Luận văn Quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn tại Việt Nam

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI

LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1.1. Một số khái niệm cơ bản . 10

1.1.1. Việc làm. 10

1.1.2. Lao động và lao động nông thôn. 11

1.1.3. Điều kiện làm việc cho lao động nông thôn. 13

1.1.4. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động

nông thôn . 14

1.2. Nội dung quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn. 17

1.2.1 Xây dựng Chiến lược lao động, việc làm. 18

1.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về việc làm đối

với lao động nông thôn. 19

1.2.3. Tổ chức về bộ máy và nguồn lực quản lý nhà nước về việc làm đối với

lao động nông thôn. 26

1.2.4. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về việc làm

đối với lao động nông thôn. 27

1.3. Vai trò quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn . 28

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động

nông thôn . 30

1.4.1. Yếu tố chính trị. 30

1.4.2. Yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa . 32

1.4.3. Yếu tố thuộc về cơ chế chính sách. 34

1.4.4. Yếu tố thuộc về đầu tư, nguồn lực tài chính. 35

1.4.5. Yếu tố về thị trường lao động . 37

1.5 . Kinh nghiệm quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn ở

một số địa phương và bài học kinh nghiệm . 38

1.5.1. Quảng Trị . 39

1.5.2. Tỉnh Tiền Giang . 41

1.5.3. Bài học kinh nghiệm. 44

Tiểu kết chương 1. 46

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI LAO

ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI VIỆT NAM

2.1. Tổng quan về việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. 47

pdf125 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tốc độ tăng bình quân năm của lao động làm trong khu vực này là cao nhất trong các nhóm. Điều này là do việc xuất hiện các khu công nghiệp, khu chế xuất, các cụm công nghiệp mở rộng tại khu vực nông thôn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại đây, thu hút lượng lao động dồi dào tại khu vực này. 49 2.1.1.3. Việc làm theo ngành kinh tế LĐNT tập trung nhiều ở khu vực dịch vụ, công nghiệp chế biến và thương nghiệp. Sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng về lao động đang làm việc, trong khi đó ngành nông lâm nghiệp và công nghiệp khai thác lại có xu hướng giảm về số lao động. Bảng 2.3. Tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm theo ngành kinh tế giai đoạn 2015-2018. Đơn vị tính: phần trăm (%) 2015 2016 2017 2018 Tổng 100 100 100 100 Nông lâm nghiệp 10,67 10,34 10,32 10,30 Thủy sản 1,95 1,82 1.84 1,80 Công nghiệp khai thác 0,61 0,66 0.53 0,48 Công nghiệp chế biến 21,04 21,18 20.97 20,77 Sản xuất phân phối điện ga, khí đốt 0,44 0,52 0.48 0,49 Xây dựng 5,73 6,50 6.51 6,53 Thương nghiệp 20,54 20,36 20.28 20,14 Khách sạn, nhà hàng 9,20 9,09 9.13 9,25 Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 7,09 6,91 6.63 6,71 Dịch vụ khác 22,73 22,61 23.31 23,52 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Năm 2018, lao động làm việc trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 23,52%, tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến, đạt 20,77%. Tỷ lệ LĐNT tham gia vào ngành công nghiệp khai thác chiếm tỷ lệ thấp nhất, chỉ đạt 0,48%. Trong khi đó lao động ở khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản chỉ đạt (thế 50 mạnh của khu vực nông thôn) 12,1%. Trung bình giai đoạn 2015-2018, ngành điện ga và khí đốt có tốc độ tăng lao động làm việc bình quân năm đạt cao nhất là 4,69%/năm, sau đó đến ngành công nghiệp chế biến đạt 3,66%/năm. Trong khi đó, ngành công nghiệp khai thác có tốc độ việc làm giảm bình quân năm là 4,87%/năm, sau đó là ngành nông lâm nghiệp có tốc độ giảm việc làm là 2,34%/năm. 2.1.2. Thu nhập 2.1.2.1. Thu nhập theo giới Thu nhập của người lao động ở khu vực nông thôn có sự tăng lên đáng kể, đến năm 2018, thu nhập bình quân của người lao động là 6.489,53 nghìn đồng, tăng đáng kể so với năm 2015. Tốc độ tăng thu nhập bình quân giai đoạn 2015- 2018 là 27,72%/năm. Bảng 2.4. Thu nhập của lao động nông thôn theo giới tính giai đoạn 2015-2018. Đơn vị: nghìn đồng Năm 2015 2016 2017 2018 Tốc độ tăng Nam 5.347,99 6.496,45 6.852,92 7.261,44 21,1 Nữ 3.690,76 5.120,84 5.224,16 5.648,15 22,55 Chung 4.488,72 5.831,65 6.073,85 6.489,53 21,72 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Thu nhập bình quân của lao động nam luôn cao hơn lao động nữ. Khoảng cách này có sự tăng lên trong năm 2018. Nếu như năm 2015, thu nhập bình quân của nam chỉ cao hơn nữ 1657,23 nghìn đồng/tháng, thì đến năm 2017, mức chênh lệch này là 1628.76 nghìn đồng/tháng và năm 2018 là 1613 nghìn đồng/tháng (thu nhập bình quân của nam cao gần gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của nữ năm 2018). Thu nhập của lao động nữ mặc dù thấp hơn nam giới nhưng có sự thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Tốc độ tăng thu nhập bình quân tháng của nữ là 22,55%/năm, cao hơn tốc độ tăng thu nhập bình 51 quân tháng của nam giới. Thể hiện được sự thay đổi đáng kể trong mức sống khu vực nông thôn và khoảng cách giới cũng có những tiến bộ nhất định. 2.1.2.2. Thu nhập theo tuổi Thu nhập trung bình của người lao động có sự thay đổi theo độ tuổi. Ở nhóm tuổi trưởng thành, thu nhập bình quân của người lao động là cao nhất.Bảng 2.5. Thu nhập của lao động nông thôn theo tuổi giai đoạn 2015-2018. Đơn vị: nghìn đồng Năm 2015 2016 2017 2018 Tốc độ tăng (%) Từ 15-19 3.314,66 2.803,53 2.914,28 3.091,09 12,03 Từ 20-24 3.338,65 4.318,04 4.537,66 4.808,15 12,81 Từ 25-29 3.732,97 5.228,84 5.619,82 5.958,54 13,13 Từ 30-34 4.729,51 5.966,81 6.344,21 6.849,89 16,92 Từ 35-39 5.157,73 6.544,4 6.958,33 7.378,74 21,52 Từ 40-44 5.415,79 6.685,56 6.911,48 7.427,97 26,66 Từ 45-49 5.226,53 6.579,46 6.847,72 7.013,9 26,84 Từ 50-54 4.622,28 6.353,99 6.714,02 6.827,29 25,08 Từ 55-59 3.362,48 5.739,45 5.992,84 6.332,21 33,41 Từ 60 trở lên 2720,99 4375,99 4.429,47 4618,43 58,39 Tổng 4.488,72 5.831,65 6.073,85 6.489,53 21,72 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Thu nhập bình quân của người lao động cao nhất nằm trong nhóm tuổi 40-44, đạt hơn 7,4 triệu đồng/người/tháng. Nhóm có thu nhập thấp nhất là nhóm 15-19, chỉ đạt khoảng 3 triệu đồng/người/tháng. Trong đó tốc độ tăng thu nhập cao nhất nằm trong nhóm lao động cao tuổi, đạt 58,39%/năm. Nhóm này có tốc độ tăng cao bởi năm 2015 thu nhập bình quân nhóm này chỉ đạt 2.720,99 nghìn đồng/người/tháng. Nhóm có tốc độ tăng thu nhập thấp nhất là nhóm 15-19, chỉ đạt 12,03%/năm. 52 2.1.2.3. Thu nhập theo trình độ chuyên môn Có sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người của người có trình độ cao và người không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Năm 2018, người có trình độ đại học đạt thu nhập bình quân 9221,27 nghìn đồng/người/tháng, trong khi đó người không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ đạt 5408,95 nghìn đồng/người/tháng. Bảng 2.6. Thu nhập của lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn giai đoạn 2015-2018. Đơn vị: nghìn đồng Năm 2015 2016 2017 2018 Tốc độ tăng Không có chuyên môn kỹ thuật 3.734,7 4.959,57 5.142,24 5.408,95 32,36 Sơ cấp 5.913,45 6.872,52 7.247,05 7.784,3 23,4 Trung cấp 5.423,47 6.037,49 6.551,94 6.827,03 15,18 Cao đẳng 6.542,32 5.637,72 6.390,83 7.015,36 11,22 Đại học 1.0084,4 8.267,57 8.725,34 9.221,27 8,43 Chung 4.488,72 5.831,65 6.073,85 6.489,53 21,72 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Có khoảng cách đáng kể về thu nhập của người lao động đạt các trình độ khác nhau, người có trình độ chuyên mô càng cao thì thu nhập càng lớn. Tuy nhiên, giai đoạn 2015-2018, cho thấy những người có trình độ đại học mặc dù thu nhập bình quân cao nhưng tốc độ tăng thu nhập bình quân năm lại thấp nhất, chỉ đạt 8,43%/năm. Trong khi đó, lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật lại đạt tốc độ tăng thu nhập bình quân cao nhất (32,36%/năm), điều này có thể thấy một tín hiệu đáng mừng với cuộc sống của người dân nông thôn vì đa phần trong số họ đều có trình độ chuyên môn thấp hoặc không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tuy vậy, người LĐNT cũng cần phải chủ động và được nâng cao trình độ để đáp ứng nhu cầu về xu hướng công nghiệp hóa hiện nay. 53 2.1.2.4. Thu nhập theo thành phần kinh tế LĐNT chủ yếu làm trong thành phần kinh tế ngoài nhà nước, nhưng thu nhập bình quân của lao động làm trong khu vực FDI lại đạt cao nhất, năm 2018 là 7388,93 nghìn đồng/người/tháng. Bảng 2.7. Thu nhập của lao động nông thôn theo thành phần kinh tế giai đoạn 2015-2018. Đơn vị: nghìn đồng Năm 2015 2016 2017 2018 Tốc độ tăng Khu vực kinh tế nhà nước 7.454,88 6.918,81 7.247,25 7.412,4 6,21 Khu vực kinh tế ngoài nhà nước 3.994,16 5.506,19 5.962,71 6.211,11 34,39 Khu vực FDI 5.749,4 6.743,8 7.074,16 7.388,93 7,01 Chung 4.488,72 5.831,65 6.073,85 6.489,53 21,72 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Khu vực kinh tế ngoài nhà nước có thu nhập bình quân thấp nhất, thấp hơn khu vực kinh tế nhà nước và FDI, người lao động ở khu vực nông thôn có đặc tính chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự làm, năng suất thấp. Trong những năm gần đây, có sự đầu tư của Nhà nước vào các khu công nghiệp, thu hút LĐNT làm việc tại đây, thu nhập của người dân nông thôn có những thay đổi đáng kể. năm 2015, thu nhập người lao động ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước chỉ đạt 3.994,16 nghìn đồng/người/tháng, thì đến năm 2018 mức thu nhập đã tăng lên 6211,11 nghìn đồng/người/tháng. Tuy nhiên, khu vực này lại có tốc độ tăng thu nhập cao nhất, đạt 34,39%/năm, cao gấp 5,5 lần tốc độ tăng bình quân khu vực kinh tế nhà nước và cao gấp 4,9 lần tốc độ tăng thu nhập bình quân khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. 2.1.2.5. Thu nhập theo ngành kinh tế Khu vực nông thôn, ngành nông nghiệp vẫn có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất, nhóm ngành có thu nhập bình quân đầu người cao là nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ. 54 Bảng 2.8. Thu nhập của lao động nông thôn theo ngành kinh tế giai đoạn 2015-2018. Đơn vị: nghìn đồng 2015 2016 2017 2018 Tốc độ tăng Nông, lâm nghiệp 2.719,57 3.423,48 3.384,6 3.037,63 67,53 Thủy sản 4.610,45 5.790,98 5.802,73 6.176,97 41,14 Công nghiệp khai thác 4.027,13 7.320,33 7.904,57 8.768,89 3,97 Công nghiệp chế biến 4.723,88 5.847,04 5.392,61 6.713,52 15,04 SX phân phối điện, ga khí đốt, nước 4.549 5.778,34 6.118,21 6.430,75 11,96 Xây dựng 4.857,04 6.302,67 6.558,19 6.879,79 14,47 Thương nghiệp 6.000,3 6.028,56 6.417,37 6.813,11 43,98 Khách sạn, nhà hàng 5.053,13 5.072,2 5.482,46 5.793,36 46,92 Vận tải, kho bãi, thông tin 6.312,81 6.975,61 7.281,07 7.975,9 20,25 Dịch vụ 7.321,87 6.522,4 6.847,56 7.245,86 11,31 Chung 4.488,72 5.831,65 6.073,85 6.489,53 21,72 Nguồn: Điều tra lao động, việc làm các năm 2015 đến 2018 [9] Có sự khác biệt về mức thu nhập theo các ngành kinh tế. Năm 2018, thu nhập bình quân của lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp chỉ đạt 3037,63 nghìn đồng/người/tháng, thấp nhất trong tất cả các nhóm ngành còn lại, nhưng lại đạt tốc độ tăng bình quân năm cao nhất 67,53%/năm (giai đoạn 2012-2018). Nhóm ngành công nghiệp khai thác có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất, đạt 8768,89/người/tháng (2018), nhưng lại đạt tốc độ tăng bình quân năm thấp nhất 3,97%/năm (giai đoạn 2015-2018). Ngành có thu nhập cao thứ hai có thể kể đến là ngành dịch vụ với mức thu nhập 7245,86 nghìn đồng/người/tháng và tốc độ tăng bình quân là 11,31%/năm. Nhìn chung, ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến đem lại mức thu nhập cao cho người lao động. Vì thế giải quyết việc làm cho LĐNT theo hướng tăng tỷ trọng các nhóm ngành này sẽ là một bước đi mới để thay đổi cục diện nông thôn Việt Nam. 55 2.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn 2.2.1. Yếu tố chính trị Trong những năm qua, sự ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn được giữ vững đã tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn nước ta phát triển. Từ chỗ là một nền nông nghiệp lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng lương thực, đến nay, về cơ bản, nền nông nghiệp nước ta đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Quan hệ sản xuất từng bước được đổi mới phù hợp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống dân cư. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn không ngừng được đổi mới. Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được nâng cao, dân chủ ở nông thôn được mở rộng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo... Có thể khẳng định rằng, việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn trong suốt thời gian qua đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Một trong những mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước mà Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định là tiếp tục “giữ vững ổn định chính trị – xã hội” thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; đồng thời, “khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ... Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội”. 56 2.2.2. Yếu tố về điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội Về kinh tế, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có dấu hiệu hồi phục, Việt Nam là một trong những nước ở khu vực châu Á có tốc độ tăng trưởng khá nhanh sau cuộc khủng hoảng. Chính phủ đã đưa ra những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, nông thôn đã có những tiến bộ rõ rệt, đời sống của nhân dân được cải thiện hơn, trình độ đô thị hoá nông thôn được nâng lên. Tuy nhiên, nền kinh tế trong nước còn gặp khó khăn như tăng trưởng kinh tế thế giới và các quốc gia trong khu vực chậm; một số cân đối kinh tế vĩ mô trong nước có biểu hiện chưa ổn định, cùng với hạn hán kéo dài và dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống dân cư. Nhìn chung, nông thôn Việt Nam vẫn là nông thôn lạc hậu và còn tồn tại một số hạn chế như sau: - Kinh tế nông thôn còn mang nặng tính chất thuần nông. Tính chất thuần nông đó đã làm cho sản xuất mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hoá thấp, năng suất đất đai, năng suất lao động, thu nhập và đời sống thấp. - Cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Giao thông, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gây trở ngại cho việc tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mạng lưới thuỷ lợi tuy đã được mở rộng nhưng không đồng bộ nên hiệu quả sử dụng còn thấp. Việc cung ứng điện cho nông thôn tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn ít, mới chủ yếu phục vụ đời sống và thuỷ lợi, chưa đáp ứng được nhu cầu điện cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Mạng lưới điện chưa có quy hoạch đồng bộ, thiếu an toàn, giá thành điện năng cao. Cơ sở chế biến và bảo quản nông sản phẩm còn thiếu và yếu về mọi mặt nên đã hạn chế đến quá trình chuyên môn hoá, tập trung hoá sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Từ đặc điểm khó khăn của việc phát triển nông thôn Việt Nam trên đây, một vấn đề đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là dần dần xoá bỏ sự lạc hậu của nông thôn, xây dựng và phát triển nông thôn giàu đẹp, tiến bộ 57 và văn minh. Về văn hóa - xã hội, trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, văn hóa nông thôn đang đứng trước những thuận lợi cơ bản cũng như những thách thức không nhỏ. Văn hóa nông thôn vẫn giữ được cho mình những điểm nhấn. Đó là sinh hoạt văn hóa mang đậm nét văn minh nông nghiệp trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội thôn làng tương đối khép kín; sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân gian kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều hình thức sinh hoạt và hưởng thụ văn hóa hiện đại, tạo điều kiện cho người dân sáng tạo và hưởng thụ văn hóa nhiều hơn, cao hơn; Mức sống của người dân tăng lên khá ổn định, tạo điều kiện gia tăng khả năng học tập, dịch chuyển, giao tiếp dưới nhiều hình thức; ý chí vươn lên của người nông dân trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực học tập vốn có truyền thống từ xưa... Tuy đời sống vật chất và tinh thần có được cải thiện từ sau đổi mới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhìn chung số hộ trung bình và nghèo vẫn còn lớn. Lương thực tuy có tạm đủ nhưng chất lượng bữa ăn còn thấp. Tình hình giáo dục ở nông thôn đã được mở rộng góp phần nâng cao trình độ dân trí nhưng số mù chữ còn chiếm khoảng 10-15%, nhiều học sinh trong độ tuổi đến trường nhưng thất học, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học còn quá thấp, chất lượng giảng dạy còn nhiều hạn chế. Mạng lưới y tế ở nông thôn tuy có phát triển nhưng bệnh tật của nhân dân còn nhiều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ suy dinh dưỡng, đặc biệt ở bà mẹ, trẻ em còn khá cao. Tình hình dân chủ, công bằng xã hội, luật pháp, kỷ cương chưa đảm bảo, tệ nạn xã hội chưa giảm. 2.2.3. Yếu tố thuộc về cơ chế chính sách Về chính sách đào tạo nghề cho người lao động, trong giai đoạn hiện nay đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho LĐNT nói riêng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Đảng đã đề ra hàng loạt chủ trương lớn, 58 và đã được thể chế hoá thành các chính sách cụ thể của Nhà nước liên quan đến công tác dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn. Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956) nêu rõ quan điểm: Đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng LĐNT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”. “Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển ĐTN cho LĐNT, có chính sách đảm bảo thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia ĐTN cho LĐNT [12]. Đây là cơ sở tạo hành lang pháp lý để hoạt động ĐTN cho LĐNT phát triển nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn theo mục tiêu đã đề ra. Theo Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, một trong những nhiệm vụ và giải pháp được nêu ra là giải quyết việc làm cho người nông dân, đây là nhiệm vụ xuyên suốt trong chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020”. Đây là chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng ở nông thôn. Để đạt tiêu chí về nông thôn mới, một xã phải đạt được 19 tiêu chí, trong đó có nội dung đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu LĐNT. Đó là những chính sách, giải pháp đồng bộ để phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta. Ngoài ra, rất nhiều các chính sách đã được các địa phương ban hành tại 59 các cấp góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển trong khu vực nông thôn để đảm bảo tạo việc làm ổn định cho LĐNT. 2.2.4. Yếu tố thuộc về đầu tư, nguồn lực tài chính Sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện có tính bước ngoặt cho doanh nghiệp nước ta phát triển. Hàng năm, có hàng trăm doanh nghiệp ra đời, trong đó có một số lượng lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tính đến 10/7/2012, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là gần 714.755 doanh nghiệp tăng 9.2% so với năm 2018. Trong sự phát triển của các doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân có tốc độ phát triển nhanh nhất. Sự phát triển của các doanh nghiệp (Nhà nước, tư nhân, FDI) đã tạo ra một số lượng lớn việc làm cho người lao động, chủ yếu là thanh niên, LĐNT. Nếu chỉ tính riêng khu vực các doanh nghiệp tư nhân, cả nước đến tháng 7 năm 2019 có 541.753 doanh nghiệp, khu vực FDI có 16.178 doanh nghiệp. [35], [36], [37]. Ngoài số lượng lớn các doanh nghiệp trong những năm qua, các trang trại cũng phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê, năm 2016, cả nước có 33.488 trang trại tạo ra việc làm thường xuyên cho khoảng 134.700 lao động, trong đó chủ yếu là thanh niên nông thôn. Sự nghiệp đổi mới cũng tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển mạnh. Theo số liệu thống kê, có nước có trên 3000 làng nghề sử dụng tới 30% LĐNT. Các làng nghề tập trung chủ yếu ở các vùng đông dân cư, vùng đồng bằng, rất gần các đô thị và dọc theo các sông. Ngành nghề của các làng nghề phát triển rất đa dạng, biến động tập trung vào chế biến nông sản, giết mổ, dệt, nhuộm, thủ công mỹ nghệ, tái chế chất thải, vật liệu xây dựng... Như vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước từ khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới đã tạo ra nhiều ngành nghề mới, nhiều việc làm cho thanh niên lao động ở mọi nơi. Điều này cũng có nghĩa là thu nhập của thanh niên lao động cũng được nâng lên nhiều so với lao động của họ thời kỳ trước đó. 60 2.2.5 Yếu tố thị trường lao động và lượng di cư tự do Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm năm 2018 của Tổng Cục Thống kê, “lực lượng lao động cả nước là 55,4 triệu người (chiếm 58,5% dân số), tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 68%); Quý II/2018, lực lượng lao động thanh niên (15-24 tuổi) cả nước chiếm 13,07% tổng lực lượng lao động, tương đương với hơn 7,2 triệu người” [34]. Từ năm 2007, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”1 với một nguồn lao động dồi dào, trẻ, có tri thức, là cơ hội dịch chuyển lao động theo hướng tích cực, là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, nếu được tận dụng hiệu quả sẽ góp phần đem lại những giá trị tích lũy trong tương lai khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số2, nhưng đồng thời cũng gây sức ép lớn về nhu cầu việc làm mỗi năm (giai đoạn 2011- 2018, bình quân lực lượng lao động gia tăng gần 600 nghìn lao động/năm). Chất lượng lao động từng bước được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế, quý IV/2018, cả nước chỉ có 22,22% lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ, đây là thách thức lớn đối trong việc nâng cao chất lượng và năng suất lao động, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0. Tính toán theo giá hiện hành năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% mức năng suất của Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia và bằng 56,7% NSLĐ của Philippin. Năng suất lao động Việt Nam thấp, nguyên nhân đó là mô hình tăng trưởng của nước ta hiện là tăng trưởng theo chiều rộng, phụ thuộc vào quy mô vốn và công nghệ, đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng còn thấp; môi trường thể chế còn chưa hoàn thiện để giải phóng tối đa năng lực sản xuất và sức lao động. 1 Tỷ số phụ thuộc chung (nhóm dân số từ 0-14 tuổi và nhóm dân số trên 65 tuổi so với nhóm dân số từ 15-64 tuổi) dưới 50% 2 Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới và dự báo của Tổng cục Thống kê, ước tính khoảng 18-20 năm nữa, Việt Nam sẽ già hóa dân số 61 Những năm qua, nhiều đô thị ở nước ta được mở rộng về quy mô không gian, dẫn đến dân số và mật độ dân cư tại các khu vực nội đô ngày càng tăng cao. Ngoài tác động tích cực là làm gia tăng tính năng động xã hội của LĐNT và thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, việc di cư từ nông thôn ra thành thị của một bộ phận LĐNT đã và đang gây áp lực không nhỏ đối với hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, nhà ở... khu vực thành thị và cũng gây khó khăn trong việc QLNN về việc làm. Sự phát triển của các đô thị lớn có sức hút mạnh mẽ đối với dòng di cư từ nông thôn. Thực trạng này khiến các đô thị phải gánh chịu nhiều sức ép về dân số và nghèo đói, chất lượng việc làm bị ảnh hưởng trầm trọng và cụ thể là việc gia tăng “việc làm phi chính thức” (các công việc như: bán hàng rong, lao động tự do,...) tại thành thị. 2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về việc làm đối với lao động nông thôn 2.3.1. Xây dựng chính sách, pháp luật về việc làm cho lao động nông thôn Việc xây dựng Chiến lược việc làm luôn là một trong những nội dung quan trọng mang tính chất định hướng của QLNN về việc làm. Chiến lược việc làm tại Việt Nam trong từng giai đoạn (2001 – 2010, 2011 - 2020 là sự cụ thể hoá những chủ trương, định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong lĩnh vực việc làm, đồng thời hướng tới thực hiện các mục tiêu về việc làm bền vững cũng như các tiêu chuẩn về việc làm theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế, do đó các mục tiêu của Chiến lược việc làm đều thể hiện sự nhất quán với Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và hướng tới các mục tiêu về việc làm đầy đủ, năng suất và bền vững cho tất cả mọi người, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Điều này được thể hiện rõ ở mục tiêu chính mà Chiến lược hướng đến, đó là thúc đẩy việc làm bền vững cho mọi người, cải thiện thu nhập, giảm nghèo và góp phần duy trì ổn định xã hội và cũng là định hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả QLNN về việc làm. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược việc làm giai đoạn 2001 – 2010 và 62 đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế và giải quyết việc làm nhưng vẫn phải đối mặt với những thách thức về TTLĐ cũng như đảm bảo hài hoà giữa tạo việc làm, phát triển kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Đầu những năm 2012, việc làm vẫn là vấn đề bức xúc, quy mô lực lượng lao động tiếp tục tăng (bình quân khoảng 700 nghìn lao động/năm) gây sức ép về tạo việc làm cho người lao động; chất lượng nguồn lao động còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế; phần đông lao động Việt Nam vẫn làm việc chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (48,7%) với năng suất thấp, do đó việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động the

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_viec_lam_doi_voi_lao_dong_nong.pdf
Tài liệu liên quan