bình đang phát triển cả về số lƣợng, chất lƣợng. Tuy nhiên, sự phát triển của các cơ sở lƣu trú du lịch còn mang tính tự phát, chƣa theo quy hoạch nên chất lƣợng kinh doanh dịch vụ lƣu trú chƣa cao, chƣa phù hợp với xu thế phát triển, chƣa đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, trong tỉnh vẫn còn thiếu những khách sạn thƣơng mại và khách sạn nghỉ dƣỡng cao cấp 4-5 sao. Cơ sở lƣu trú ở Ninh Bình tập trung chủ yếu ở thành phố Ninh Bình (119 cơ sở), huyện Hoa Lƣ (24 cơ sở), huyện Gia Viễn (18 cơ sở)... Đây là những khu vực có tiềm năng và hoạt động du lịch tƣơng đối phát triển. Nhìn chung, cơ sở lƣu trú trên địa bàn còn có quy mô nhỏ, dịch vụ bổ sung và chất lƣợng lƣợng phục vụ còn nhiều hạn chế, chƣa đồng bộ và đa dạng; số cơ sở đƣợc thẩm định xếp hạng từ 1 - 5 sao mới chỉ chiếm khoảng 12,1% (năm 2017). Tính đến hết năm 2017, Ninh Bình mới có 04 khách sạn từ 3 - 4 sao (01 khách sạn 3 sao và 03 khách sạn 4 sao), với tổng số 326 buồng (trong đó khách sạn Hoàng Sơn 4 sao có 137 buồng; khách sạn Legend 4 sao có 108 51 buồng; và khách sạn Yến Nhi 3 sao có 81 buồng); 27 khách sạn 2 sao với tổng số 972 buồng; 14 khách sạn 1 sao với tổng số 260 buồng. Tổng số khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 - 5 sao chiếm 12,1% trong tổng số cơ sở lƣu trú du lịch và 27,1% trong tổng số buồng phục vụ khách du lịch của tỉnh. Ngoài ra, ở Ninh Bình còn có những khu nghỉ dƣỡng cao cấp, điển hình nhƣ: Ninh Binh Hidden Charm Hotel & resort, Emeralda Resort Ninh Binh, Tam Coc garden resort, Cuc Phuong Resort & Villas. Đây là những khu nghỉ dƣỡng có lƣợng khách đến khá ổn định, loại hình cơ sở lƣu trú du lịch này thƣờng đón và phục vụ những khách du lịch có khả năng chi trả cao, và có thời gian lƣu trú dài ngày hơn ... Hơn nữa, việc ngƣời dân tham gia cung cấp dịch vụ lƣu trú tại nhà (homestay) ở khu vực Tam Cốc - Bích Động và một số điểm du lịch khác của tỉnh ngày càng gia tăng, chất lƣợng ngày càng cải thiện cũng đóng vai trò quan trọng trong cung cấp dịch vụ lƣu trú cho khách du lịch, đa dạng hóa sản phẩm du lịch và góp phần nâng cao sinh kế cho ngƣời dân địa phƣơng. Chất lƣợng các cơ sở lƣu trú du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhìn chung đã đƣợc cải thiện nhƣng thực sự vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay; còn thiếu những khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3 - 5 sao; các cơ sở lƣu trú du lịch khác mới chỉ đáp ứng đƣợc các nhu cầu tối thiểu của khách du lịch. Trang thiết bị ở một số khách sạn không đồng bộ, đã cũ và đang dần xuống cấp. Một số buồng nghỉ ở các khách sạn tƣ nhân còn hẹp, bài trí thiết kế nội ngoại thất chƣa hợp lý, vệ sinh chƣa đảm bảo theo yêu cầu. Ngoài dịch vụ lƣu trú và ăn uống, ở một số khách sạn hiện nay phát triển thêm các dịch vụ mới nhƣ massage, karaoke, bể bơi... Phần lớn các cơ sở lƣu trú du lịch trong tỉnh quy mô còn nhỏ (dƣới 10 buồng), thuộc các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn nhân lực đƣợc đào tạo từ các chuyên ngành khác sang quản lý hoạt động kinh doanh du 52 lịch, trình độ quản trị du lịch, khách sạn còn yếu. Do vậy, việc tổ chức kinh doanh du lịch nói chung còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, quảng bá, xúc tiến, xây dựng thị trƣờng và phát triển sản phẩm du lịch. - Về cơ sở vui chơi giải trí: Các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, dịch vụ phục vụ khách du lịch ở Ninh Bình nhìn chung còn rất hạn chế. Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh chƣa có khu vui chơi giải trí đích thực nào có thể phục vụ đƣợc nhu cầu giải trí cho khách du lịch, nhất là vào buổi tối. Ở các khách sạn lớn (3 - 4 sao), những dịch vụ bổ sung thƣờng chỉ bao gồm: massage, tennis, bể bơi, phòng karaoke... Gần đây, tỉnh Ninh Bình cũng đã chú trọng quy hoạch một số khu vui chơi giải trí, nhƣng các dự án này tập trung chủ yếu ở thành phố Ninh Bình, ở nơi khác chƣa có các cơ sở vui chơi giải trí. Sự hạn chế về các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, một mặt đã không kích thích đƣợc khả năng chi tiêu của khách, mặt khác đã hạn chế thời gian lƣu trú của họ, hạn chế khả năng thu hút khách du lịch đến với tỉnh Ninh Bình. Đây là một trong những nguyên nhân khách du lịch lƣu trú ở Ninh Bình ngắn ngày, ảnh hƣởng đến mức chi tiêu... Có thể nhận thấy rằng, hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2017 phát triển với tốc độ rất nhanh nguyên nhân chính có thể do tỉnh Ninh Bình đã chú trọng đầu tƣ phát triển du lịch đặc biệt với việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng quần thể chùa Bái Đính và việc Quần thể danh thắng Tràng An đƣợc công nhận là di sản thiên nhiên và văn hóa của UNESCO và đƣợc đƣa vào khai thác thƣơng mại. 2.3. Thực trạng QLNN về du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình 2.3.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch với nguồn tài nguyên du lịch rất đa dạng, phong phú. Nắm bắt đƣợc lợi thế đó, tỉnh Ninh Bình đã chủ 53 trọng công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển du lịch trên địa bàn. Dấu ấn đặc biệt trong việc phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình phải kể đến là sau khi Tỉnh ủy Ninh Bình ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 13/7/2009 về phát triển du lịch đến năm 2020, định hƣớng đến năm 2030. Nghị quyết xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp; phát triển du lịch bền vững, từng bƣớc đƣa du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhiều ngành, lĩnh vực cùng phát triển; coi trọng tính hiệu quả, tập trung đầu tƣ vào các lĩnh vực lƣu trú, vui chơi giải trí, làng nghề, mua sắm, ẩm thực... nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lƣu trú và tăng chi tiêu của du khách để tăng thu nhập từ du lịch; phát triển du lịch phải gắn với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn với an ninh quốc phòng và phải giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa ngƣời dân địa phƣơng với doanh nghiệp kinh doanh du lịch và Nhà nƣớc; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động, nâng cao vai trò quản lý nhà nƣớc về du lịch; gắn phát triển du lịch với giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Đồng thời Nghị quyết cũng đề ra 32 giải pháp, nhiệm vụ chia thành các lĩnh vực là (1) xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết phát triển du lịch; (2) đầu tƣ phát triển hạ tầng du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch; (3) huy động các nguồn lực, các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch; (4) tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc về du lịch; (5) phát triển thị trƣờng, đẩy mạnh quảng bá và xúc tiến du lịch; (6) chuẩn hóa và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực phục vụ du lịch; (7) nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng về phát triển du lịch [17]. Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU, UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành kế hoạch về phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020, định hƣớng đến năm 2030 trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị tham mƣu, chủ trì các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể. 54 Đến hết năm 2017, việc thực hiện nghị quyết, kế hoạch trên các lĩnh vực đạt kết quả tích cực. Về công tác quy hoạch phát triển du lịch: - Về quy hoạch tổng thể phát triển du lịch: UBND tỉnh đã trình Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số 230/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Quần thể danh thắng Tràng An. UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2015 tại Quyết định số 2845/QĐ-UBND ngày 17/12/2007. Năm 2016, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề cƣơng nhiệm vụ và dự toán kinh phí thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình đến năm 2025, định hƣớng đến năm 2030; chỉ đạo Sở Du lịch phối hợp với Tổng Cục Du lịch triển khai các bƣớc tiếp theo trong việc lập Quy hoạch. - Về quy hoạch chi tiết các khu du lịch: UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung và lập quy hoạch chi tiết các khu, điểm du lịch nhƣ: Khu du lịch sinh thái Tràng An, Khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính, Vùng bảo vệ đặc biệt khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lƣ, Khu du lịch sinh thái hồ Đồng Chƣơng, Khu du lịch phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn ... và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan đến lĩnh vực phát triển du lịch nhƣ: Quy h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_du_lich_tren_dia_ban_tinh_ninh.pdf
Tài liệu liên quan